Xưa
nay chiến địa nhường bao
Nội
không muôn dặm,
xiết
bao giăi dầu
(Cung Oán Ngâm Khúc).
Bài
Viết Về Nước Mỹ đầu tiên
của tác giả là “Một Chặng Đường”,
tự sự về hành tŕnh của một HO, đă
được phổ biến ngày 17 tháng Mười,
2014. Tác giả sinh năm 1952, dân Sài g̣n, cựu sinh viên
Văn Khoa, cựu Sĩ quan Quân đội Miền Nam,
một trung đội trưởng tác chiến.
Hồi cuối cuộc chiến, chàng là một thương
binh và buổi sáng ngày 1 tháng Năm 1975, bị đuổi
ra khỏi quân y viện...
Bài viết mới của tác giả không kể
chuyện xảy ra trên đất Mỹ, nhưng là
một hồi ức sống thực về cuộc
chiến c̣n trong tâm tưởng biết bao người
ở Mỹ.
*
* *
Anh
ạ! tháng tư mềm nắng lụa
Hoa táo hoa lê nở trắng vườn
Quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
Em mở ḷng xem lại vết thương
Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm
Sao em nh́n măi chẳng thấy quê
Hay sương thành lệ tra vào mắt
Mờ khuất trong em mọi nẻo về.
Đọc bài thơ này của Nhà thơ Trần
Mộng Tú, trong ḷng tôi chợt cảm thấy bàng hoàng.
Đă bao lần tháng Tư trôi qua, bao nhiêu nước
đă qua cầu, nhưng vết thương trong ḷng
tôi vẫn c̣n âm ỉ, tôi nghĩ nó sẽ chẳng
bao giờ lành cho tới ngày tôi nhắm mắt.
Thời ấy, đám sĩ quan trẻ chúng tôi
chỉ mới ngoài 20, đến nay đầu đă
chớm bạc, "cùng một lứa, bên trời
lận đận", sau cơn Đại hồng
thủy tháng tư năm 1975, lũ chúng tôi tản mác
khắp bốn phương trời: "... thằng th́
đang c̣ng lưng trong các shop may tại Santa Ana,
thằng đang làm bồi bàn ở Paris, thằng
đang chăn cừu ở New Zealand, có thằng đang
cắt cỏ ở Texas, và cũng có thằng đang
đạp xích lô ở Sài G̣n..." (trích). Mỗi năm
đến ngày 30-4, tất cả chúng tôi đều
bần thần ngơ ngác như kẻ mất hồn.
Không c̣n ai trách cứ chúng tôi hết, chỉ có chúng
tôi tự trách ḿnh. Chúng tôi đă làm ǵ cho Tổ
Quốc?
Trước năm 1975, tôi là người lính trong Quân
đội Miền Nam, với cấp bậc Sĩ quan
thấp nhất là Thiếu úy, với chức vụ
nhỏ nhất là Trung đội trưởng. Ngoài
số lương đủ sống mà tôi được
lănh hàng tháng, tôi không hề nhận được
bất cứ bổng lộc nào từ phía
"triều đ́nh". Tôi chỉ là một người
lính vô danh tầm thường như trăm ngàn người
lính khác, ngoài cuộc sống cực kỳ gian
khổ và hiểm nguy, chúng tôi không có ǵ hết,
kể cả hạnh phúc riêng tư của chính ḿnh.
Cho nên tôi không hề có mơ tưởng nào về
một hào quang của ngày tháng cũ.
Khi nh́n lại ḿnh, tôi viết như thắp một nén
hương tưởng niệm, những đồng
đội của tôi đă nằm xuống cho tôi
được sống, rộng lớn hơn hàng trăm
ngàn người đă chết để chúng ta có
cuộc sống ngày hôm nay, tại hải ngoại này.
Mùa Hè năm 1972, người Miền Nam thủa
ấy gọi là Mùa Hè Đỏ Lửa, mượn cái
tên từ tập bút kư chiến trường rất
nổi tiếng cùa Nhà văn Phan Nhật Nam. Mùa hè
đỏ lửa năm 72, là năm quân đội
của hai miền Nam Bắc dốc sức đánh
một trận chiến sanh tử, bên nào kiệt
lực bên đó sẽ bại vong.
Niên khóa năm 71-72, tôi là sinh viên Đại học Văn
Khoa Sai G̣n, năm đó tôi đi học trong một tâm
trạng bồn chồn không sao tả được,
và tôi cũng không c̣n tâm trí đâu để mà
học hành. Tin tức chiến sự từ các
mặt trận dồn dập gửi về, lúc đó
bạn bè lính tráng của tôi, lớp chết lớp
bị thương, lũ lượt kéo nhau về. Sau
này ngẫm nghĩ lại, tôi thấy Miền Nam lúc
đó không c̣n sinh khí nữa.
Chính quyền Miền Nam sau đó ra lịnh Tổng
Động Viên, tất cả nam sinh viên đều
phải nhập ngũ, trừ một số trường
hợp đặc biệt.
Giă từ Văn Khoa với đại giảng
đường 2 bát ngát, giă từ những bài
giảng rất lôi cuốn của Linh Mục Thanh Lăng,
của Giáo sư Nguyễn Thế Anh... giă từ
hết những ước vọng của thời
mới lớn, tôi tŕnh diện Khóa 4/72 tại Trường
Bộ Binh Thủ Đức. Năm đó quân trường
Thủ Đức chứa không xuể các thanh niên
nhập ngũ, nên đă đưa một số sinh
viên ra thụ huấn tại Trường Đồng
Đế Nha Trang, toàn bộ tinh hoa của tuổi
trẻ miền Nam đă tập trung vào hai quân trường
này. Miền Nam đă vét cạn tài nguyên nhân lực
để đưa vào cuộc chiến.
Vào quân trường, khóa 4/72 toàn là sinh viên các trường
Đại học tụ về, chúng tôi cùng làng xàng
tuổi nhau nên đùa vui như Tết. Tuổi
trẻ mà, lúc nào cũng vui cũng phơi phới yêu
đời, chuyện ngày mai đă có trời tính.
Thời gian 6 tháng quân trường gian khổ sao
kể xiết, bởi v́ huấn luyện nhằm
biến đổi một con người dân sự, thành
một người lính thật thụ là điều
không đơn giản. Không phải chỉ có các
kiến thức về quân sự, mà c̣n tạo
dựng nên một cơ thể gan thép, rèn luyện
gian khổ bất kể ngày đêm, bất kể
nắng nóng nung người hay mưa dầm băo táp.
Trong 5 tuần lễ đầu tiên bước vào trường,
gọi là giai đoạn huấn nhục, đây là
giai đoạn kinh hăi nhất trong đời lính
mới của chúng tôi. Hằng ngày chúng tôi phải
tuân phục sự chỉ huy điều động
của các Huynh trưởng khóa đàn anh, khi ra
lịnh họ hét lên nghe kinh hồn bạt vía, họ
nghĩ ra đủ loại h́nh phạt để
phạt chúng tôi ḅ lê ḅ càng, trong giai đoạn này
chỉ có chạy, không được đi... các
Huynh trưởng quần chúng tôi từ sáng sớm
đến chiều tối, buông ra là chúng tôi ngất
lịm, ngủ vùi không c̣n biết ǵ nữa hết.
Sau 5 tuần Huấn nhục, ai vượt qua
được sẽ tham dự Lễ gắn Alpha, chính
thức trở thành Sinh viên Sĩ quan.
Ngày qú xuống Vũ đ́nh trường, để
nhận cái lon Alpha vào vai áo, chúng tôi cảm thấy
rất tự hào, v́ đă lập được
một kỳ công, đă tự chiến thắng ḿnh
để trở thành một người lính đúng
nghĩa, không c̣n hèn yếu bạc nhược như
xưa nữa. Khi chúng tôi quá quen thuộc với các băi
tập như: băi Cây Đa, đồi 30, băi Nhà
xập, đồi Bác sĩ Tín... cũng là lúc
sắp đến ngày ra trường. Gần tới
cuối khóa, chúng tôi c̣n phải vượt qua
những bài học cam go như bài Đại đội
Vượt sông, Đại đội Tùng thiết,
Đại đội Di hành dă trại....
Cuối cùng, điều mà chúng tôi mong đợi
từ lâu, đó là ngày Lễ ra Trường. Tất
cả trong quân phục đại lễ, xếp hàng
ngay ngắn tại Vũ Đ́nh Trường. Rồi
một tiếng thét lồng lộng của Sinh viên sĩ
quan chỉ huy buổi lễ:" Qú xuống các Sinh
viên sĩ quan" Chúng tôi đọc lời tuyên
thệ: Danh dự, Tổ quốc, Trách nhiệm. Sau
đó được gắn lon Chuẩn úy lên cầu
vai. Tiếng thét lồng lộng lại cất lên:
"Đứng lên các Tân Sĩ Quan". Trong số chúng
tôi, có người ứa nước mắt, cái lon
mới được gắn lên vai, đă được
đánh đổi bởi biết bao mồ hôi gian
khổ.
Ngày hôm sau, chúng tôi tụ họp lên Hội trường
để chọn đơn vị. Tới phiên tôi
được xướng danh lên bảng chọn, có
một chuyện làm tôi nhớ măi. Đứng trước
tấm bảng phân chia về các đơn vị, tôi
định chọn về Sư đoàn 7 cho gần Sài
G̣n, bỗng cái ông Thượng sĩ đứng
phụ trách tấm bảng, bèn đưa ra lời bàn:"
Chuẩn úy nên chọn về Sư đoàn 9 v́ có vùng
trách nhiệm nhẹ hơn, Sư đoàn 7 trách
nhiệm vùng Cai Lậy- Cái Bè rất nặng
nề". Oái oăm thay, ngày lội hành quân của
tôi lại là vùng Cái Bè, v́ đơn vị tôi tăng
phái cho Sư đoàn 7.
Tôi tŕnh diện Bộ Tư Lịnh Sư đoàn 9
tại Vĩnh Long, được phân bổ về
Trung đoàn 14, lúc đó Trung đoàn đang hành quân
vùng Cái Bè. Từ Sài G̣n, qua Ngả Ba Trung Lương,
chạy thêm một đoạn xa nữa th́ tới Cai
Lậy, rồi tới Cái Bè, xong quẹo mặt
chạy tít mù vào sâu bên trong khoảng 20 cây số,
tới cuối đường lộ th́ gặp
một cái xă mang tên Hậu Mỹ, nơi đây chính
là cái ruột của Đồng Tháp Mười, lính
tráng hành quân vùng này nghe đến Hậu Mỹ là
đủ ớn xương sống. Không hiểu sao nơi
giữa Đồng Tháp Mười lại có một nơi
dân cư sinh sống bằng nghề nông rất trù phú.
Đám Tân Chuẩn úy chúng tôi, sau khi tŕnh diện,
được giữ lại Ban Chỉ Huy vài hôm
để t́m hiểu về cách làm việc của các
pḥng ban nơi này. Sau đó Ban Quân số phân chia chúng
tôi về các đơn vị. Vị Sĩ quan phụ
trách hỏi có Chuẩn úy nào t́nh nguyện về
Đại Đội Trinh Sát hay không? Tôi đáp
nhận, nói theo kiểu Cao Xuân Huy trong Tháng Ba Gẫy Súng,
tôi chọn về đơn vị tác chiến thứ
thiệt này, mà trong ḷng không có một chút oán thù nào
với phía bên kia, mà chỉ v́ cái máu ngông nghênh
tuổi trẻ, và kế đó là bị kích thích
bởi cảm giác mạnh của chiến trường.
Một Trung đoàn Bộ binh có 3 Tiểu đoàn và
một Đại đội Trinh sát, đám chúng tôi
có 12 thằng, được phân chia về các
Tiểu đoàn, chỉ có ḿnh tôi về Trinh sát. Sau
khi chia tay ở sân cờ xong, chúng tôi ra đi biền
biệt, hầu như không c̣n mấy khi gặp nhau
nữa. ĐĐTS cho người lên dẫn tôi
về tŕnh diện Đại đội trưởng,
lúc đó đơn vị đóng ngoài căn cứ
của Ban Chỉ huy Trung đoàn. Trung úy ĐĐ Trưởng
có biệt danh là Đại bàng, dáng người cao
to trông rất dữ dằn, cặp mắt ti hí luôn
luôn nh́n chằm chằm tóe lửa, giọng nói
gầm gừ trong cổ họng, tất cả toát lên
một nét uy phong làm khiếp sợ người đối
diện (trong đó có tôi nữa). Tôi đứng nghiêm
chào tŕnh diện theo đúng quân kỷ:" Chuẩn
Úy NĐC, số quân 72/150181, tŕnh diện Trung Úy".
Ông nhướng mắt lên nh́n tôi, trên gương
mặt h́nh như có nét thất vọng (măi sau này tôi
biết điều đó đúng như vậy). Nh́n
tôi một hồi, rồi phán cho tôi một câu:
"Anh về làm Trung đội phó viễn thám!".
Trời đất! tôi thầm nghĩ cái bằng
tốt nghiệp của tôi là Trung đội trưởng,
mà giao cho tôi làm Trung đội phó là sao nhỉ? Lúc
đó, tôi chớ hề biết rằng làm Trung đội
phó là c̣n may mắn, các sĩ quan về sau có khi c̣n làm
Trưởng toán Viễn thám, thiệt là chết
dở.
Đại đội TS lúc đó có khoảng trên trăm
người lính, được chia làm hai Trung đội
Trinh sát và một Trung đội Viễn thám. Các Sĩ
quan Trung đội trưởng ra trường trước
tôi vài khóa mà trông rất "ngầu", uống rượu
như điên, nói năng bạt mạng. C̣n lính tráng
nữa chứ, tôi nh́n họ mà sợ lắm, họ
được tuyển chọn từ các nơi khác
về đây, nên trông rất khiếp hồn.
Phần lớn họ thuộc gốc nhà nông, chỉ
biết đọc biết viết là nhiều. Lạ
một điều, những người lính này đối
với tôi rất lễ độ, có lẽ phát
xuất từ kỷ luật của quân đội.
Sau một thời gian sống gần gủi với
họ, tôi thấy họ là những người
rất đáng mến, thật thà chất phát, coi
trọng nghĩa t́nh, một khi họ quí trọng
một cấp chỉ huy nào th́ họ sẵn sàng
xả thân, và họ không dễ sợ như tôi nghĩ
lúc ban đầu.
Vài hôm sau, gặp bữa ĐĐ tề tựu đông
đủ, Đại bàng đưa tôi ra giới
thiệu trước hàng quân, rồi ông bảo tôi phát
biểu. Trời đất ơi! tôi run quá, hai đầu
gối cứ run lẩy bẩy, tôi có bao giờ nói
chuyện trước một đám đông trông
khiếp vía như thế này bao giờ đâu. Cho nên
tôi ngượng nghịu lắm, vừa nói vừa ngó
xuống đất, không dám ngó mặt ai, bẽn
lẽn như cô dâu mới về nhà chồng. Bây
giờ nghĩ lại, tôi không c̣n nhớ tôi nói cái ǵ
nữa, nhưng tôi vẫn nhớ tiếng chắt lưỡi
bực ḿnh của Đại bàng đứng sau lưng
tôi, nói được chừng 10 phút th́ tôi hụt hơi
hết sức, Đại bàng phải ra lịnh
giải tán đám đông. Ông giận dữ kéo tôi
ra chỗ vắng, rồi hất hàm hỏi tôi:
"Chuẩn úy tốt nghiệp Trường Sĩ
quan nào vậy?" Tôi biết ngay là có chuyện không
ổn, mỗi khi xếp gọi ḿnh bằng cấp
bậc là tai họa đến nơi rồi. Tôi đứng
nghiêm, trả lời: "Dạ tôi tốt nghiệp
từ Trường Bộ Binh Thủ Đức".
Ông ta bèn xán cho tôi một câu nhớ đời:
"Vậy mà tôi tưởng Chuẩn úy tốt
nghiệp từ Trường Nữ Quân Nhân!" Tôi
nghe mà choáng váng mặt mày, ông đă điểm trúng
tử huyệt của tôi, v́ hồi c̣n là sinh viên sĩ
quan trong trường Bộ binh, chúng tôi thường
coi là điều sỉ nhục khi bị cấp trên
mắng là Nữ quân nhân. Tối hôm đó khi đi
ngủ tôi lặng lẽ ứa nước mắt.
Tôi về làm Trung đội phó cho Chuẩn Úy Vương
Hoàng Thắng, khóa 3/72, anh ta là người trí
thức có bằng Cử nhân Chính trị Kinh doanh.
Thấy tôi cà ngơ cà ngáo, anh thương t́nh kêu
đệ tử giúp đỡ cho tôi mọi
chuyện. Chiều hôm đó, tôi lại gặp
một chuyện khôi hài, dở khóc dở cười,
không sao quên được.
Thường thường chiều đến, lính tráng
kéo ra bờ sông tắm giặt, tôi cũng đi
tắm như họ. Thay v́ nhảy ào xuống sông bơi
lội như mọi người, tôi lại rất
sợ đỉa nên đứng trên bờ cầm nón
sắt múc nước sông dội lên người.
Tắm một hồi, tôi cảm thấy có cái ǵ
đó là lạ, nh́n quanh thấy mọi người
chăm chú nh́n tôi, rồi c̣n xầm x́ bàn tán ǵ
đó. Bỗng nhiên cả đám cười rộ lên,
có anh lính lên tiếng: "Sao Chuẩn úy không
xuống tắm với tụi tôi mà đứng chi trên
bờ, ư trời ơi! sao nước da của
Chuẩn úy trắng nơn như da con gái vậy"
Tôi ngượng điếng người, cảm
thấy máu chạy rần rần trên mặt, muốn
chui xuống đất mà trốn cho đỡ xấu
hổ. Vậy mà đă hết đâu, cái ông Thượng
sĩ già đứng gần đó c̣n đớp thêm
một câu:" Ư cha! cái bàn chân của Chuẩn úy
đẹp như bàn chân của các tiểu thơ, bàn
chân này chắc sẽ có số sướng lắm
đây!" Thật là khổ cho cái thân học tṛ,
hết là Nữ quân nhân, bây giờ lại giống
con gái, thiệt chán.
Miền Tây là vùng đất nổi danh śnh lầy,
Hậu Mỹ là nơi tiếp đón tôi trong
những ngày đầu về đơn vị và cũng
là nơi śnh lầy ghê khiếp. Dân trong xă người
ta cất nhà dọc kinh Tổng đốc Lộc, ra
khỏi mí vườn là ruộng lúa xạ ngút ngàn.
Sáng sớm, lính tráng lo cơm nước xong xuôi, là
bắt đầu nai nịt lên đường, để
tham dự cuộc hành quân lục soát hàng ngày. Bước
ra khỏi mí vườn là bắt đầu lội
ruộng, trước tiên nước đến ngang
đầu gối, rồi khi vượt qua những trăng
sâu, nước cao tới ngực, và cứ thế chúng
tôi ướt sũng từ sáng tới chiều, cho nên
quần áo chúng tôi nhuộm phèn vàng chạch, trông
rất kỳ quái.
Hậu Mỹ là vùng lúa xạ nên rất ít bờ
ruộng, khi đă đặt chân xuống ruộng là
phải đi một mạch cho tới bờ bên kia cách
xa vài cây số, không ngừng giữa đường
được. Đất ruộng người dân cày
xới lên, thành từng tảng đất to như trái
dừa lớn, ngổn ngang kín mít mặt ruộng và
nước th́ lấp xấp. Tôi vừa đi vừa
lựa thế đặt chân xuống, śnh lầy bám
chặt nên khi rút bàn chân lên thật khó nhọc.
Mặt trời rọi ánh nắng gay gắt khiến
mồ hôi tuôn ra đầm đ́a, lúc đầu tôi
c̣n lấy tay áo gạt mồ hôi, sau cứ để
mặc, mồ hôi nhỏ lăn tăn lên mặt
ruộng. Đó là tôi mang ba lô rất nhẹ, chỉ
có quần áo đồ đạc cá nhân, c̣n lương
thực lều vơng đă có người lính đệ
tử mang vác phụ. Tôi ngó qua những người lính
đi chung quanh, thấy họ mang vác rất nhọc
nhằn, phải oằn lưng mang lều vơng, súng
đạn, ḿn bẫy, gạo, cá khô, đồ
hộp, mắm muối, xẽng, dao... người th́
đeo trên ba lô cái nồi, người th́ mang cái
chảo, họ lặng lẽ bước đi, tôi không
nghe một lời than van nào, họ cắn răng
lại mà cam chịu, bởi v́ có than van cũng
chẳng ai nghe. Khi đi tới bờ kinh ở tít
đằng xa, áo tôi ướt sũng mồ hôi, cho
đến nỗi, tôi cởi áo vắt mồ hôi
chảy ra ṛng ṛng. Tôi mệt muốn đứt
thở, bèn nằm vật ra đất, tôi mặc
kệ hết mọi điều, không c̣n biết
trời trăng ǵ nữa hết. Lúc đó tôi nghĩ
có ai bắn cho tôi một phát súng ân huệ, chắc
c̣n sướng hơn là sống, đời lính sao mà
khổ quá!
Theo Đặc san Cư An Tư Nguy, phát hành tại San
Diego, th́ Trường Bộ Binh Thủ Đức
đă đào tạo 55 ngàn Sĩ quan, trong số đó
có 15 ngàn Sĩ quan đă tử trận và không dưới
10 ngàn người đă trở thành Phế binh.
Trung đội trưởng là chức vụ đầu
tiên của Sĩ quan mới ra trường và là
chức vụ duy nhất chỉ huy bằng miệng (các
cấp cao hơn th́ chỉ huy qua máy truyền tin). Khi
xung phong chiếm mục tiêu, Sĩ quan Trung đội
trưởng cũng ôm súng chạy ngang hàng với lính.
Khi đóng quân pḥng thủ đêm, Trung đội trưởng
cũng nằm ngang với lính. Trước mặt
Trung đội trưởng Trinh sát không có bạn
nữa mà chỉ có phía địch quân. Cho nên lính
dễ chết th́ Trung đội trưởng cũng
dễ chết y như nhau, súng đạn th́ vô t́nh nên
không phân biệt ai với ai, quan với lính đều
b́nh đẳng trước cái chết. Đó là lư
do giải thích tại sao Chuẩn úy mới ra trường
chết như rạ là v́ thế.
Có một bữa, tôi lội hành quân với đơn
vị, đang b́ bơm lội śnh, th́ tiếng súng
nở rộ lên phía trước, Trung đội
tản ra, tôi cùng Chuẩn úy Thắng và đám đệ
tử tấp vào một lùm chuối khá lớn. Tôi
đứng đó nh́n trời hiu quạnh, trong khi
Chuẩn úy Thắng chuyện tṛ với Đại bàng
qua máy truyền tin. Sau đó im ĺm không nghe thấy
lịnh lạc ǵ cả. Bỗng tay lính truyền tin nói
với Ch/U Thắng: "Đại bàng kêu Ch/U lên tŕnh
diện gấp." Anh Thắng bỏ đi một
hồi, th́ lính truyền tin lại bảo tôi: "Đại
bàng muốn gặp Ch/U Châu"
Tôi mới vừa cầm ống nghe áp vào tay, th́ nghe
chửi xối xả, giọng ông lồng lộng
một cách giận dữ, té ra là do Ch/U Thắng quá
sợ nên không dám xua quân tấn công. Đại bàng
gầm lên bảo tôi: "Nè! Ch/U Châu, tôi giao Trung
đội lại cho ông, ông có dám dẫn quân lên
đánh mục tiêu trước mặt hay không? Tôi
nghe lịnh mà sợ muốn "té đái trong
quần", run lập cà lập cập rồi
trả lời tuân lịnh. Tôi tháo ba lô quăng lên
bờ ruộng cho nhẹ người, rồi cầm
khẩu súng tiểu liên M16, miệng chỉ kịp kêu
lớn: "Tất cả theo tôi". Lúc đó tôi
"quíu" quá, nên không c̣n nhớ đến bài
bản chiến thuật nào từng học ở quân
trường.
Tôi xông lên, vừa chạy vừa bắn vừa la (không
biết la cái ǵ nữa!) Cả trung đội
hoảng hốt sợ tôi bị bắn chết, nên cũng
vùng dậy chạy theo. Phía bên kia, thấy tôi
chạy dẫn đầu rất hung hăn, chắc tưởng
sau tôi là đại quân ghê gớm, bèn lập tức
tháo lui. Trong lúc vội vàng họ c̣n bỏ lại
mấy cây súng AK nữa chứ. Tôi thanh toán mục tiêu
chỉ đâu chừng 10 phút. Ai cũng tưởng tôi
gan dạ chứ đâu có biết rằng tôi làm
được như thế v́ quá "rét" ông
xếp dữ dằn.
Sau đó Đại bàng kéo quân lên, ông nh́n tôi gườm
gườm, có lẽ ông chưa thấy một Sĩ
quan nào lại lập chiến công "khùng điên ba
trợn" như tôi. Hết cơn giận, ông
trả quyền chỉ huy trung đội lại cho
Ch/U Thắng, tôi trở về vị trí cũ.
Sau “chiến công đầu tiên”, tôi được
điều qua các Trung đội khác, xử lư công
việc tạm thời cho các Trung đội trưởng
đi phép hay bị thương. Một điều may
mắn, (hay Trời đăi kẻ khù khờ!) khi
nắm quyền tạm thời đó, với những
trận đánh mà tôi tham dự, tôi đều hoàn thành
nhiệm vụ một cách tốt đẹp. Đại
bàng đă nh́n tôi bằng cặp mắt đỡ aí
ngại hơn ngày đầu mới gặp tôi.
Ông Đại bàng này sau đó thuyên chuyển qua
đơn vị khác. Đại bàng mới đến
thay thế cũng mang cấp bậc Trung Úy, nhưng dáng
dấp thư sinh, ăn nói hiền lành hơn ông trước.
Trong bữa nhậu bàn giao chức vụ, ông cũ
giới thiệu các sĩ quan trong đơn vị cho
ông mới. Sau khi điểm mặt 3 Trung đội
trưởng, cuối cùng ông ta chỉ tôi là một
Trung đội phó, rồi đưa ra nhận xét làm
sửng sốt mọi người: "... đây là
một sĩ quan xuất sắc, một tay chơi
tới bến của đơn vị..." Hai người
sửng sốt nhất hôm đó là tôi và ông Đại
bàng mới. Đối với tôi, tôi chỉ cố
gắng làm tṛn nhiệm vụ của ḿnh. Với
Đại bàng mới, ông ta lấy làm lạ v́ ông
cứ ngỡ sĩ quan xuất sắc nhất phải
là mấy ông Trung đội trưởng kia, sao
lại là cái tay Trung đội phó trông hết
sức ngớ ngẩn này. Có lẽ v́ cái nhận xét
này, chỉ một thời gian ngắn sau đó, tôi
được Đại bàng mới cất nhắc lên
làm Trung đội trưởng thật thụ.
Tham dự hết trận đánh này đến
trận đánh khác, để sống c̣n, không c̣n
con đường nào khác, tôi phải tận lực
lo công việc của ḿnh. Càng ngày tôi càng đạt
được sự tin cậy cao nơi cấp
chỉ huy, chính điều đó đă đẩy
trung đội tôi vào chốn hung hiểm. Khi Đại
đội tiến quân vào nơi tử địa,
trung đội tôi được lịnh đi đầu,
khi rút quân từ nơi đó ra, chúng tôi bao chót. Khi
tấn công vào mục tiêu, chúng tôi được
giao nơi khó gặm nhất, và khi pḥng thủ th́ chúng
tôi nằm nơi dễ chết nhất.
Người ta thường nói: "Nhất tướng
công thành, vạn cốt khô", tôi không phải là tướng,
chỉ là một sĩ quan có cấp bậc và
chức vụ thấp nhất, nhưng lính tráng dưới
quyền tôi đă chết la liệt, có khi chết
nhiều và nhanh chóng đến nỗi tôi chưa
kịp nhớ mặt người lính của ḿnh
nữa. Bởi sự tin cậy của Đại bàng
dành cho tôi mà trung đội tôi phải chịu
những tai ương này.
Ông ta rất quí mến tôi, chưa hề quát mắng
tôi một tiếng nặng lời nào, có món ăn
ngon, ông sai đệ tử đến mời tôi dùng
cơm với ông, có huy chương nào quí giá ông
đều ưu tiên dành cho tôi. Ông qúi tôi như
vậy v́ ông biết rằng, nếu cứ xử
dụng tôi như thế th́ trước sau ǵ tôi cũng
chết. Làm sao tôi sống thọ, khi đi hết
chiến trường này đến chiến trường
khác, mà lại toàn là những nơi "đầu sóng
ngọn gió". Vậy mà điều lạ lùng là tôi
vẫn sống.
Khi về đơn vị Trinh sát này, tôi có được
một điều may mắn, là được
phục vụ trong một đơn vị lưu động
khắp miền Tây. Khởi đầu của tôi là
tại Cái Bè- Cai Lậy với các địa danh
nổi tiếng như Hậu Mỹ, Mỹ Phước
Tây, Bà Bèo, Láng Biển...
Từ Cai Lậy đi về hướng Bắc
khoảng 60 cây số là tới Mộc Hóa, rẽ trái
đi thêm một đoạn xa nữa, tới một
nơi tận cùng gọi là B́nh Thạnh Thôn, c̣n có tên
là Long Khốt, đây là một trong những chiến
trường ác liệt nhất của vùng Đồng
bằng sông Cửu Long. Từ nơi này, chúng tôi
ngồi xe Thiết giáp băng ngang qua Đồng Tháp
Mười để tới Hồng ngự, chính cái
lúc băng ngang này đây, tôi mới biết rơ
về Đồng Tháp Mười, đây là một vùng
đầm lầy kinh hăi nhất. Đi suốt
một ngày với Thiết giáp, tôi không hề
thấy có một loài cây nào sống nổi, ngoại
trừ loại cỏ bàng (dùng để dệt
chiếu), không có một bóng chim, không có một con cá,
nước phèn màu vàng sậm. Tóm lại không có
một sinh vật nào sống nổi huống chi là con
người, vùng đầm lầy chạy dài ngút
mắt đến chân trời, khung cảnh im ĺm ghê
rợn.
Rồi có khi, chúng tôi rời Mỹ Tho xuôi Nam, băng
qua sông Tiền bởi Phà Mỹ Thuận, rồi băng
qua sông Hậu với Phà Cần Thơ, xuôi theo lộ
cái tới Cái Răng- Phụng Hiệp, rồi rẽ
vào Phong Điền - Cầu Nhím. Nơi đây tôi
ngạc nhiên với vùng giàu có tột bực này.
Ở đây người dân sinh sống bằng vườn
cây ăn trái, sáng sớm ghe chở trái cây chạy
lền trên mặt sông, để đến điểm
tập trung giao hàng chở đi các nơi khác. Nhà
cửa của họ ở miệt vườn mà trông
rất bề thế như biệt thự ở thành
phố chứ không phải thường.
Rồi chúng tôi đến Phong Phú- Ô Môn, tiến sâu
vào bên trong chúng tôi đến Thới Lai- Cờ Đỏ,
sự trù phú không sao tả xiết. Có khi chúng tôi
ngồi tắt ráng đi từ Thới Lai đến
Cờ Đỏ, hai bên bờ kinh nhà cửa nguy nga tráng
lệ theo kiểu miệt vườn, không hề có
cảnh nhà tranh vách đất nào cả, nhà nào cũng
bề thế có xe máy cày đậu bên hông. Tuy nhiên
càng vào sâu hơn nữa, chúng tôi gặp những vùng
hoang vu như Bà Đầm- Thát Lác, v́ giặc giă dân
chúng tản cư đi hết, nhà cửa bỏ hoang
phế trông rất âm u rợn người.
Trong tất cả những vùng mà tôi đă đi qua,
có một vùng đất hết sức lạ lùng, và
là một nơi đối với tôi đầy
ắp kỷ niệm,vừa thích thú vừa buồn
rầu đau đớn. Mùa Khô năm 1974, Đại
đội chúng tôi được trực thăng
bốc từ phi trường Cao Lănh, đổ
xuống một cánh đồng bát ngát nằm
cạnh biên giới Campuchia. Trung đội tôi
nhảy líp đầu, khi xuống tới đất tôi
hết sức ngạc nhiên về vùng đất xa
lạ này. Cánh đồng khô khốc và phẳng ĺ,
không hề có một bờ ruộng nào cả, trên cánh
đồng có nhiều g̣ đất nổi lúp xúp
ở khắp nơi. Khi trung đội rời khỏi
trực thăng, tôi lập tức ra lịnh tiến
quân theo thế chân vạc thiệt nhanh nhằm
chiếm một g̣ nổi trước mặt, khi cách
g̣ chừng một trăm thước, tôi cho dừng
quân lại, dàn hàng ngang nằm yểm trợ cho
một toán khinh binh vào lục soát.
Sau một hồi, thấy không có ǵ lạ, khinh binh
khoát tay cho trung đội tiến vào. Khi vào tới nơi,
tôi tung các toán ra canh gác chung quanh g̣. Trên g̣ có
thật nhiều cây xanh che bóng mát và có vài đ́a cá,
lính tráng người nào không mắc phiên gác th́ ùa
xuống tát đ́a. Khi đ́a cạn, cá lộ ra ḅ lúc
nhúc đặc lền như bánh canh.
Một lát sau cả Đại đội theo trực
thăng đổ xuống, kéo vào g̣ trú ẩn vị
trí cũng vừa đủ. Đêm tới, chờ cho
trời tối hẳn, Đại bàng ra lịnh kéo quân
đi đến một vị trí khác để đóng
quân, v́ vị trí ban ngày đă bị lộ. Chúng tôi
kéo qua một cái g̣ khác, đêm đó chẳng ai
ngủ được, v́ lũ chuột đồng
ở đâu kéo tới, chúng ḅ ngang dọc lùng
sục khắp nơi, lại c̣n chui tọt vào mùng
gặm nhắm chân tay của chúng tôi nữa chứ.
Tờ mờ sáng hôm sau, có một đàn xe ḅ đông
đảo khoảng mười mấy chiếc kéo
ngang chỗ đóng quân, lính tráng hỏi họ đi
đâu, họ nói kéo nhau đi tát đ́a, trời
đất! Tát đ́a mà kéo một đàn xe ḅ như
thế này ư?. Không biết họ đi đến
đâu, chiều đến họ kéo về, xe nào cũng
đầy ắp cá chứa lủ khủ trong thùng
chậu lớn. Sau đó họ đi đến
bờ sông giao cho ghe hàng chờ sẵn, chở cá
về Hồng ngự.
Hôm sau chúng tôi kéo vào xóm nhà cất dọc theo hai bên
bờ rạch có tên là Rạch Cái Cái. V́ người
dân sống trong vùng nước nổi nên nhà cửa
họ cất cao lêu nghêu theo kiểu nhà sàn. Nơi
đây đúng là cùng trời cuối đất mà
tiếng b́nh dân gọi là Hóc bà tó. Đây là vùng
tranh chấp giữa hai bên nên chiến trận nổ
ra liên miên, người dân họ sống rất là
tạm bợ, cả xă có vài ngàn người,
vậy mà số người biết đọc
biết viết chỉ đếm trên đầu ngón
tay. Họ thông thương với bên ngoài bằng các
ghe hàng tạp hóa hay ghe hàng bông (rau quả) được
chở tới từ Hồng ngự. Tôi hỏi họ
sao cánh đồng này kỳ lạ, phẳng ĺ như
sa mạc, tôi chưa từng thấy bao giờ. Họ
nói, tới mùa lũ tràn về, không có bờ
ruộng nào chịu nổi trước sức nước,
nên họ để mặc như thế, ruộng
của ai người đó biết, họ đă quen
từ nhiều đời như thế rồi.
Nhà nào cũng có một lu mắm cá, có nhà c̣n có lu
mắm chuột đồng, đó là thức ăn pḥng
hờ cho mùa nước nổi. Ghé vào bất cứ
nhà ai, chủ nhà nào cũng rất hiếu khách và
xởi lởi, bưng ngay ra một chai rượu
đế, rồi hối người nhà xé mắm
sống trộn dấm tỏi ớt đường,
bưng ra mời chúng tôi, ăn với khoai lang hay
bắp luộc. Lúc đầu thấy mắm sống
tôi sợ lắm không dám ăn, sau v́ nhiều người
ép quá nên tôi cũng nếm được. C̣n
mắm chuột đồng th́ cho tôi xá, nh́n thấy
đă "hăi" nói chi tới ăn. Đám lính chúng
tôi đang lội śnh "mệt nghỉ", nay
được đưa về nơi khô ráo, lại
đầy ắp thức ăn, thiệt là "đă
đời", chúng tôi hành quân mà như đi picnic.
Nhưng trong ḷng tôi linh cảm có cái ǵ đó không
ổn, đơn vị chúng tôi luôn luôn được
tung vào nơi hiểm địa, chớ đâu
phải đi chơi như thế này.
Sau một thời gian hoạt động đơn
độc, chúng tôi được tăng cường
một Chi đoàn Thiết giáp, có khoảng 12 xe
bọc sắt M113. Với sự phối hợp này, vùng
hoạt động của chúng tôi rộng lớn hơn.
Hàng ngày chúng tôi hành quân tùng thiết với
thiết giáp, đi lục soát nơi này nơi khác,
vẫn b́nh yên không hề có tiếng súng.
Rồi cuối cùng cái ngày giông băo đó đă đến.
Hôm đó b́nh thường như mọi ngày, chúng tôi
lên xe đi hành quân, đi đến các điểm
đă chỉ định sẵn trên bản đồ.
Tới một điểm bất chợt, đoàn xe
dừng lại dàn hàng ngang yểm trợ v́ śnh
lầy nên không tiến sâu được. Lính Trinh
sat chúng tôi được lịnh xuống xe tiến
vào bờ vườn. Trung đội tôi đi cánh trái
của đội h́nh Đại đội. Đang
đi tôi bỗng lên tiếng:
"Tất cả tản thưa ra, đi túm tụm
lại như vầy dễ ăn đạn
lắm" Không ngờ lời nói của tôi "linh
như miễu", đạn phát nổ vang trời
dậy đất. Tôi bị trúng đạn, bật
người ngă xuống đất, máu không biết
ở đâu chảy xuống mặt thành ḍng. Tôi ra
lịnh bắn lại xối xả, nếu không phía
bên kia thừa thắng xông lên th́ thật là nguy
khốn. Súng nổ một chập th́ im bặt, lúc
đó tôi mới có thời gian để xem xét, coi ḿnh
bị thương ở đâu.
Sau đó tôi giật ḿnh, hết sức kinh ngạc v́
tôi bị bắn trúng một lượt hai viên đạn
AK, một viên bắn trúng vào đầu mũi súng
colt tôi nhét trước bụng, viên đạn bể
ra văng miễng tứ tán, ghim lên mặt khiến máu
chảy thành ḍng là v́ thế, phần c̣n lại
của viên đạn chui tọt vào đùi máu ra chút
ít không nghiêm trọng. Viên đạn thứ hai
mới ghê, nó ghim vào cái bóp tôi để trên
ngực áo trái phía trước trái tim, viên đạn
đă quậy nát cái bóp, trong đó tôi để
rất nhiều tiền v́ mới lănh lương,
tiền và giấy tờ đă cuốn viên đạn
nằm yên trong đó, có lẽ tầm đạn
bắn quá gần khiến viên đạn không đủ
sức xuyên phá để đâm vào trái tim của tôi.
Lúc đó tôi sợ lắm và cũng nghĩ đến
một quyền lực thiêng liêng nào đó đă che
chở cho tôi. Chứ trên đời này đâu có ai
bị bắn trúng một lúc hai viên đạn mà c̣n
sống sót như tôi.
Kế đó, tôi chợt nghe một tiếng rên
yếu ớt của người lính đệ tử
của tôi: "Thiếu úy ơi! Cứu em!" Tôi
nghe xong mà sợ điếng hồn, té ra năy giờ
đệ tử của tôi bị trúng đạn mà tôi
không hay biết, bởi v́ cỏ cao che khuất nên tôi
không thấy anh ta nằm trước tôi khoảng dăm
ba thước. Thông thường, mỗi sĩ quan
Trung đội trưởng có hai người lính
đệ tử, hai anh chàng này có nhiệm vụ lo
mang vác đồ đạc và lo chỗ ăn chỗ
ngủ cho ông thầy. Những người đệ
tử của tôi thường đồi xử
với tôi rất chí t́nh, họ sẵn sàng sống
chết với tôi mà không hề so đo tính toán. Khi
tôi dẫn trung đội xung trận, hai người
lính này theo sát để bảo vệ tôi.
Hôm ấy, một trong hai đệ tử đă
hứng đạn cho tôi, khi ngă xuống đă kêu lên
lời cầu cứu đến tôi. Ít lâu sau th́ anh
ta chết, tiếng kêu thảm sầu của anh ta
đă xoáy vào ḷng tôi, và ở yên trong đó măi cho
đến tận bây giờ. Vậy mà 39 năm trôi
qua tôi chớ có một lần nào về đứng
trước mộ anh, để đốt một nén
nhanh nói lên lời cảm tạ. Anh ta là Hạ sĩ
Nguyễn văn Đồng, một cái tên b́nh thường
vô danh, nằm lẩn khuất đâu đó trong hàng
triệu người đă nằm xuống trong
cuộc chiến tức tưởi này.
Sau khi bị thương, tôi giao trung đội
lại cho Trung đội phó là Chuẩn úy Nguyễn
Thọ Tường. Tôi ra ngoài cho y tá băng bó
vết thương, rồi leo lên xe Thiết giáp
ngồi nghỉ và quan sát trận địa, tôi
chợt thấy Chuẩn úy Tường dàn đội
h́nh trung đội hàng ngang xung phong vô mục tiêu, tôi
kêu lên thảng thốt: "Đừng làm thế, Tường
ơi!" Sau đó trung đội tôi bị bắn
tan tác, Chuẩn úy Tường trúng đạn vô
bụng chết tại mặt trận, mắt vẫn
mở trừng trừng, có lẽ anh ta không biết
sao ḿnh lại chết như vầy. Trung đội tôi
coi như tan hàng xóa sổ. " Tường ơi! Vĩnh
biệt!".
Không biết sao Đại đội tôi đóng quân
bên bờ Rạch Cái Cái trong một thời gian
rất dài. Cho tới ngày Mùa Nước Nổi kéo
về, nước chảy ào ào một chiều duy
nhất, không c̣n cảnh nước ṛng nước
lớn ǵ nữa hết. Nước dâng cao mỗi ngày
cả gang tay, đến lúc đó mới thấy lúa
xạ là loại lúa kỳ diệu, nước dâng
tới đâu th́ lúa dâng tới đó, nước sâu
5-6 mét th́ lúa cũng dài ra 5-6 mét, tôi chưa thấy nơi
nào lại có cây lúa kỳ lạ như vậy.
Rồi đến lượt cá Linh kéo về, cá
nhiều đến nổi không biết cơ man nào
kể cho xiết, có khi tôi thấy cá Linh nổi
lền cả một khúc sông, và thêm một điều
kỳ lạ nữa là người dân ở đây
họ không ăn cá Linh. Sao lạ vậy? Họ nói,
họ thấy cá Linh cả đời nên đâm ra ngán
tới cổ.
Ô! nước cứ dâng lên măi, khiến chúng tôi
kiếm chỗ đóng quân khá vất vả, chúng tôi
rút lên g̣ cao, th́ rắn với chuột cũng kéo lên
g̣, ban đêm chúng cứ ḅ xục xạo trong mùng
rất ghê khiếp. Cả đơn vị phải
chẻ nhỏ ra thành từng toán. Có hôm, toán của
Thầy tṛ chúng tôi kéo lên một cái g̣ c̣n khô ráo,
đêm đó như thường lệ tôi nằm
ngủ dưới một mái lều.
Tới nửa đêm tôi đang ngủ mê mệt, th́
cảm thấy có ai đang khều khều đầu
ḿnh, ở chốn trận tiền ai ngủ cũng
phải thật nhạy thức. Tôi cũng vậy, tôi
tưởng đâu lính gác báo động nên vội
vàng ngồi dậy, tôi ngó ra ngoài lều th́ thấy
dưới bóng trăng sáng vằng vặc, một em
bé gái chừng 12-13 tuổi đang đứng nh́n tôi
và mỉm cười thật tươi tắn. Tôi
trố mắt nh́n ngẩn ngơ một hồi,
rồi mới biết đó là hồn ma, tôi sợ quá
vội nằm xuống kéo mền trùm kín đầu,
nhưng không ngủ được nữa.
Sáng ra, tôi thấy chỗ tôi ngủ đêm qua nằm
kề bên một cái trang thờ xiêu vẹo mục nát.
Tôi bèn rảo bước đi vào làng hỏi thăm
về cái trang thờ trên g̣ nhỏ này. Người dân
cho biết, trước kia có một em bé nhà nghèo
lắm, hàng ngày em chèo xuồng ra đồng nhổ bông
súng đi bán dạo, rồi một hôm em ra đồng
như thường lệ, một lát sau th́ súng đạn
hai bên nổ rang, em bị đạn lạc chết trên
g̣. Em chết trẻ hồn thiêng không siêu thoát, đêm
đêm em hiện về khóc lóc thảm thiết. Dân làng
thấy vậy bèn làm cho em một cái trang thờ
để nhang khói cho em. Câu chuyện của em
thật tội nghiệp.
Trong đời lính của tôi, tôi sợ nhất là
phải đi báo tin tử trận hoặc thăm
viếng những gia đ́nh có người thân
chết trận. Vậy mà có lần tôi phải làm
chuyện này một cách bất đắc dĩ.
Chuẩn úy Nguyễn Mạnh Hà ra trường sau tôi
gần một năm, lúc đó anh ta mới 19
tuổi, c̣n đặc sệt nét con nít. Mặt Hà
đầy mụn trứng cá, suốt ngày chỉ thích
ăn kẹo, có ai rủ nhậu, nể lắm anh ta
mới uống một ly, vừa uống vừa
chắt lưỡi hít hà như uống thuốc độc.
Điều đặc biệt nhất của Hà là anh
ta rất sợ tiếng nổ, khi nghe tiếng đại
bác anh ta nhắm chặt mắt lại, bịt kín
lỗ tai và mặt mày tái mét. Lúc đầu anh ta
về làm phó cho tôi, làm giọng "chảnh" tôi
hỏi anh ta một cách xách mé: "Sao ông nhát hít như
vầy mà sao lại xin về Trinh sát?" Anh ta bèn phân
trần, đâu có xin xỏ ǵ, Ban Quân số thấy
không có ai t́nh nguyện về TS nên bèn chỉ định
bừa, ai dè trúng ngay anh ta. Khi đụng trận tôi
lo cuống cuồng đủ mọi chuyện, vậy
mà c̣n phải ngó chừng cho anh ta nữa, v́ Hà có
biết cái ǵ đâu, thiệt khổ.
Càng về sau, các sĩ quan càng rơi rụng dần,
Chuẩn úy Hà cà ngáo cũng được đưa
lên làm Trung đội trưởng. Cái ngày định
mệnh dành cho Hà là tại mặt trận Mộc Hóa.
Hôm đó cả Đại đội được
lịnh tấn công vào mục tiêu. Trung đội
của Hà và một Trung đội nữa vỗ vào
mặt chính, c̣n Trung đội tôi thọc vào
cạnh sườn. Hà dẫn tổ đại liên
chạy đến ẩn nấp vào một g̣ mả
bằng đá ong, ngay lúc ấy phía bên kia phóng ra
một trái B40, trúng ngay g̣ mả, viên đạn
nổ tạt ra trúng vào Hà, tội nghiệp quá Hà
chết nát bét không toàn thây.
Lúc Hà c̣n sống, mỗi khi tôi về phép, Hà thường
nhờ tôi ghé qua nhà ở Sài g̣n, để nhờ
mang quà của gia đ́nh xuống cho Hà, v́ thế tôi
khá thân thuộc với gia đ́nh này. Hà mất
chừng một tháng th́ tôi xin được cái phép
6 ngày về thăm gia đ́nh. Tôi ghé qua nhà Hà
nhằm nói lời chia buồn với gia đ́nh. Tôi
vừa tới, Ba Má của Hà chạy ùa ra nắm
lấy tay tôi rồi hỏi dồn dập: "Sao cái
hôm em Hà nó chết mà sao cháu không về đưa
đám tang cho em?" Tôi lúng túng trả lời:"
Thưa lúc đó chúng cháu đánh nhau chí chết ngoài
mặt trận, cho nên cháu không thể bỏ
đơn vị mà về được!".
Thế là vừa ngồi xuống ghế, hai ông bà khóc
ngằn ngặt, nước mắt tuôn ra xối
xả làm ướt đầm cả ngực áo. Ông
bà vừa khóc vừa kể lể tiếc thương
cho đứa con không sao kể xiết. Nghe ông bà kêu
khóc thảm thiết một hồi, tôi không chịu
đựng nỗi nữa và tôi cũng không nói
được một lời chia buồn nào, bởi v́
lời nói nào cho đủ trước một mất
mát quá lớn lao này.
Sau cùng, tôi lảo đảo đứng dậy
từ giă hai ông bà để ra về. Trên đường
về tôi ghé vào một quán cóc, ngồi uống rượu
một ḿnh. Tối hôm đó tôi về đến nhà
khá muộn, cả nhà chờ cơm tôi khá lâu nên
đă dùng trước. Tôi ngồi vào bàn, Mẹ tôi
bày thức ăn la liệt trên bàn cho tôi ăn.
Vừa ăn tôi vừa nghĩ, mai kia nếu ḿnh có
chết, Mẹ cũng bày đồ cúng cho ḿnh như
thế này. Tôi vừa ăn vừa lặng lẽ
chảy nước mắt.
Cuối tháng 2 năm 1975, tôi bị thương
một lần nữa cũng tại Mộc Hóa. Tôi
được đưa về điều trị
tại Bịnh xá Sư Đoàn tại Vĩnh Long.
Tại bịnh xá tôi theo dơi t́nh h́nh chiến sự
trên cả nước, khi mất Ban Mê Thuột tôi
linh cảm điều ǵ đó không lành. Đến
ngày 30-4-1975, khi nghe lịnh buông súng đầu hàng,
trong ḷng tôi nát bấy.
Sáng ngày 1-5, tôi bước ra khỏi bịnh xá, đứng
trên Quốc lộ 4 nh́n về hướng Cần Thơ
thấy mặt trời lên đỏ rực, báo
hiệu một ngày mới. Lúc đó tôi chớ
hề biết rằng, đó là cái ngày đầu tiên
cho một hành tŕnh bi thảm khác có tên là
"Mạt Lộ".
Ngô Đ́nh Châu |