40 Năm Tỵ Nạn...Nh́n Lại Đoạn Đường. (30/4/1975-2015) Philato |
Sau khi bài viết về “Trâu Điên Và Cố
Vấn Mỹ” được đăng trên Việt
Báo ngày 11/11/14, trong đó tôi có nói đến Đại
Úy Sheehan, là cố vấn Tiểu Đoàn 2/TQLC, sau này
ông ta về Mỹ và lên tới cấp tướng 4
sao, là Tư Lệnh NATO, th́ một bạn cùng
đơn vị, ra đi từ 1975, hiện định
cư tại Paris 13, gửi email cho tôi, trong đó có
một câu nửa đùa nửa thật như thế
này:
Hồi đó, 1968, ông Sheehan là đại úy
cố vấn, sau này ông ta lên tới tướng 4 sao
và là Tư Lệnh NATO, c̣n bạn lúc đó là đại
úy đại đội trưởng, sau vào tù CS
rồi ra đi HO th́ nay bạn làm được cái
“thống chế” ǵ chưa, hay vẫn là tư
lệnh “NATO”? Tôi
hiểu ư bạn tôi viết chữ “NATO” trong
ngoặc kép là muốn ám chỉ “No action, talk only”,
bạn ấy muốn chọc quê tôi có làm được
chuyện ǵ ra hồn đâu mà chỉ nói thôi. Tôi
thấy đúng quá và vui v́ cách gán ghép này nên email
hồi âm: Bị
đi tù th́ làm sao là tướng, nhưng nh́n thế
hệ thứ hai làm tướng là sướng
rồi. Trong
chỗ bạn bè đơn vị cũ, chiến trường
xưa, chúng tôi thường có những câu đùa vui
để nhớ về dĩ văng, nhớ về
“thời oanh liệt ấy nay c̣n đâu”! Tuy
rằng đường binh nghiệp nửa đường
gẫy gánh, tuy không được làm tướng, nhưng
an ủi nhau rằng trước sau ǵ cũng là “Anh
Sáu”. Ngày
xưa trong quân đội, chỗ thân t́nh anh em, chúng
tôi thường gọi những vị đại tá mà
chúng tôi kính trọng là “Anh Sáu”, nhưng nay,
sống đời tỵ nạn, người lính
trẻ nhất cũng lục tuần, chúng tôi đang
sắp hàng tấn công lên đồi... nên “anh sáu”
c̣n có hàm ư là sáu tấm. Trước khi làm anh sáu...,
được mặc áo quan th́ hăy ôn lại với
nhau, sau 40 năm tỵ nạn, chúng ta đă làm
được những ǵ hay chỉ nói thôi?
Mau
thật, thế mà đă 40 năm rồi đấy,
kể từ ngày “gẫy súng”, đă quá nửa
đời người rồi mà sao tôi thấy
mọi chuyện cứ như mới xẩy ra ngày hôm
qua. “Hôm qua”, ngồi trong Trung Tâm Hành Quân Thủy Quân
Lục Chiến tại căn cứ Non Nước
Đà Nẵng th́ tôi nhận được tin Đại
Úy Tô Thanh Chiêu tử trận và mất xác tại băi
biển Thuận An! “Hôm qua”, lúc 6 giờ 30 sáng, các
Trung Tá Nguyễn Xuân Phúc, Đỗ Hữu Tùng,
Trần Văn Hợp và tôi cùng đứng bên bờ
biển Non Nước, chia nhau điếu thuốc,
ngụm cafe đựng trong cái ca nhôm nhà binh, cafe không
đường, miệng chúng tôi đang đắng
nghét, càng đắng thêm. “Hôm qua”, sau khi nghe “Đại
Tướng Tổng Tư Lệnh Quân Đội” ra
lệnh bắt chúng tôi buông súng, th́ từ anh cả
là Đại Tá Tư Lệnh Phó đến chú em út
Binh Nh́ đều ngửa mặt lên trời nuốt nước
mắt rồi kêu thầm: “mất nước
rồi”! “Mất
nước là mất tất cả”, mà thời gian
trôi qua quá nhanh, “hôm qua và hôm nay”, cách nhau 40 năm
mà như chỉ cách nhau “24 giờ phép, 4 giờ
đi lại thêm 4 giờ về” nên chúng tôi,
những cựu quân nhân có làm được ǵ đâu!
Sau những năm tháng tù đày và “kéo cày” trên
mảnh đất tạm dung đầy sỏi đá
về ngôn ngữ. “Chí tuy c̣n mong tiến bước,
nhưng sức không kham nổi đoạn đường”
nên c̣n chút hơi để thở, để nói,
“talk ony” là quư lắm rồi. Chúng tôi nói với chính
ḿnh, nói với các bạn đồng minh và nói
với con cháu, gọi là thế hệ thứ hai,
thứ ba. 1/
Nói Với Chính Ḿnh:
Ai
đă từng là quân nhân, đă đội trên đầu
câu: “Tổ Quốc, Danh Dự, Trách Nhiệm”, đă
đưa cao tay thề nơi vũ đ́nh trường
th́ thời gian, không gian nào, dù “giấy rách cũng
phải giữ lấy lề”, nên đại đa
số các cựu quân nhân đă, đang và sẽ cùng
với cộng đồng người Việt tỵ
nạn xây dựng một xă hội mới. “Chúng ta
đi mang theo quê hương” nên từ văn hóa, chính
trị, kinh tế đang lớn nhanh trên đất
tạm dung này. Những
cộng đồng gốc Á Châu khác, họ đă
đến Mỹ hẳng trăm năm trước,
đến từ lúc là công nhân làm đường
rầy xe lửa cho người bản xứ đi t́m
vàng nên họ có China Town, Korean Town, Japan Town v.v.. chúng
ta vừa mới chân ướt, chân ráo đến
đây trong hoàn cảnh chạy giặc mà Quốc
Kỳ VNCH đă tung bay khắp nơi, đă có Little
Saigon, tuy chưa nhiều, nhưng rồi sẽ có
nhiều. Mua một căn nhà cũng cần thời
gian 30 năm mới trả xong nợ. Chỉ mới có
40 năm mà chúng ta đă xây dựng được
một cộng đồng người Mỹ gốc
VN như thế là đáng hănh diện rồi. Mỗi
người tỵ nạn xin xét ḿnh để góp
sức vào sự thành công này. 2/Nói
Với “Đồng Minh”: Thành
phần phản chiến đi với tuyên truyền
của VC đă khiến một số người dân,
giới chức Hoa Kỳ hiểu lầm về
cuộc chiến đấu chính nghĩa của chúng
ta và hậu quả là những ǵ th́ ai cũng
biết, điều nguy hiểm hơn nữa là sách báo
nói láo của VC tiếp tục chui vào “quần” chúng
Mỹ. Thầy
Dan, giáo sư dạy Sử về chiến tranh
Việt Nam ở Shoreline Communit College, WA, ông cứ theo
sách trong thư viện mà dạy, mà ca tụng HCM và
CS, bởi v́ chúng ta chưa nói cho họ biết
sự thật. Khi có học viên là một cựu quân
nhân gốc Việt mang những vết thương trên
người ra chứng minh rằng sách báo VC nói láo th́
ông giáo sư Dan mới tin. V́
vậy, mọi công dân VNCH, mọi nơi, mọi lúc,
nên nói và phải nói cho các bạn “đồng
minh” biết sự thật. Có nhiều người
đă, đang làm điều đó, dù công khai hay âm
thầm, từ trường học đến sở làm
và kết quả rất đáng mừng, những người
hiểu lầm đă dần dần tỉnh ngộ.
Về
văn học, đă có rất nhiều sách viết
về chính nghĩa Việt Nam Cộng Ḥa, về
tội ác VC đă được các nhà văn nhà báo
Hoa Kỳ đọc và dịch sang tiếng Mỹ
để phổ biến khắp nơi, một trong
những thí dụ điển
h́nh là cuốn “Giải Khăn Sô Cho Huế”
của nhà văn Nhă Ca đă được Indiana
University Press chuyển ngữ thành “Mourning Headband For
Hue”. Đă
có biết bao ngưởi Việt tỵ nạn nói
với “đồng minh” cho họ hiểu sự
thật về cuộc chiến VN, v́ sao chúng ta có
mặt tại đây. Tôi xin nêu ra một vài trường
hợp cụ thể. Người
đồng minh Hoa Hỳ từng chiến đấu bên
cạnh quân đội VNCH th́ sau 40 năm họ càng
gắn bó thêm với đơn vị xưa. Một
tấm h́nh thay cho ngàn lời nói, tấm h́nh các
cựu quân nhân Hoa Kỳ sát cánh cùng các cựu BĐQ/VN
dương cao Quốc Kỳ Việt Mỹ trong các
buổi họp mặt hằng năm mà họ gọi
là: “Together Then Together Now”. Với
TQLCVN th́ các cựu cố vấn Mỹ, trong đó có
các đại úy Sheehan và Hoar, sau này các ông là đại
tướng 4 sao, chúng tôi vẫn “nói” với nhau nên
càng ngày họ càng hiểu, càng nể phục TQLC, nói
riêng, và quân đội VNCH nói chung. Thomas Campbell,
cựu cố vấn TĐ2/TQLC sau khi về Mỹ, ông
dạy môn lănh đạo và chỉ huy tại Đại
Học Austin Texas và viết sách. Trong tựa đề
một cuốn sách, Đại Tá hồi hưu Thomas
Campbell đă nói các TQLCVN Lê Hằng Minh, Nguyễn
Thế Lương, Ngô Văn Định, Nguyễn Xuân
Phúc là “ my best teachers”, ông ta viết như sau:
*** In
November 1965 when I was assigned as an advisor to the Vietnamese Marines.
I thought that I would make them
better Marines, but in the final analysis they made me a better Marine.
I learned things from them that are not taught in American military
schools. My best teachers were Major Le Hang Minh, Major Nguyen The Luong,
Major Dinh Van Ngo, Captain Nguyen Xuan Phuc and Minh’s ever faithful
bodyguard. This
is the story and the lessons. Co
van My Tom
Campbell Austin,
Texas.
***. Các
cựu quân nhân hai quốc gia hiểu nhau, đến
với nhau đă là quư, nhưng qua lời nói và hành
động của mỗi người dân tỵ
nạn khiến người ḍng chính cảm phục
mới là điều có ư nghĩa. Người anh em
của tôi, Phạm Lương, tâm sự trong bài
viết: 15
năm làm worker cho Tiểu Bang” Xin
trích: Muốn làm công chức b́nh thường, không
khó, nhưng muốn được những worker khác
và supervisor hay Director thay đổi thái độ đối
với ḿnh, cần phải có thời gian và cách cư
xử. Từ worker A&B thành worker C b́nh thường
phải cần từ 15-20 năm trong nghề, tôi đă
trở thành worker C trong khoảng 3 năm. Công việc
của worker C là Homeless Coordinator, là công việc
nhiều người phải lắc đầu, v́ hàng
ngày họ phải làm việc với nhóm người
“tận cùng bằng số, không c̣n ǵ để
mất”, họ không có chỗ ở, không có
tiền, nhưng khổ một nỗi, họ tự
cho là ḍng chính, họ nh́n tôi vẫn chỉ là
một người thiểu số Á Châu. Tôi
không đủ thâm niên khi làm Homeless Coordinator, nhưng
do khả năng làm việc và cách cư xử đă
khiến cấp trên, đồng nghiệp, và cả
những “homeless” dần dần dành cho tôi sự quư
mến và cảm phục. Bà Harriette Harris, Director of
Boston Family Housing, phỏng vấn tôi v́ sao tôi lại có
khả năng như thế? Tôi trả lời, là
một cựu quân nhân VNCH, tôi từng chiến đấu
cho sự thật và bảo vệ tự do, tôi đem
kinh nghiệm đó vào nhiệm vụ của một
Homeless Coordinator. Bà
Harriette Harris thực sự đă hiểu thế nào là
người Việt tỵ nạn CS, bà ta hứa
chuyển tôi lên một nhiệm vụ khác cao hơn,
khó hơn và dĩ nhiên quyền lợi cũng thay
đổi, bà ấy nói: _
Hi. Mr. Pham. I offer you a new Job Interview on.. at… Are you ready for
the interview. You are the first one I pick from the list. Tất
nhiên, tôi sẵn sàng, 3 ngày sau cuộc Job Interview, bà ta
lại nói: _
Mr. Pham. Congratulation. I offer you the job. Are you ready to work. _
Thank you very much for the job. I am always ready. _
I know that from the beginning of the interview. (She laughs) (hết
trích). Một
anh em kết nghĩa khác, Vương Mộng Long, ghi
danh học lớp History 274 “U.S. and
Vietnam” với mục
đích t́m hiểu xem cuộc chiến tranh vừa qua
đă được các sử gia Mỹ ghi chép
lại như thế nào? Từ đó, hy vọng
biết được phần nào, nguyên nhân v́ sao,
giữa đường, Mỹ đă bỏ rơi
Việt Nam, v́ sao chúng ta đă thua trận. Nhưng
gặp ông giáo sư dạy sử phản chiến,
mỗi khi nói tới phong trào Việt-Minh, ông ca
tụng HCM như một lănh tụ, ông nói những
phần có lợi cho VC. Đă có đôi lần Long dơ
tay nêu ư kiến, th́ ông chỉ cười, chỉ tay
vào quyển Sử: “Book said!”. Nhưng với
quyết tâm nói cho “đồng minh” biết sự
thật, Long đă tŕnh bày cho ông nghe những ǵ Long
sống và chiến đấu, cuối cùng ông
phải phục người cựu quân nhân VNCH. Xin
trích đoạn bài viết: “Ông Giáo Sư Dạy
Sử” của Vương Mộng Long:
*** Thưa
giáo sư. Xin giáo sư vui ḷng cho phép tôi được
tŕnh bày với ông đôi điều liên quan tới
sự giảng dạy của ông trong thời gian
vừa qua. Tôi có thể làm phiền ông vài phút
được không? Thầy
Dan niềm nở: -
Dĩ nhiên là được. Ông có điều ǵ
cần cứ nói. -
Thưa giáo sư, tôi là một người
Việt-Nam tỵ nạn. Tôi là một cựu sĩ
quan của Quân Đội VNCH. Tôi c̣n nhớ trong bài
giảng đầu tiên, thầy có nhắc đi,
nhắc lại rằng, phi vụ đầu tiên
của pháo đài bay B52 trên Cao Nguyên Việt Nam là
vụ oanh tạc Thung Lũng Ia-Drang... Thầy
chỉ biết tới những trận đụng
độ đẫm máu trong thung lũng Ia-Drang qua báo
chí, truyền thanh, và truyền h́nh. C̣n tôi là người
đă lặn lội mười năm ở đó,
đă nhiều lần bị thương đổ máu
ở đó, đă rơi lệ vuốt mắt cho
nhiều đồng đội nằm xuống ở
đó. Trong số những người nằm
xuống ấy, không thiếu những thanh niên Mỹ
đồng trang lứa với thầy. Nơi đó chúng
tôi chiến đấu quên ḿnh từng ngày, v́
nền độc lập của đất nước
tôi, và v́ quyền lợi của nước
Mỹ.Thầy chưa từng khoác áo nhà binh, chưa
một lần có mặt trên chiến trường.
Suốt đời thầy không hiểu nổi thế
nào là niềm kiêu hănh của một người lính
chiến, thế nào là ḷng khát khao chiến thắng,
thế nào là t́nh huynh đệ chi binh... Suốt
đời thầy không hiểu được v́ sao hơn
20 thương binh của BĐQ/VNCH phải mở
đường máu rút lui mà vẫn cưu mang theo ba người
lính Mỹ, trong đó có hai người bị
trọng thương, và v́ sao một đại tá Hoa
Kỳ đă đưa thân che chở cho một thương
binh Việt Nam để rồi ông bị mảnh
đạn vỡ đầu. Mạng lưới
truyền thông thiên Cộng khổng lồ của
Hoa-Kỳ đă tiếp tay với bộ máy tuyên
truyền của Cộng Sản Quốc Tế cố t́nh
xuyên tạc, bóp méo tất cả những có liên quan
tới nguyên nhân, diễn tiến, và hậu quả
của cuộc Chiến-Tranh Việt-Nam... Chúng
tôi thất trận không phải v́ chúng tôi kém
khả năng, thiếu tinh thần chiến đấu,
mà v́ người Mỹ đă phản bội, nửa
đường rút quân, cắt viện trợ. Từ
khi người Mỹ rút lui, chúng tôi bị bó chân bó
tay, bụng đói mà vẫn phải chiến đấu.
Trong khi đó, Miền Bắc lại tràn ngập lương
thực, quân dụng, quân nhu, và vũ khí viện
trợ từ khối Cộng... Chúng
tôi đă chiến đấu cho chính nghĩa như
thế đấy, chúng tôi đă hy sinh như thế
đấy, và chúng tôi đă bị bỏ rơi như
thế đấy. Tôi cũng không hiểu v́ sao người
Mỹ phản chiến, trong đó có thầy, lại
xuống đường tranh đấu, cổ vũ
cho kẻ thù của chúng tôi, và ngược đăi
chiến binh của chính nước Hoa Kỳ? Thầy
ơi! Sao thầy lại nỡ nhẫn tâm như
thế! Thầy đă tiếp tay với kẻ thù,
đâm sau lưng thân nhân và bạn bè đồng minh
của thầy... Ông
thầy dạy Sử như bừng tỉnh cơn mơ: -
Tôi tin lời ông, v́ chẳng có lư do ǵ để ông
nói dối. Có điều là, từ đó tới nay,
hơn hai mươi năm dài, kể từ ngày
những gia đ́nh Việt Nam đầu tiên tới
định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai nói cho tôi
nghe những điều này. Có thể, người ta
muốn quên đi quá khứ, hoặc là người
ta không có can đảm nói ra. Tôi đă hiểu, và tôi
phải cám ơn ông. Ông quả là một chiến
binh thực thụ. Nghe
được những lời nói chân t́nh từ
miệng ông giáo sư, ḷng tôi cảm thấy ấm
áp lạ lùng. Trước mắt tôi, ông đă thành
một người bạn đồng minh, ông
đưa bàn tay ra cho tôi bắt: -
Thưa người chiến binh. Ông vừa lập
một chiến công! (hết trích) 3/
Nói Với Thế Hệ Thứ Hai, Thứ Ba.
Nói
với chính ḿnh, nói với “đồng minh”
chỉ là để ôn chuyện cũ, “giấy rách
phải giữ lấy lề”, c̣n nói với thế
hệ thứ hai, thứ ba mới là chuyện quan
trọng, chuyện tương lai cho cộng đồng
Việt trên đất tạm dung hay cho chính quê hương
VN không c̣n Việt Cộng. Khi
người bạn gọi tôi là thành viên “NATO”, tôi
bảo chỉ cần nh́n thế hệ thứ hai làm
tướng là sướng rồi, đó là Tướng
Lương Xuân Việt. Truyền thông đă nói
nhiều về vị Tướng gốc Việt đầu
tiên này rồi nên tôi không cần nói ǵ nữa,
nếu cần th́ tôi xin thêm thân phụ của Tướng
Xuân Việt là TQLC Lương Xuân Đương
đă nói với con bằng chính hành động
của ḿnh, của một người lính. TQLC
Lương Xuân Đương đă “đi xa”, không
thể đến tham dự ngày vui của con, và Lương
Xuân Việt không c̣n dịp kính tặng cha nụ cười
hạnh phúc, nhưng bù lại, đă có các TQLC là
bạn của bố Đương đến chúc
mừng Việt: “con hơn cha là nhà có phúc”. Tướng
Việt hạnh phúc, cười vui măn nguyện khi
thấy các bộ quân phục TQLC của bố đến
tham dự ngày Việt làm tướng.
Một tuổi trẻ khác đang là cấp
chỉ huy trên chiến hạm USS Carl Winson 70, với
chức vụ là Navy
Commander, AIMD Aircraft Maintenance
đó là Hải Quân Đại Tá Paul Long My Choate. Truyền
thông Mỹ Việt đă nói nhiều về Hải Quân
Đại Tá Long Mỹ rồi. Nhưng điều tôi
muốn nói ở đây là ít ai biết Long Mỹ là
thế hệ thứ ba, anh đă thừa hưởng
từ ông ngoại ḷng dũng cảm, tận tụy
với nhiệm vụ và rồi ông ngoại hy sinh v́
nhiệm vụ. Ông ngoại của Long Mỹ là
một phóng viên chiến trường trong ngành
Cảnh Sát Quốc Gia, ông đă hy sinh trong trận
chiến Mậu Thân đợt hai. Xin chúc Long Mỹ
sẽ là vị tướng gốc Việt thứ hai
trong quân đội Hoa Kỳ để ông ngoại
mỉm cười nơi chín suối. Tôi
xin nói thêm một thí dụ nữa về thế
hệ thứ hai đă noi theo gương cha. Giấc mơ
của chúng tôi khi c̣n là SVSQ trường Vơ Bị là
được tuyển chọn đi học Westpoint như
một vài đồng môn khác, nhưng lực bất
ṭng tâm, nên sau khi định cư tại Hoa Kỳ,
Trương Khương khuyến khích các con vào
Westpoint, và “hổ phụ sinh hổ tử”, Trương
Vũ và em gái là Trương Nha Trang đều
tốt nghiệp Westpoint, c̣n Trương Quân tốt
nghiệp Air Force Academy
(Trung
Tá Trương Vũ và chiến trường Iraq) Ngoài
những sĩ quan Mỹ gốc Việt trên đây, chúng
ta c̣n rất nhiều thế hệ thứ hai trong quân
đội Hoa Kỳ với nhiều cấp bậc và
chức vụ khác nhau, trong đó có con cháu của
những TQLC Đoàn Trọng Cảo, Nguyễn Văn
Diễn, Phạm Văn T́nh, BB Quan Văn Kính,
Nguyễn Phước Ái Đỉnh, KQ Vơ Phi Hổ
v.v.. đă đang phục vụ trong quân đội
Hoa Kỳ hoặc đă giải ngũ để
tiếp tục con đường học vấn. Người
Việt tỵ nạn CS cần có một thống kê
về số con em gia nhập quân đội Hoa Kỳ,
cần có và phổ biến tài liệu về
những quân nhân Mỹ gốc Việt đă hy sinh trên
chiến trường. Đó là những trang sử anh
hùng, những thành quả và đóng góp đáng ghi
nhớ của người Việt trên đất
Mỹ sau 40 năm tỵ nạn. Tôi đề nghị
Hội Quân Nhân Mỹ Gốc Việt, trong đó có các
luật sư đang hành nghề vốn là các cựu
quân nhân nên lưu ư đến trang sử này,
hoặc trang Viết Về Nước Mỹ (VVNM)
của nhật báo Việt Báo. Ngoài
những đóng góp về quân sự, c̣n có biết
bao con cháu chúng ta tham gia và thành công trong nhiều ngành
nghề khác nữa. Có rất nhiều “quan ṭa” và
luật sư gốc Việt mà truyền thông nhắc
tới, nhưng cũng có những luật sư âm
thầm làm việc nghĩa, tôi xin đơn cử
một vài trường hợp.
Anh
chị KQ Joseph-Đàm Kim mời tôi đến tham
dự lễ tốt nghiệp của 2 con, tôi thấy
nổi bật trong đám đông mũ tốt
nghiệp của các tân khoa là hai cái mũ có chữ
“FOR DAD” và “FOR MOM” cháu gái Vân Anh tặng bố
Joseph-To, cháu trai Quốc Anh tặng mẹ Đàm món quà
quư báu. Điều tôi muốn nêu ra ở đây là
do bố làm việc thiện khiến hai cháu chưa
vội mưu sinh mà t́nh nguyện làm việc nghĩa
theo gương bố trước đă. Ít
ai biết bố các cháu vừa làm việc vừa tích
lũy các lon nhôm, chai nhựa rồi mang bán cho các
chỗ mua đồ “recycle”, cứ mỗi 3 tháng,
anh gom bạc cắc thu được rồi kư chi
phiếu gửi tận tay lăo Bà Hạnh Nhơn,
Hội Trưởng Hội H.O để giúp anh em thương
binh, v́ vậy hai cháu theo gương bố, t́nh
nguyện làm “Public Defender”. Các cháu luôn t́m mọi
dịp để tiếp xúc, t́m hiểu tâm tư
của các nghi can, đặc biệt là các nghi can thanh
thiếu niên gốc Việt. Các
cháu đang làm việc tại Sacramento, nhưng các
“thân chủ” nào ở vùng Quận Cam, nếu
cần th́ có thể vào website sau đây để tham
khảo với các luật sư Pubdef gốc Việt. http://www.pubdef.ocgov.com/indexv.htm. Luật
sư Vân Khanh, ái nữ của TQLC Lê Nguyên Khang th́
lại dấn thân vào việc t́m sự sống cho cho
các bệnh nhân bị ung thư máu. Tôi đă
nhiều lần gặp cô cùng các bạn trẻ trong
những địa điểm hội chợ y tế
để kêu gọi “đồng hương giúp
đỡ đồng hương”, xin đồng hương
cho một tí “nứơc bọt” để may ra,
trong hằng chục ngàn người sẽ có người
cùng tế bào tủy với bệnh nhân để mà
cứu sống những người đang chờ
thần chết. C̣n ǵ cao quư cho bằng? Cùng
một nghĩa cử đối với bệnh nhân
ung thư, cháu Xuân Dung, ái nữ của nhà văn CXH,
sau khi bố ra đi v́ bệnh ung thư mắt, cháu
đă dồn tâm sức chạy bộ để gây
quỹ giúp tổ chức Ocular Melanoma
Foundation (OMF) tài trợ các cuộc khảo cứu
nhằm t́m ra phương thức điều trị
tốt hơn và hy vọng có được cách
chữa được chứng ung thư này. Thư
của cháu gửi bố:
Bố
Yêu Quư. Con dự cuộc chạy bộ này cho bố. Con chạy cho bố v́ sự chịu đựng, quyết tâm, và nhất là nỗi đau đớn (của cuộc chạy đường dài này) nhắc con nhớ lại sức mạnh và ư chí của bố khi phải đối diện với một điều kinh khủng và hoàn toàn mù mờ lúc đó. Lời chẩn đoán của bác sĩ là một cú shock cho bố và con, v́ ḿnh hoàn toàn không biết mức độ của nó như thế nào. “Choroidal Melanoma” là hàng chữ ḿnh đọc trong kết quả thử máu, nhưng bố và con, ḿnh chỉ biết hỏi nhau và tự hỏi: “ung thư mắt?”, “dữ vậy sao?”. Chúng ta chẳng biết ǵ hết, Bố cũng chẳng biết bệnh t́nh ḿnh thế nào nữa. Con ước ǵ lúc đó ḿnh biết nhiều hơn thế, con ước ǵ lúc đó bố có nhiều cách chữa trị để lựa chọn, con ước ǵ lúc đó có cách chữa bệnh cho bố… V́ vậy, cuộc chạy này của con là để cho bố. Con chạy cuộc đua này để ủng hộ cho tổ chức đang nỗ lực t́m ra cách chữa trị căn bệnh đó. Con biết là bố sẽ hănh diện khi biết con bố làm chuyện này. Mỗi ngày con t́m thấy phấn khởi và động lực trong cuộc sống từ bố và cuộc đời bố đă sống. Con biết là bố lúc nào cũng bên con, và con biết là bố sẽ có mặt ở đó khi con vượt đích đến của cuộc đua, Con yêu bố Bé Xuân Dung. Một
cháu gái khác, v́ muốn dấu tên và việc ḿnh làm
nên tôi gọi cháu là Trần Như Tiên. Như Tiên
đă sớm biết theo gương ông nội và
bố Trần Như H.. mà đem t́nh thương gieo
khắp nơi, cháu cổ động phong trào làm
đẹp cho đời bằng cách nhờ bố
cầm “tông-đơ” hớt trọc để
lấy tóc của ḿnh làm tóc gỉa rồi đem
tặng cho các bệnh nhân đang điều trị
ki-mô. Chỉ có những phụ nữ mới hiểu
giá trị của mái tóc, mới hết ư nghĩa cao
quư của cháu Như Tiên.
Thấy
con đầu trọc, không tóc, bố khóc v́ sung sướng,
thấy con đẹp như tiên nữ, hạnh phúc quá,
bố ôm con vào ḷng, nghẹn lời không nói. Các
cháu biết hy sinh chuyện riêng tư để nghĩ
đến tha nhân th́ đó là những tấm gương
sáng cho đời noi theo. Gương sáng không nên
cất trong tủ để soi một ḿnh mà hay
đưa cho mọi người soi chung, làm đẹp
chung. Học giỏi và thành công của tuổi trẻ gốc Việt th́ đông lắm, nhiều lắm, v́ nhiều lư do, các cháu c̣n phải lo chuyện riêng tư cũng là điều hợp lư, nhưng quư biết bao những tấm gương tuổi trẻ mà tôi vừa nêu trên. Nhưng sẽ thiếu sót nếu chúng ta không nhắc tới tuổi trẻ đang tiếp bước cha ông để tham gia vào ḍng chính, tranh đấu tự do cho Việt Nam.
Trong
các buổi lễ cộng đồng tại Nam CA,
hẳn độc giả thường thấy một
toán thanh thiếu niên trong quân phục TQLCVN rước
Quốc Quân Kỳ, kể cả nghi lễ chào kính và
biểu t́nh chống Cộng, các buổi gây quỹ
cho thương binh VNCH và ủng hộ tuổi trẻ
trong nước đấu tranh cho tự do dân chủ,
thưa... đó là thế hệ thứ hai, thứ ba
của TQLCVN, các cháu YM (Young Marines). Trong số này có
cháu đă tốt nghiệp ngành luật, ngành y. Chim
đầu đàn YM là cháu Thu Hà, ái nữ của TQLC
Định Nguyên. Các cháu đang là những mầm
non để nối tiếp anh chị đi trước,
để làm đẹp cho cộng đồng tỵ
nạn gốc Việt. Trong
lănh vực chính trị, tuy chỉ mới 40 năm mà
nhiều tuổi trẻ gốc Việt đă đang là
những vị dân cử, đó là niềm hănh
diện, không riêng cho cộng đồng người
Việt hải ngoại, mà ngay cả báo chí trong nước
cũng loan tin, người Việt trong nước cũng
không tiếc lời khen ngợi và chúc mừng các
vị dân cử này thành công. Trong
mùa bầu cử tháng 11/2014, riêng tại Orange County,
CA, tuổi trẻ gốc Việt đă mang hết tâm
huyết vào một cuộc tranh cử với những
ứng cử viên kỳ cựu ḍng chính và tuổi
trẻ gốc Việt đă thắng, đă là Thượng
Nghị Sĩ Tiểu Bang, là 3 Thị Trưởng và
nhiều nghị viên thành phố, ủy viên giáo
dục. Đáng chú ư là em Nguyễn Bảo đă
đắc cử Thị Trưởng Garden Grove, hơn
cựu thị trưởng chỉ có 15 phiếu. Điều
này nhắc cho những ai là người Mỹ gốc
Việt hăy quyết tâm đi bầu cử. Mỗi lá
phiếu của người Mỹ gốc Việt là
tiếng nói mạnh nhất của chúng ta đối
với ḍng chính, dù cho không biết nói tiếng
Mỹ. Có quyền nói mà chúng ta từ chối th́ hóa
ra ngọng, chúng mong ǵ người khác nói thay hay làm
điều hữu ích cho chúng ta! Nứơc
Mỹ là môi trường lư tưởng cho tuổi
trẻ tiến thân, mới chỉ trong thời gian
ngắn, gần 40 năm mà thế hệ thứ hai
thứ ba đă đạt được những thành
quả đáng khâm phục th́ chúng ta cứ vững
tin ở các em. Các em không những sẽ đưa
cộng đồng Việt tiến xa hơn nữa,
tham gia ḍng chính nhiều hơn nữa mà sẽ đem
tự do, dân chủ, dân quyền về quê hương
Việt Nam.
Hiện
nay, nước Mỹ là nơi có số sinh viên
ngoại quốc đến học tập đông
nhất, trong đó có hơn 16 ngàn sinh viên đến
từ Việt Nam. Dù cho họ xuất thân từ
nguồn gốc giai cấp độc tài, nhưng
họ đang sống và học tập trong môi trường
tự do dân chủ th́ chính thành phần này sẽ là
người đóng đinh đậy nắp quan tài
CSVN. Tuổi
trẻ ngưởi Mỹ gốc Việt, tuổi
trẻ trong nước du học Hoa Kỳ sẽ là
những người cất những cái b́nh vôi độc
tài đảng trị vào gốc cây đa để
nứơc Việt chúng ta sạch sẽ bóng bọn xâm
lăng phương Bắc. Hăy tin vào tuổi trẻ,
dù ngàn năm bị giặc Tàu đô hộ mà
Việt Nam vẫn là Việt Nam th́ ngày nay, tuổi
trẻ Việt, tự do, dân chủ, văn minh học
được từ Mỹ th́ đừng lo bọn
phương Bắc xâm lăng. Nhiệm
vụ chúng ta, những người đi trước
hăy nói cho tuổi trẻ biết việc chúng ta đă
làm, làm dang dở trong 40 năm qua để họ
tiếp tục. Nói
với “đồng minh”, tôi xin mựơn câu nói
của ông Dan, giáo sư dạy sử của Shoreline
Community College nói với một học tṛ cựu quân
nhân gốc Việt: _ Từ
đó tới nay, hơn hai mươi năm dài,
kể từ ngày những gia đ́nh Việt Nam đầu
tiên tới định cư ở Hoa Kỳ, chưa ai
nói cho tôi nghe những điều này. Có thể, người
ta muốn quên đi quá khứ, hoặc là người
ta không có can đảm nói ra. Tôi đă hiểu, và tôi
phải cám ơn ông. Để kỷ niệm 40 năm tỵ nạn, người viết xin cám ơn cộng đồng người Mỹ gốc Việt, cám ơn tuổi trẻ “Vẻ Vang Dân Tộc Việt” về những thành quả mà chúng ta đă đạt được để hy vọng và tin tưởng rằng tương lai tuổi trẻ gốc Việt sẽ là những dân biểu và thượng nghị sĩ Liên Bang, những thống đốc. Tuổi trẻ hải ngoại là hậu phương vững mạnh yểm trợ tuổi trẻ trong nước để đuổi bọn xâm lăng Trung Cộng ra khỏi lănh thổ, lănh hải Việt Nam./. |