Những Thất Bại Của CIA |
Trước
những biến
cố quan trọng trên thế
giới, câu hỏi thường được đặt ra là: CIA có nhúng tay vào không?, CIA có biết
trước được
vụ việc đó
không? Vừa
qua ngày 11-3-2014, Chủ tịch Ủy Ban T́nh Báo Thượng
Viện Hoa Kỳ,
bà Dianne Feinstein tố cáo CIA xâm nhập vào máy vi tính
của Thượng Viện. Giám đốc
CIA là John Brennan bác bỏ cáo buộc đó.
Thế
là tranh căi nổ ra, gây căng
thẳng giữa hai cơ quan đó. CIA
có nhiệm vụ thu thập và phân tích tin tức
của các chính phủ, các tổ chức và cả các
nhân vật quan trọng, có liên quan đến chính trị, quân sự, kinh tế
của các quốc gia, để
giúp chính quyền
Mỹ thiết
lập chính sách đối
ngoại với từng quốc gia một. Thu thập
tin tức có hai cách: công khai và bí mật. Công khai là
hợp pháp, v́ không hợp pháp nên phải dùng
biện pháp bí mật. Đồng
thời CIA thực hiện những công tác bí mật
do Tổng thống Mỹ trực tiếp điều khiển. CIA
có nhiều
thành công rực rỡ, và cũng
có những thất bại thê thảm như vụ đổ bộ lên Vịnh Con Heo ở Cuba năm 1961, và việc tổ chức
những toán biệt kích VNCH ra miền
Bắc trong kế
hoạch ngăn
chặn sự xâm chiếm
miền
Nam của Cộng Sản Bắc Việt. 2*
Những thất bại trong việc thả điệp viên ra Bắc của cơ quan t́nh báo CIA Năm
1968 đă
có khoảng 500 biệt kích bị bắt giam ở miền
Bắc và những gia đ́nh được thông báo là họ đă chết,
được
cấp cho mỗi gia đ́nh
4,000USD. Hai
mươi năm
sau, hơn 500 biệt kích được
trả tự do từ những trại tù miền
Bắc, nhiều
biệt kích đă
sống qua tù đày,
có người bị giam cầm gần 20 năm. Bài
viết
nầy giới hạn trong các điệp
vụ do CIA thực hiện dựa trên tài liệu
giải mật và những tin tức do các anh hùng
biệt kích thuật lại công tác trong thời gian
1961-1965 mà thố. Chi
tiết
những điệp
vụ tuyệt mật nầy đă
được
giải mật bởi tài liệu của Trung Tâm Nghiên
Cứu T́nh Báo thuộc CIA. Đánh
giá về
những thất bại trong việc thả biệt kích
xâm nhập miền
Bắc, tác giả Sedgwick Tourison mượn lời
một cựu biệt kích Việt Nam đă
phát biểu: “Tôi không cho rằng, không có toán
biệt kích nào thành công cả. Thực tế
đă
có những toán xâm nhập vào và rút ra an toàn, nhưng
đó chỉ là những điệp viên con thoi hoạt động
có tính chất chớp nhoáng, có tính gây rối
chỉ trong phạm vi phía Bắc khu phi quân sự mà
thôi. C̣n
các toán được
tung ra hoạt động
ở các vùng xa trên phạm vi rộng, và trong thời
gian lâu dài th́ hầu như hoàn toàn thất bại. H́nh
như các điệp
viên của chúng ta đă
bị đón
lơng trước khi họ được
tung ra miền
Bắc với bất cứ phương tiện nào: đường không, đường biển, đường bộ, ở nơi hẻo lánh hoặc
khu đông dân cư, dù ban ngày hay ban đêm,
th́ họ luôn được
công an Cộng Sản Bắc Việt chờ đón”.
Tác giả Sedgwick Tourison
trong cuốn Secret Army, Secret War (Đạo quân bí mật, cuộc chiến bí mật) viết như thế. Tourison
nguyên là một nhân viên CIA đă có nhiều năm hoạt động ở Việt Nam, Campuchia, Lào,
Thái Lan…Sau đó,
ông là thành viên của Ủy Ban Chuyên Trách về
POW/MIA (POW=Prisoner of war/ MIA= Missing in action) của Thượng
Viện Hoa Kỳ.
Ông đă bỏ công
sức 10 năm để viết cuốn Secret
Army, Secret War. Đây là những câu
chuyện có thật về hoạt động của đội quân gián điệp biệt kích
do Mỹ xử dụng trong chiến tranh
Việt Nam. Một đội quân
tới 500 người gồm 50 toán đă bị bắt, bị vô hiệu hóa khi thi hành
hoạt động tuyệt mật của
Washington chống lại Cộng Sản Bắc
Việt. 2.2. Lội qua sông Bến Hải Đêm 5-12-1960
một điệp viên
Việt Nam dùng ruột bánh xe hơi làm phao lội qua
sông Bến Hải. Trong tài liệu giải
mật, tên của điệp viên
nầy bị bôi đen. Một điệp viên
Việt Nam ở bờ bên kia giúp x́ xả hơi,
cắt ruột xe ra nhiều mảnh nhỏ rồi chôn để thủ tiêu dấu vết. Với giấy tờ giả mạo do CIA cung cấp, điệp viên nầy đă vượt
qua hai chốt kiểm soát của công an Bắc
Việt, anh đến thị
trấn Hồ Xá trước khi trở về miền Nam theo đường cũ. Tài liệu giải mật không cho biết điệp viên
nầy đă thực
hiện những nhiệm vụ ǵ ở bên kia sông
thuộc miền Bắc. Vào thời điểm
thực hiện việc xâm nhập đầu tiên
nầy th́ một viên chức cao cấp của CIA,
Robert Myers, đến thăm Sài G̣n và được trưởng
pḥng CIA Sài G̣n, William Colby, báo cáo chi tiết về dự án
tung gián điệp người
Việt Nam nhảy xuống miền Bắc. Myers cho rằng kế hoạch
rất khó thực hiện, nhưng Colby thuyết phục rằng có thể thực hiện ở
những khu vực ít dân cư. Trong báo cáo gởi về Tổng Hành
Dinh CIA ở Langley, VA, CIA Sài G̣n cho biết quá tŕnh chuẩn bị, từ
việc tuyển mộ, đào tạo điệp viên
phải mất một năm. Ngày 26-3-1961 CIA thực hiện việc xâm nhập đơn độc thứ hai. Một điệp viên được đưa tới
gần Đồng Hới, cách
khu phi quân sự không xa. Trong 5 ngày nằm vùng, điệp viên nầy quan sát hoạt động của công an miền Bắc, các kho quân sự nhỏ. Sau đó đi bộ đến sông Bến Hải và
lội về miền Nam vào lúc ban đêm. 2.4. Toán
biệt kích nhảy dù Castor và toán Echo Nửa đêm 27-5-1961,
CIA tiến hành
việc xâm nhập miền Bắc
bằng toán biệt kích nhảy dù mang tên Castor. Phi công
là những người được
tuyển chọn rất kỹ, lái phi cơ C-47 bí
mật bay qua không phận miền Bắc trong đêm trăng sáng. Sở dĩ chọn những đêm trăng từ mồng mười đến rằm đến đêm 20 âm
lịch, v́ phi công cần ánh sáng để lái, biệt kích cần ánh sáng để điều khiển dù xuống đúng băi đáp. Castor được
tuyển chọn rất kỹ với hy vọng họ
sống sót ở một khu vực xa xôi không có người
Kinh sinh sống. Thượng sĩ Hà Văn Chấp cùng ba
toán viên nhảy xuống đồi 885, cách
làng Nghĩa Lộ
tỉnh Sơn La một km. Dân làng báo công an Bắc
Việt là họ nghe tiếng động cơ của máy bay khi bay ngang qua ngôi làng
hẻo lánh của họ. Cả toán Castor bị
bắt sau 4 ngày chạm mặt đất. Nhân viên truyền tin bị
ép buộc phải làm việc cho Bắc Việt, đánh điện báo
cáo về CIA Sài G̣n là cuộc xâm nhập đă thành công. Ngày 2-6-1961 CIA cho toán Echo gồm ba người
xuất phát từ Đà Nẵng
nhảy xuống cùng vị trí của toán Castor
với mục đích là hai toán bắt liên lạc với nhau để thi hành nhiệm vụ. Phi công
trở về báo cáo cuộc nhảy dù suôn
sẽ, xem như thành công. Thế nhưng sau
khi chạm mặt đất, toán
Echo chịu chung số phận của toán Castor,
nằm trong tay an ninh Bắc Việt gồm công an vũ trang, bộ đội địa phương
và chó nghiệp vụ. Một biệt kích bị dù vướng
trên ngọn cây, anh ta cắt dây, té xuống đất bị găy
chân. Tiếp theo sau đó những toán
khác được
thực hiện như các toán: Atlas (12-3-1961), Eros (Thanh
Hoá ngày 10-3-1962), Swan (Cao Bằng ngày 4-9-1963), Tourbillon
(1962), Remus (1963), Easy (1963), Hector, Romeo (Quảng B́nh ngày
19-11-1965) … 2.5. Rơ ràng là CIA đă thất
bại Theo tài liệu “How American Lost the Secret War in North
Vietnam”- Kenneth Conboy, Dale Andradé, United Press, 2000 do
Bạch Hổ ghi lại nội dung như sau: Ngày 7-6-1962. Ba ngày sau. CIA thả 2 toán đi trên cùng một chiếc C-54, thả dù xuống Ninh B́nh và
Thanh Hoá. Hai toán nầy cũng biến mất luôn. Ngày 9-6-1962. Hai ngày sau. Hai toán khác lên đường nhảy xuống Hà Tĩnh và Nghệ An. Cũng bặt vô âm tín. Ngày 11-6-1962. Hai hôm sau. Hai toán biệt kích lên đường. Một toán mật
danh là Packer do Ngô Quốc Chung, người sắc
tộc Tày làm trưởng toán. Toán thứ hai gồm
ba người nhảy xuống tỉnh Ḥa B́nh. Cả
hai toán cũng im hơi lặng tiếng. Trong ṿng 7
tháng CIA đă thả ra Bắc 13 toán. Toán Packer th́ xui
xẻo hơn, nhảy ngay giữa làng. Nhân viên truyền tin rơi ngay trên nóc nhà của dân. Ở một mục tiêu, từ xa phi công thấy
lửa thắp sáng h́nh chữ “T” th́ bổng nhiên
súng pḥng không 12.7 ly bắn lên trúng nhiều chỗ trên thân phi cơ, nhưng
về đến nơi an toàn. Viên phi công người
Tàu Đài Loan rét quá, chê
đô la Mỹ nên
xin nghỉ việc, dông tuốc về Đài Bắc. Phi hành
đoàn Đài Loan khác cũng từ chối
chuyến bay tiếp tế được
lên lịch mà biệt kích và cả công an Bắc
Việt cũng đang chờ đón. Sở dĩ người
Tàu Đài Loan được mướn
thi hành công tác v́ họ có kinh nghiệm xâm nhập bí
mật vào lục địa. Từ khuyết điểm nhỏ là
chọn băi đáp không đúng, đưa đến bị bắt và từ bị bắt khiến cho Cộng Sản Bắc Việt thi hành những kế dụ địch, tung ra những mẻ lưới mà các anh hùng
vô danh của Việt Nam Cộng Ḥa phải rơi vào
tay giặc, kéo dài cuộc sống tù đày như địa ngục ở trần gian.
3.1.
Phạm Chuyên Phạm Chuyên sinh năm 1922 tại Tiền An,
tỉnh Quảng Ninh, là điệp viên
xâm nhập miền Bắc
bằng đường
biển đầu tiên. Hồ sơ Việt Cộng mô tả anh là một đảng viên thiếu kỷ
luật, vi phạm đạo đức, tự cao
tự đại, thái độ công
thần, gây mất đoàn kết nội bộ nên bị khai
trừ ra khỏi đảng. Bị
vợ bỏ nên anh trốn vào Nam vào tháng 6 năm 1959. Năm 1960, Pḥng Liên
Lạc Phủ Tổng Thống giao cho trung úy Đỗ Văn Tiên
(mật danh là François) phái một điệp viên đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Trung úy Tiên và nhân viên
CIA là Edward Reagan t́m được
người thích hợp là Phạm Chuyên, nhưng anh
từ chối. Trung tá Lê Quang Tung cử nhân viên theo dơi
và thuyết phục suốt 6 tháng anh Phạm Chuyên mới
nhận lời. Anh được đưa ra Nha Trang để làm
trắc nghiệm tâm lư và hai thử nghiệm khác, anh
đạt được điểm xuất
sắc. Anh dự các khoá huấn luyện thời gian
6 tháng. Theo kế hoạch th́
Hạ Long sẽ xâm nhập bằng đường biển đến Vịnh Hạ Long là quê nhà của anh. Tháng 2 năm 1961 từ
căn cứ Đà Nẵng Hạ
Long lên tàu Nautilus 1 theo hành tŕnh hai ngày về hướng Bắc. Nhưng v́
thời tiết quá xấu nên phải quay
trở về. Ngày 4-4-1961 từ tàu Naulilus 1
Hạ Long chèo xuồng nhỏ vào bờ, chôn giấu
hai máy truyền tin rồi đi thẳng về nhà cũ. Khi sum họp gia đ́nh, Phạm Chuyên thuyết phục em là Phạm Độ và hai người bà con tham
gia công tác. Liền sau đó anh gởi về Sài G̣n 22 bản tin. 3.2.
Lộ tẩy v́ bút bi Ngày 17-6-1961 công an Bắc Việt vây bắt Phạm
Chuyên tại nhà. Bắt đầu từ
việc một dân chài đi báo là đă thấy
một chiếc xuồng nhỏ giấu ở
bờ biển. Công an lục soát từng nhà, chú ư đặc biệt đến những gia đ́nh có liên
hệ với miền Nam và có
liên quan với chính quyền Pháp trước kia. Một dân làng báo cáo đă thấy người lạ mặt ở căn nhà mé biển, người lạ nầy ngoảnh
mặt đi khi họ chạm mặt nhau. Một dân làng khác cho biết anh ta thấy người trong nhà xử dụng bút
bi, môt thứ rất hiếm có ở miền Bắc. 3.3. Thành
lập Ban Chuyên Án BK63 Tài liệu Việt Cộng cho biết ngày 17-6-1961 Phạm Chuyên với mật danh là
Hạ Long, tên liên lạc là Ares đă bị
bắt và chịu hợp tác để
lấy công chuộc tội. Bộ Công An cử Cục trưởng Cục K61 là
Nguyễn Tài đến Quảng
Ninh trực tiếp chỉ đạo việc
xử dụng Phạm Chuyên thực hiện chuyên án
BK63 để bí mật đấu tranh
với CIA ở Sài G̣n. Phương thức được đặt ra là: - Duy tŕ chuyên án BK63 hoạt động lâu dài nhằm khống chế hoạt động t́nh
báo của CIA ở địa bàn Đông Bắc
Việt Nam - Phát hiện toàn bộ âm mưu, phương
thức và thủ đoạn hoạt động của gián điệp biệt kích xâm nhập miền Bắc Việt Nam. - Tổ chức câu nhử, đón bắt
những nhóm gián điệp khác
để chiếm giữ những phương
tiện kỹ thuật và vũ khí hiện đại của
CIA. 3.4.
Mở màn chuyên án BK63 Ngày 8-8-1961 dưới sự chỉ đạo của chuyên án BK63, phiên liên lạc đầu tiên của Phạm Chuyên
(Hạ Long-Ares) với đài P8M Sài G̣n,
mở màn cho một chiến dịch đấu trí
với CIA trong suốt gần 10 năm sau đó. BK63 đă qua mặt được CIA Sài
G̣n. BK63 cho biết, đă dụ địch tiếp tế 6 lần bằng cả đường biển và đường
hàng không, tịch thu được
nhiều phương tiện phục
vụ công tác gián điệp, thuốc
men, tiền bạc và cả vàng nữa. 3.5. CIA Sài G̣n tiếp tế cho gián điệp biệt kích
“Hạ Long” (Ares, Phạm Chuyên) 3.6. Giương bẫy
bắt gián điệp biệt kích
CIA Theo tài liệu Việt Cộng, họ dùng kế hoạch dụ địch, ban
chuyên án BK63 đă bắt
trọn toán Eagle và Dragon xâm nhập miền Bắc. 3.6.1. Toán
Dragon Câu chuyện của biệt kích quân Mộc A Tài trưởng
toán Dragon. Tất cả biệt kích trong toán Dragon đều có gốc rễ ở miền Bắc. Họ nói rành ngôn ngữ, đúng cách phát âm, biết rơ phong tục tập quán địa phương. Trong khóa huấn luyện, các toán viên nhận ra
rằng họ c̣n phải học hỏi thêm nhiều danh từ mới của chế độ mới ở miền Bắc. Những toán viên Dragon gồm có: Ṿng A Ung, Trênh A Sam,
Giác Tú Cam, Ṿng Hàng Quay và Trần Văn Mẫn.
Cả 6 người đều là sắc tộc Nùng. Họ đi trên ba chiếc thuyền buồm được đóng tại Đà Nẵng
theo khuôn mẫu của tàu đánh cá ngoài
Bắc. Toán Dragon và toán Eagle nằm trong kế dụ địch
của chuyên án BK63 nên bị bắt ngay sau khi đến nơi. 3.6.2. Toán
Eagle Ngày 27-6-1964 toán biệt kích Eagle được thả dù xuống khu vực gần biên
giới Việt Trung. Nhiệm vụ phá hoại đường sá, đường
rầy xe lửa, căn cứ không quân.
Họ chưa thi hành nhiệm vụ th́ bị mất
liên lạc. Toán nầy cũng nằm trong kế dụ địch của Cộng Sản Bắc Việt nên
chịu chung số phận với Ares Phạm Chuyên. Sau Tết Mậu Thân
năm 1968, CIA muốn
rút Phạm Chuyên về Sài G̣n,
chuyên án BK63 tổ chức cho Phạm Chuyên trở về miền Nam bằng đường
bộ, đến khu vực Vĩnh Linh th́
mất liên lạc. Hà Nội cho biết, thể theo yêu cầu của Phạm Chuyên và gia đ́nh, đương sự được đưa đến một nơi bí mật an toàn để Phạm Chuyên sống như một người
dân b́nh thường. CIA Sài G̣n chờ măi mà không thấy biệt kích
Hạ Long trở về. Tài liệu Việt Cộng cho biết, trong suốt gần 10 năm đương đầu với
CIA, ban chuyên án BK63 đă 13 lần
vượt qua những bẫy thử thách về an ninh của CIA, đă cung cấp 300 tin tức giả mạo, câu nhử
bắt hàng chục gián điệp biệt kích
xâm nhập miền Bắc, thu
giữ tàu địch, và hàng
tấn vũ khí hiện đại, thuốc
men, tiền bạc và có cả vàng nữa. Sau 45 năm các cơ
quan nghiên cứu của Mỹ khai thác hàng ngàn trang tài
liệu, gặp gỡ phỏng vấn hàng chục nhân
chứng và họ đă viết ra nhiều trang sách về điệp viên Ares. Cựu nhân viên t́nh báo CIA, Sedgwick Tourison cho biết: “Điệp viên Ares, tôi biết anh ta quá rơ đi chứ.Tôi đă nghiên
cứu hồ sơ của anh ta, anh ta có nhiều tên nhưng tên thật là Phạm Chuyên. Chúng tôi
tuyển mộ anh để đưa anh quay
trở lại Bắc Việt năm 1961. Anh ta
vẫn giữ liên lạc với chúng tôi cho tới năm 1968. Và tôi không biết rơ anh ta hoạt động cho chúng tôi hay hoạt động cho
Bắc Việt”. Theo đánh giá chung
của Việt Mỹ th́ 5 toán nầy h́nh như
bị địch kiểm soát và khống chế.
Từ năm 1965
trở về sau, công tác biệt kích nhảy
Bắc do Nhóm Nghiên Cứu và Quan Sát thuộc Bộ
Chỉ Huy Viện Trợ Quân Sự Hoa Kỳ ở Việt
Nam (MACV-SOG) phối hợp với Nha Kỹ Thuật
Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH thực hiện. Sau đó SOG
tuyển mộ nhân viên mới cho họ. 5* Vinh danh những anh hùng Biệt Kích
“vô danh” Những Anh Hùng “Vô Danh” “Những người trai trẻ hăng say lao ḿnh vào cuộc chiến để
bảo vệ dân chủ, tự do cho Tổ Quốc, dân
tộc trong một “quân đội bí mật của cuộc
chiến bí mật”. (Secret Army-Secret War) “Năm 1972, theo
Hiệp Định Paris th́ tù
binh Mỹ được
trao trả nhưng những người biệt kích như
chúng tôi th́ không được ai nhận cả. Sau 20 năm trong
cảnh tù đày, ngày
trở về th́ những người biệt
kích sống lang thang đói rách v́ không c̣n
một ai, kẻ th́ vượt biên, người th́ đă sang ngang. Và trong sổ bộ đời th́ họ là những “xác ướp biết đi” v́ đă bị khai
tử từ lâu. Trong bài diễn văn đọc ngày
29-10-1995 tại Georgia, một đại
diện Biệt Kích Nhảy Bắc phát biểu: “Thảm kịch của những biệt kích
Việt Nam không phải là ngẫu nhiên. Thất
bại của cuộc chiến tranh bí
mật Việt Nam là thất bại của những người
điều hành
cuộc chiến đó. Thảm
kịch của dân tộc Việt Nam cũng bắt
nguồn từ sự sai lầm và bội ước
trong quá khứ”. Phải đau ḷng
lắm mới thốt ra những lời trách cứ
nhẹ nhàng nhưng sâu sắc và thấm thía như
thế. Nhưng ai chịu trách nhiệm về những sai lầm của lịch sử trong quá
khứ đây? Kư giả Rô Lăng, cựu
trung tá Phan Lạc Phúc, cho biết: “Chúng tôi đi tù cải tạo dù đau đớn
khổ nhục đến đâu vẫn c̣n
có tên có tuổi, hàng tháng, hàng quí vẫn có liên
lạc với gia đ́nh. C̣n những
anh em biệt kích dù th́ đúng là “thượng
diệt hạ tuyệt” v́ không có quân bạ, quân
số, không có tên tuổi nào được đăng kư, không có chính
phủ nào, quân đội nào
thừa nhận. Không được
liên lạc với ai, coi như không c̣n có mặt trên
cơi đời nầy. Không được hưởng qui chế tù binh Geneve, và các tổ chức nhân đạo như Hồng Thập
Tự Quốc Tế, Ân Xá Quốc Tế cũng không biết làm sao mà
can thiệp”.
Sự kiện Vịnh Con Heo (Playa Giron-Bay of Pigs) là
một nổ lực quân sự của người
Cuba lưu vong được
CIA huấn luyện và quân đội Hoa Kỳ hỗ trợ, đổ bộ lên
Vịnh Con Heo để lật đổ chế độ Cộng Sản của Fidel Castro. Kế hoạch do Phó
Tổng thống Nixon đề xuất, Tổng thống Dwight D. Eisenhower phê
chuẩn. Phó Giám đốc CIA Richard
Mervin Bissell Jr. biên soạn và Tổng thống John F.
Kennedy phát lịnh tấn công, và giao toàn bộ cho CIA
trực tiếp diều khiển
gọi là Chiến dịch
Pluto. Ngân khoản 46 triệu USD. Quan điểm
của Tổng Thống Kennedy là: “Không thể để cho Cộng Sản thống trị Tây bán
cầu”. Theo kế hoạch,
sau khi đổ
bộ làm chủ Vịnh Con Heo (Playa Giron) một Chính
Phủ Kháng Chiến Lâm Thời được thành lập. Lập
tức, Hoa Kỳ công nhận đó là chính
phủ hợp pháp, và thể theo yêu cầu của chính
lâm thời, HK sẽ yểm trợ quân sự toàn
diện tiến hành lật đổ chế độ Cộng Sản Cuba. 6.2. Chuẩn bị
cuộc đổ bộ Tháng 4 năm 1960, CIA
bắt đầu tuyển
mộ người Cuba lưu vong ở Miami, Florida.
Việc huấn luyện được thực hiện nhiều nơi. Huấn luyện du kích,
bộ binh, nhảy dù, xâm nhập, phá hoại, đào tạo
phi công và lái xe tăng tại
nhiều nơi như ở Nicaragua,
Guatemala, Puerto Rico, ở trong nước th́ tại Fort
Benning (Georgia), Kentucky, New Orleans. Lực lượng Cuba lưu vong 1,500 người,
tự đặt tên là Lữ Đoàn 2506. Mỗi người được lănh 400USD và 175 USD
phụ cấp gia đ́nh. Ngày 9-4-1961. Tất cả nhân sự, tàu bè, xe tăng, xe bọc thép, phi cơ được chuyển từ Nicaragua đến Guatemala. 32 chiếc phi cơ ném bom B-26, một
số mang nhăn hiệu Không lực Guatemala (Fuerza Aérea
Guatemalteca), số c̣n lại xoá tất cả xuất
xứ Hoa Kỳ. 20 chiếc B-26 trong số đó được cải tiến, gắn thêm
súng máy và các bệ phóng hỏa tiễn. 6.2.1. Đổ bộ nghi binh ngày 14-4-1961 Đêm 14-4-1961, 164 người
Cuba lưu vong do Higinio “Nino” Diaz chỉ huy. Dùng thuyền nhẹ mang cờ hiệu Costa
Rica đổ bộ lên
Baracoa, tỉnh Oriente, trong khi đó, những
tàu chiến Hoa Kỳ thả neo ngoài
khơi, tạo cảm giác lực lượng sẽ đổ bộ lên địa điểm nầy. Đó là kế nghi binh. 6.2.2.
Tấn công phi trường Cuba ngày 15-4-1961 6 giờ sáng ngày 15-4-1961, 8 phi cơ ném bom B-26, chia làm
3 nhóm, tấn công 3 phi trường. Các phi cơ sơn
dấu hiệu “Lực lượng Không quân Cách
Mạng” (Fuerza Aérea Revolucionairia-FAR). Phi cơ cất cánh
từ Nicaragua, mục đích phá hủy
những phi cơ chiến đấu của
Fidel Castro. Kết quả, 10 phi cơ
của Castro bị phá hủy. Một phi cơ Mỹ
bị bắn rơi. 6.2.3. Chuyến bay giả ngày
15-4-1961 Ngày 15-4-1961, 90 phút sau khi 8 chiếc B-26 cất cánh, một phi công Cuba lưu vong giả
làm phi công của Fidel Castro đào ngũ, xin được đáp khẩn
cấp xuống phi trường quốc tế Miami, v́ phi
cơ bị trúng đạn,
hỏng máy. Anh tự khai là Juan Garcia và tuyên bố,
anh cùng 3 đồng chí đào ngũ khỏi Không Quân của Castro. Để dàn
cảnh như thật, cái tấm che động cơ
của chiếc B-26 được tháo ra, bắn đạn vào rồi ráp lại, cho nên
các phóng viên có thể chụp h́nh những vết đạn
của phi cơ. Một số B-26 của Hoa Kỳ mang số 933 của không quân Cuba. 6.3. Cuộc đổ bộ ngày 17-4-1961 6.3.1. Lực lượng
đổ bộ Lực lượng Cuba lưu vong 1,400 người chia
thành 6 tiểu đoàn của Lữ đoàn 2506. Hải Quân Hoa Kỳ huy động trên 20 chiến hạm đủ loại, bao gồm hàng không
mẫu hạm USS Essex và 2 tàu ngầm. 6.3.2. Cuộc đổ bộ nghi
binh lần thứ hai ngày 16-4-1961 Đêm 16-4-1961,
một cuộc đổ bộ nghi
binh được
thực hiện tại tỉnh Pinar del Rio, gồm
một toán quân nhỏ, kéo theo những chiếc bè phát ra những âm thanh tạo
cảm giác như một cuộc đổ
bộ thật sự đang diễn ra
ở nơi nầy. Nghi binh nầy có kết quả, là
Fidel Castro đă rời
bỏ Vịnh Con Heo. 6.3.3.
Cuộc đổ bộ
thật sự ngày 17-4-1961 Hai toán phá hoại dưới nước và người
nhái xâm nhập vào 2 vịnh nói trên, bật tín
hiệu cho 6 tiểu đoàn đổ bộ.
1,300 người Cuba lưu vong cùng xe tăng, xe bọc thép tiến lên bờ. Ở băi Larga, việc đổ
bộ bị tŕ trệ v́ những chiếc thuyền nhỏ bị đá ngầm và san hô làm hư
hỏng. Số là những băi san hô h́nh dạng
sắc bén được phi cơ do thám U-2 chụp h́nh, làm cho CIA
hiểu lầm, cho rằng đó là những đám rong biển, nên
chọn làm nơi đổ quân. Sự tŕ hoăn làm cho kế hoạch bị bại lộ. Đám dân quân trên bờ báo cáo về bộ chỉ huy của họ, trước khi họ
bị quân đổ bộ tiêu diệt. - 6 giờ 30 sáng Các phi cơ của Fidel Castro tấn công vào quân đổ bộ. Ở băi Larga một
chiến hạm Mỹ bị trúng hỏa
tiễn. Khoảng 270 người được
thả xuống, nhưng khoảng 180 người
bị chết ch́m hoặc bị bắn chết khi tiến vào
bờ. - Lúc 7
giờ sáng 7* Kết luận Một đại
diện của biệt kích đă phát
biểu: “Thảm kịch của những biệt kích
Việt Nam không phải là ngẫu nhiên. Thất
bại của cuộc chiến tranh bí
mật Việt Nam là thất bại của những người
điều hành
cuộc chiến đó”. Thất bại của CIA Sài G̣n đă đẩy hàng
ngàn thanh niên nhiệt t́nh bảo vệ Tổ Quốc
vào cảnh tù đày như địa ngục trần gian của
lao tù Cộng Sản. Một số chết trên đường hành
quân, chết khi đụng trận, bị xử
bắn khi bị kết án tử h́nh, chết v́ bịnh tật trong nhà giam, và
cuối cùng c̣n 500 người bị tù từ 10 đến 25 năm. Một trưởng biệt kích ghi lại những
kỷ niệm không quên, đó là câu chuyện của một
nhân viên sắp lên đường đi công tác. “Một nhân viên của tôi sắp lên đường. Anh đến gặp tôi và trao một chồng thơ khá dày đă đề sẵn tên người nhận.
Anh nói:”Anh Dũng, anh biết em là con một, em đi nhưng không dám nói thật cho
mẹ em, vậy em nhờ anh mỗi tháng đến thăm mẹ em và
trao cho mẹ em bức thơ nầy, nói là em đang đi học
ở ngoại quốc gởi về, cho mẹ
em yên tâm. Tôi xúc động. Nh́n
người thanh niên ấy với tất cả ḷng
thương yêu và mến phục. Hàng tháng, tôi đến thăm và trao thơ
cho bà mẹ. Nhưng đau đớn thay, lá thơ
cuối cùng đă được trao nhưng
khóa học…vẫn chưa măn”. (Nguyễn Văn Vinh) Trời thương, người thanh niên kiên cường
và hiếu thảo ấy đă trở về từ cơi chết sau 20 năm trong lao tù Cộng Sản. Nha Kỹ Thuật Âm Thầm Trong Bóng Tối, Th́ Vinh
Quang Không Vượt Khỏi Bóng Đêm. Trúc
Giang Minnesota
ngày 24-3-2014 |