
Tấm bia kỷ niệm bị đục bỏ các
chữ "Trung Quốc xâm lược”
58 năm sau ngày ông Hồ Chí Minh, cha đẻ của
đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nói câu tuyên
truyền “Đảng ta là đạo đức, là văn
minh” th́ số cán bộ, đảng viên
“suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống” và “quan liêu, tham nhũng,
lăng phí” tăng cao hơn bao giờ hết.
Kết qủa này là bằng chứng đảng
đă ḥan toàn bất lực trong kế họach “xây
dựng chỉnh đốn đảng” (XDCĐĐ)
bắt đầu từ Khóa đảng VII thời
Đỗ Mười làm Tổng Bí thư (1991-1997).
Bây giờ, dưới thời ông Nguyễn Phú
Trọng khoá đảng XII, tổng cộng 27 năm XDCĐĐ
mà lănh đạo vẫn chỉ biết đổ
lỗi cho “mặt trái của nền kinh tế thị
trường” và số cán bộ, đảng viên
thiếu bản lĩnh bị sa ngă trước cám
dỗ của tiền tài và danh vọng, là nguyên nhân
của t́nh trạng “tự diễn biến” và
“tự chuyển hoá” đang đe dọa sự
sống c̣n của đảng.
Như vậy, nếu ông Hồ c̣n sống th́ hẳn
ông phải xấu hổ cho những điều ông nói
tại buổi lể kỷ niệm 30 năm ngày thành
lập đảng (3-2-1930 / 3-2-1960).
Hồi ấy Ông nói:
“Đảng ta vĩ đại như biển rộng,
như núi cao
Ba mươi năm phấn đấu và thắng
lợi biết bao nhiêu t́nh!
Đảng ta là đạo đức, là văn minh
Là thống nhất, độc lập, là hoà b́nh,
ấm no
Công ơn Đảng thật là to
Ba mươi năm lịch sử Đảng là cả
một pho lịch sử bằng vàng”
(Rút ở "Lời khai mạc lễ kỷ niệm
lần thứ 30 ngày thành lập Đảng", Thơ
Bác Hồ, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1971)
Nhắc lại chuyện xưa của ông Hồ để
thấy nhiều điều ông nói chỉ để
tuyên truyền gây ảo tưởng và hy vọng hăo
huyền. Các lớp lănh đạo sau ông, từ
thời Bí thư thứ nhất rồi Tổng Bí
thư Lê Duẩn (cầm quyền từ 10 tháng 9 năm
1960 – 10 tháng 7 năm 1986, 25 năm, 303 ngày), đến
các Tổng Bí thư Trường Chinh qua Nguyễn Văn
Linh (khoá VI) rồi chuyển cho Đỗ Mười
(VII), Lê Khả Phiêu (VIII) đến Nông Đức
Mạnh (IX và X) sang Nguyễn Phú Trọng (từ Khoá
XI), tổng cộng 58 năm mà căn bệnh “suy thoái
đạo đức và tư tưởng” của cán
bộ, đảng viên vẫn là tiền đề
của mọi vấn đề đảng c̣n phải
đối phó.
Nhưng nếu “suy thoái đạo đức”
chỉ thu gọn trong phạm vi con người của
đảng th́ hy vọng sửa sai vẫn có thể làm
được nếu lănh đạo quyết tâm làm
đến nơi đến chốn.
Ngược lại, khi “đạo đức” và “văn
minh” chỉ c̣n là tấm b́nh phong che đậy cho âm
mưu xuyên tạc lịch sử th́ đạo lư dân
tộc và ḷng yêu nước đă bị loại
bỏ. Càng tệ hại và ô nhục hơn,
nếu hành động ấy lại do những người
có học vị cao trong xă hội được
trao trọng trách bảo tồn và khai sáng đă quay lưng
phản bội, theo lệnh của Bộ Chính trị
để tránh gây ra phức tạp trong quan hệ
Việt-Trung.
Đem suy luận này áp dụng cho hành động
sợ Tầu ra mặt của Lănh đạo đảng
CSVN khi họ cố t́nh lăng quên xương máu của
trên 40 ngàn đồng bào và bộ đội đă
hy sinh trong cuộc Chiến tranh biên giới
Việt-Trung 1979 -1990 th́ ta biết ngay tại sao bộ
Lịch sử Việt Nam được Viện Hàn lâm
Khoa học Xă hội Việt Nam phát hành ngày 18/08/2017,
tuy đă dám viết “quân Trung Quốc xâm lược”
nhưng vẫn hời hợt về cuộc
chiến này.
39 NĂM PHẢN BỘI
Trước hết, trong 39 năm qua, mỗi khi ngày 17 tháng
2 hàng năm trở về, hàng triệu con tim người
Việt trong nước đă thổn thức tưởng
nhớ về những người đă nằm
xuống trong cuộc chiến biên giới 1979-1990, dù
trong quân ngũ hay dân thường, cụ ǵa, đàn bà
và trẻ thơ. Nhưng ngoài những cuộc thăm
viếng nghĩa trang hay tư gia lẻ tẻ của các
cựu chiến binh nhớ về đồng đội
cũ, tuyệt nhiên không có bất cứ tổ
chức, đ̣an thể hay chính quyền từ trung
ương xuống cơ sở nào đứng ra tổ
chức các buổi lễ tưởng niệm và ghi
ơn những người đă hy sinh.
Chẳng những thế, đảng và nhà nước
CSVN c̣n ra lệnh cho công an, công an đội lốt côn
đồ ngăn chặn, bắt cóc và tấn công
những người dân xuống đường
tuần hành hay tập trung dâng hương tại
kỳ đài Lư Thái Tổ cạnh Hồ Gươm Hà
Nội, hay tại Sài G̣n vào ngày 17/2.
Cũng tương tự, các cuộc tổ chức tưởng
niệm 74 chiến sỹ Quân đội Việt Nam
Cộng ḥa hy sinh trong trận chống quân Tầu xâm lăng
Ḥang Sa năm 1974 và 64 Bộ đội đă bỏ ḿnh
ở Trường Sa năm 1988 cũng bị ngăn
chặn.
Về mặt báo chí truyền thông th́ từ 1979
đến 2016, không báo nào hay bất cứ ai được
phép khơi lại cuộc chiến biên giới.
Lệnh cấm này đă được nới rộng
đối với các báo “không chính thống” từ
năm 2017, sau khi bị nhiều trí thức và giới
sử học chỉ trích.
Tuy nhiên, các cơ quan báo chí “ruột” như Nhân Dân,
Quân đội Nhân dân, Ság̣n Giải Phóng, Thông
tấn xă Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam và
các Đài Truyền h́nh chính phủ và Quân đội
đều đồng loạt được lệnh
“ngậm miệng” để được ăn
tiền.
Riêng lần kỷ niệm 39 năm cuộc chiến biên
giới năm nay (2018), các báo của Bộ Thông tin và
Truyền thông gồm Infonet, VietNamNet và Tuần Việt
Nam đă phổ biến một số bài viết dưới
dạng nghiên cứu hay phỏng vấn về diễn
tiến của cuộc chiến từ ngày 17/02/1979 cho
đến các cuộc giao tranh đẫm máu
Việt-Trung tại mặt trận Tỉnh Hà Tuyên cũ,
đặc biệt tại Vị Xuyên.
Những bài viềt này, tuy có nhiều bằng chứng
nhưng chưa được đưa vào sách sử
để nói cho các thế hệ người Việt
Nam sau này biết tường tận về biến cô
đau thương này.
V́ vậy, những sự kiện c̣n thiếu trong 8
trang (từ trang 351 đến 359) của tập 14
bộ Lịch sử Việt Nam đă để lại
một khỏang trốngkhó hiểu.
Bằng chứng khi nói về cuộc chiến bảo
vệ lănh thổ của Việt Nam ở biên giới
phía Bắc, đă có không ít thắc mắc tại sao
giới viết sử của đảng CSVN
phải mở đầu bằng đọan nịnh
Trung Hoa thế này: “Việt Nam luôn luôn biết ơn
sự giúp đỡ tận t́nh của Chính phủ và
nhân dân Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ cũng như trong công
cuộc xây dựng đất nước. Việt Nam
rất coi trọng quan hệ láng giềng hữu
nghị và hợp tác với Trung Quốc.”
Sau đó, sách sử mới Việt Nam lại cố ư
liên kết xung đột biên giới Việt-Trung
từ năm 1976 với cuộc chiến giữa
Việt Nam và Quân Khmer đỏ, do Pol Pot lănh đạo
được Bắc Kinh yểm trợ, ở biên
giới Tây Nam.
Nhưng sách lại không dám nói đó là hành động
của Trung Quốc dùng Khmer đỏ Pol Pot đề
phá Việt Nam mà lại viết ỡm ờ thế này:
“Các cuộc xung đột nổ ra ở biên giới
Việt – Trung (khu vực Cao Bằng – Lạng Sơn)
vào cuối năm 1976 và tháng 3/1977 gần như trùng
hợp với thời gian diễn ra t́nh h́nh căng
thẳng ở biên giới Việt Nam – Campuchia ở phía
Tây Nam.”
Đến khi viết về cuộc chiến
Việt-Trung th́ sách của Việt Nam chỉ tóm
tắt: “5h sáng ngày 17/2/1979, 60 vạn quân Trung Quốc
đồng loạt vượt biên giới kéo dài
1.400km tiến vào 6 tỉnh của Việt Nam gồm
Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên (Hà
Giang, Tuyên Quang), Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái), Lai Châu,
điều động 9 quân đoàn chủ lực;
2.559 khẩu pháo, 500 xe tăng và xe thiết giáp tiến
sâu vào đất Lạng Sơn, Lai Châu 10 — 15km, vào
Cao Bằng 40 — 50km.
Quân dân Việt Nam đă kiên cường chiến đấu
bảo vệ lănh thổ Tổ quốc, loại
khỏi ṿng chiến đấu 62.500 địch, tiêu
diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn,
18 tiểu đoàn, bắn cháy và phá hủy 550 xe quân
sự trong đó có 280 xe tăng, xe bọc thép, phá
hủy 115 khẩu pháo và súng cối hạng nặng,
thu nhiều vũ khí, bắt nhiều tên xâm phạm lănh
thổ Việt Nam.
Tuy nhiên, do bị động nên không phải bộ
phận nào cũng giữ vững được
khả năng chiến đấu. Đoạn trích sau
đây trong báo cáo của Đảng Đoàn Tổng Công
đoàn Việt Nam phản ánh một góc độ khác
của t́nh h́nh: "Trên mặt trận chiến đấu
chống quân Trung Quốc xâm lược, các đơn
vị tự vệ công nhân viên chức các lâm trường,
nông trường, các đoàn địa chất, các xí
nghiệp, cơ quan ở sát biên giới đă
chiến đấu dũng cảm, góp phần đánh
lui nhiều đợt tiến công của địch,
tiêu diệt nhiều địch. Tuy nhiên, ít đơn
vị chiến đấu được dài ngày do
thiếu đạn, thiếu ăn, thiếu chỉ huy
thống nhất với bộ đội chủ
lực; một số đơn vị bỏ chạy vô
tổ chức do bị động, lănh đạo không
vững vàng…."
“… Ngày 1/3/1979, Trung Quốc đề nghị đàm
phán Trung – Việt ở cấp Thứ trưởng
Ngoại giao để khôi phục ḥa b́nh, an ninh ở
biên giới, tiến tới giải quyết tranh
chấp về biên giới lănh thổ. Ngày 14/3/1979, Trung
Quốc rút hết quân về nước.”
Đọc những ḍng chữ “nửa sự
thật” này ai cũng thấy lịch sử đă
bị bóp méo có chủ trương che giấu nhiều
sự thật. Bởi v́ trong chiến tranh th́ phải có
thương vong, nhưng các nhà viết sử Cộng
sản lại che giấu thương vong của phía
Việt Nam trong khi họ được tự do phanh
phui số tổn thất về người và quân trang
của quân đội Trung Hoa.
Họ cũng vẽ ra thành công bằng cách nói vắn
tắt để vơ vào mà không cần phải
chứng minh rằng: “Với thắng lợi của
hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc,
Việt Nam đă bảo vệ được chủ
quyền dân tộc và toàn vẹn lănh thổ, tạo
điều kiện để tiếp tục sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xă hội trên
phạm vi cả nước. Đồng thời,
Việt Nam cũng làm tṛn nghĩa vụ quốc tế
với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào, tích cực góp
phần bảo vệ độc lập dân tộc và ḥa
b́nh ở Đông Dương và Đông Nam Á.”
Lối viết sử mập mờ như vậy
chỉ làm cho người đọc thắc mắc thêm,
và tất nhiên chẳng mở mang được trí
tuệ cho học sinh khi phải học những điều
này trong sách Giáo Khoa.
Hơn nữa sẽ chẳng ai hiểu tại sao
Việt Nam, dưới thời Cộng sản cầm
quyền lại phải có “nghĩa vụ quốc
tế với nhân dân Campuchia và nhân dân Lào” để
làm ǵ? Ai đă ra lệnh, chi viện cho Việt Nam làm
như thế, và với mục đích ǵ?
Sách sử không dám giải thích v́ mấy chữ “nghĩa
vụ quốc tế”, không những mơ hồ mà c̣n
tiềm ẩn tổn thất về người và
của mà phiá Việt Nam đă tiêu hao ở Lào trong 20
năm theo đuổi chiến tranh xâm lăng Việt
Nam Cộng ḥa, và thêm 10 năm Việt Nam xâm lăng và
chiếm đóng Kampuchea để đánh nhau với quân
Khmer đỏ của Pol Pot từ 1979 đến 1989.
Sau 10 năm phiêu lưu ở Cao Miên, quân Việt
Nam phải rút về nước để đổi
lấy b́nh thường quan hệ ngọai giao với
Trung Hoa năm 1991, tiềp sau Hội nghị bí mật
Việt-Trung ở Thành Đô (Tỉnh Tứ Xuyên bên
Tầu) năm 1990.
Tổn thất của Việt Nam trong 10 nămở Cao
Miên được ước tính khỏang 50 ngàn
quân lính chết và lối 30 ngàn bị thương, nhưng
không ai biết Việt Nam hay nước nào đền
bù thiệt hại này cho những gia đ́nh có người
hy sinh?
Vậy khi sách sử Việt Nam c̣n thiếu minh bạch
th́ ai mà tin được các nhà làm sử khi họ
viết trong sách mới rằng: “Sau thắng lợi
của cuộc chiến đấu bảo vệ lănh
thổ ở biên giới Tây Nam và biên giới phía
Bắc, nhiệm vụ củng cố quốc pḥng và an
ninh càng được đẩy mạnh. Chiến công
mới: tiêu diệt và làm tan ră đại bộ
phận lực lượng phản động FULRO
ở vùng Tây Nguyên, bắt gọn nhiều nhóm phản
động, gián điệp, thám báo và làm phá sản
âm mưu phá hoại của chúng, là thể hiện
sự cảnh giác cao của quân và dân Việt Nam.”
Đọc những ḍng này, ai cũng cảm thấy như
có tiếp sức hà hơi tuyên truyền của Ban Tuyên
giáo nên gía trị lịch sử đă bị
bị lu mờ.
Do đó,Tổng chủ biên bộ sử Việt Nam,
PGS.TS (Phó Giáo sư-Tiến sỹ) Trần Đức Cường
đă nh́n nhận “Nhiều vấn đề quan
hệ Việt - Trung chưa được nhắc đến”,
hoặc ông cũng “Tiếc là cuộc chiến bảo
vệ biên giới giai đoạn 1980 - 1989 chưa
đưa được vào bộ sử do tư
liệu hầu như không có.”
Nên biết sau khi rút quân khỏi Cao Bằng và Lạng
Sơn ngày 14 tháng 3 năm 1979, quân đội Trung Hoa
lại mở ra mặt trận thứ hai từ 1980
đến 1990 đánh vào tỉnh Hà Tuyên (gồm Hà
Giang và Tuyên Quang). Cuộc chiến kéo dài nhiều tháng
ác liệt và gây thương vọng nặng cho
Việt Nam xẩy ra ở Vị Xuyên, nay thuộc
Tỉnh Hà Giang thành lập mới từ năm 1991.
Nhưng Giáo sư Cường lại cũng
“nuối tiếc bộ sử chưa nói sâu về quan
hệ Việt - Trung các thời kỳ hay sự kiện
Gạc Ma năm 1988.”
Gạc Ma là băi đá trong quần đảo Trường
Sa và là nơi đă xẩy ra cuộc chiến đẫm
máu giữa lực lượng pḥng thủ Việt Nam và
quân xâm lược Trung Hoa ngày 14/03/1988. Có 64 lính
của Quân đội nhân dân đă thiệt mạng
ở đây. Gạc Ma nay nằm trong tay quân Trung Hoa cùng
với một số băi đá đă biến thành đảo
nhân tạo và căn cứ quân sự của Bắc
Kinh.
ĐẠO ĐỨC CỦA LỊCH SỬ
Với những thiếu sót khi biên sọan bộ
lịch sử quan trọng, sau 9 năm làm việc và
nghiên cứu tài liệu, thử hỏi thứ “đạo
đức” và “văn minh” theo tiêu chuẩn của
ông Hồ Chí Minh đặt ra năm 1960 th́ những nhà
viết sử Cộng sản có đáng được
tưởng thưởng không?
Họ hăy nghe Thiếu tướng Lê Mă Lương, người
đă chiến đấu 8 năm ở biên giới
Việt-Trung và được phong tặng “anh hùng
lực lượng vơ trang”, kể về chiến
sự ác liệt tại Vị Xuyên: “Đă có cả
chục ngàn người lính và thường dân ngă
xuống và chừng đó người khác bỏ
lại một phần thân thể ḿnh dọc biên
giới phía Bắc những năm 1979-1988. Khi nói về
lịch sử, dân tộc, chúng ta phải công bằng,
không ai được phép lăng quên, không ai được
cố t́nh lăng quên sự thật này”. (Theo báo
Tuần Việt Nam, 27/07/2017)
Cậu chuyện bi thương thứ hai nên kể
về Pháo đài Đồng Đăng, tỉnh
Lạng Sơn.
Đó là khi: “Nhắc đến những ngày
đương đầu với quân Trung Quốc
tại Lạng Sơn, không thể không kể đến
trận đánh tại pháo đài Đồng Đăng.
Người trực tiếp chiến đấu
tại pháo đài này là Đại tá - Anh hùng Nông Văn
Pheo, năm nay 61 tuổi. Ông may mắn sống sót sau
trận đánh vô cùng chênh lệch về lực lượng
với quân xâm lược.
Để bảo toàn lực lượng, Đại tá
Pheo và một số đồng đội đă
phải rút lui khỏi pháo đài t́m đường
về đơn vị tiếp tục chiến đấu.
Theo thống kê, sau 3 ngày đêm chiến đấu anh dũng,
Đại tá Nông Văn Pheo đă trực tiếp tiêu
diệt 70 tên địch, góp phần gây tổn
thất nặng nề cho quân địch.
Nhưng đau xót thay, sau khi pháo đài Đồng
Đăng thất thủ, quân Trung Quốc đă sát
hại hàng trăm đồng bào ta. Pháo đài trở
thành ngôi mộ tập thể lớn nhất trong
chiến tranh biên giới của nhân dân Lạng Sơn.
Trước sự tấn công ồ ạt của quân
Trung Quốc, Đồng Đăng và thị xă
Lạng Sơn đều bị thất thủ. Quân xâm
lược đi đến đâu là tiến hành đốt
phá nhà xưởng, công sở, kho tàng bến băi
tới đó. Thị xă Lạng Sơn và nhiều địa
phương khác gần như bị phá huỷ hoàn toàn
sau khi quân Trung Quốc rút đi.”
(báo Dân Việt , ngày 17/02/2018 )
Chi tiết hơn, nhân chứng Hoàng Văn Liên là
một trong hai người sống sót tại pháo đài
Đồng Đăng, nấm mồ chung của gần
400 người cả dân thường và bộ đội
Việt Nam.
Báo Tuần Việt Nam viết ngày 10/02/2018: “Nhóm
của ông cùng lực lượng biên pḥng chiến
đấu quyết liệt. Sau ba ngày, bộ đội
tại các lực lượng đă hy sinh gần
hết. Những người c̣n lại rút vào cố
thủ trong pháo đài và bắn qua lỗ châu mai. Pháo
đài có 3 cửa, một cửa đă bị lấp
từ trước, 2 cửa c̣n lại bị lính Trung
Quốc chiếm giữ. Đến ngày thứ 4, lính
Trung Quốc thả bộc phá và khí ngạt vào hang
khiến toàn bộ gần 400 người cả dân và
quân thiệt mạng. Ông và một đồng đội
khác lợi dụng đêm tối đă lên khỏi hang
rút đi, trở thành 2 nhân chứng cuối cùng cho câu
chuyện bi tráng ở pháo đài Đồng Đăng.”
“Pháo đài Đồng Đăng vẫn ở đó,
trở thành chứng tích của một sự kiện
lịch sử, là nấm mồ chung của gần 400 người
Việt Nam.”
(Tuần Việt Nam, ngày 10/02/2018)
Nh́n chung, nhiều biến cố đau thương
của Tỉnh Lạng Sơn trong cuộc chiến tranh
biên giới 1979 đă bị sách sử mới của
Việt Nam cố t́nh bỏ quên.
Chẳng hạn như chi tiết này của Phóng viên Trường
Sơn: “Theo công bố chính thức, Lạng Sơn
đă loại khỏi ṿng chiến 19.000 quân Trung
Quốc, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng
3 trung đoàn và 4 tiểu đoàn địch, phá
hủy 76 xe tăng, thiết giáp, 52 xe quân sự. Để
lập nên chiến công này, quân dân Lạng Sơn cũng
đă phải chịu hy sinh to lớn: Sư đoàn 3 hy
sinh và bị thương gần 1.500 cán bộ chiến
sĩ; Sư đoàn 337 hy sinh 650 cán bộ chiến sĩ,
Sư đoàn 338 hy sinh 260 cán bộ chiến sĩ, Trung
đoàn 197 hy sinh và bị thương 168 cán bộ
chiến sĩ…” (Infonet, ngay 17/02/2018)
Vậy thương vong đôi bên ở mặt trận
Vị Xuyên (Hà Tuyên) ngày ấy ra sao?
Phóng viên Ḥang Thùy của Việtnam Express cho biết
trong bài viết ngày 25/07/2014: “Mặt trận Vị Xuyên
- Thanh Thuỷ được xác định là vùng
chiến sự ác liệt nhất trong cuộc chiến
tranh chống lấn chiếm biên giới phía Bắc
1984-1989. Trong ṿng 4 tháng (4/1984 - 8/1984), Việt Nam đă
loại khỏi ṿng chiến đấu khoảng 7.500 quân
Trung Quốc….”
Thương vong của phiá quân đội Việt
Nam th́ nhiều tài liệu nói là có khỏang 4,000 người
đă hy sinh, một nửa trong số này vẫn c̣n
nằm ở chiến trường.
Với những tang thương ngất trời như
thế mà ở Việt Nam vẫn có những kẻ làm
tay sai cho Tầu phương bắc để rước
voi về dày mồ như đă thấy ở Dự án
Bauxite Tây Nguyên và Formosa Hà Tĩnh.
Cách ứng xử này làm ǵ có “đạo đức”
và “văn minh” như ông Hồ tuyên truyền cách nay
58 năm v́ nó không phải là của những con người
có truyền thống và văn hoá Việt Nam.
Càng đáng khinh hơn khi có những lănh đạo
đă đang tâm đánh đổi xương máu
chiền sỹ và đồng bào trong chiền tranh biên
giới để được yên thân với
giặc Phương Bắc mà không biết hèn và
nhục là ǵ.
Phạm Trần
|