BA MƯƠI THÁNG TƯ CỦA NĂM 2022 Nguyễn Thành Danh |
Cũng ngày này, bốn
mươi bảy
năm trước tôi đang cùng đoàn chiến
hạm của HQVNCH tiến dần đến đảo Côn Sơn với thuỷ thủ đoàn th́ ít mà với
các anh em quân nhân cùng gia đ́nh thân nhân. Hôm nay ngồi
đây viết lại những ǵ đă trăi qua kể
từ tháng Ba năm một
chín bảy
lăm cho tới ngày cùng nhau ra khơi và được
gọi tên là "Chuyến
Hải Hành Cuối Cùng". THÁNG TƯ ĐEN
Và như đă viết
ở
trên, với tôi đó là tháng đẫm
máu, KHỞI ĐẦU là kể từ ngày hai mươi bốn
tháng ba năm một
chín bảy lăm. Hải
Hành Hành Quân Di Tản.
Trước đó, ngày 24 tháng 3 năm 1975, tôi c̣n
nhận
lệnh đi công tác Đà Nẵng.
Nhận lệnh đi nhưng không hỏi
lư do. Mười giờ đêm rời cầu tàu. Trên sông Sài g̣n, ra sông Ḷng Tảo,
ra cửa biển, bọc ṿng qua Vũng Tàu và thẳng
hướng Bắc. Chưa biết t́nh h́nh nghiêm trọng
là ǵ hết. Đến khoảng 1 giờ rưỡi sáng, tay lái điện
của tàu bị hỏng và phải cố gắng vận chuyển vào ủi đỡ ở "Les Quatre Bras", khoảng một
tiếng đồng hồ sau anh em cơ khí cùng điện
khí đă cố gắng và tàu lại tiếp tục chuyến hải hành về hướng Bắc. Đến Đà Nẵng, tôi chỉ báo cáo cho Soái Hạm
và tôi không được lệnh vào cập cầu tàu, mà dù có vào được
cũng không có cách nào cập bất cứ khoảng trống nào của cầu tàu. V́ vừa vào cửa Sông Hàn là đă thấy
một cảnh tượng hăi hùng trên cầu
tàu của
Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải. Chúng tôi không vào gần
hơn được để quan sát. Chúng tôi thấy
ǵ? Không thấy người, không thấy cảnh vật như thường thấy mọi khi trước khi mỗi lần ra công tác ở
Vùng 1 Duyên Hải,
mà chỉ thấy được MỘT RỪNG TÓC ĐEN, từ
trên tàu chúng tôi chỉ thấy có vậy mặc dù dùng ống ḍm (binocular), tôi lạnh
cả xương sống. Qúa đông người
lo tháo chạy
bỏ hết bỏ hết có ǵ làm lại
sau. Tôi vẫn tới lui vùng này (Vùng 1 Duyên hải)
và chờ lệnh, và rồi lệnh tới. Vào cho được
băi Tiên Sa để
cứu Dân Quân. (Một
băi biển
đẹp của Đà Nẵng) Từ từ tôi xem lại hải đồ và thấy rằng băi Tiên Sa là một
băi "lài" (nghĩa là từ băi biển ra cho tới ngoài chỉ một băi xuống thấp dần dần không có một
ngấn
xuống sâu như các băi biển
thông thường khác và đây là điều
hiếm khi cho một chiến hạm phải ủi vào băi). Với
lại
HQ 403 mới trục vớt lại từ Ḥn Bảy Miếu, hầm chứa nước (để xả khi chiến hạm uỉ băi xong mà bị
nước
ṛng th́ xả nước trong hầm này ra để chiến hạm nổi lên và dễ rút ra khỏi băi) đă bị hàn kín mít (v́ lư do tai nạn).
Vậy mà cầm ḷng không đậu
v́ bao nhiêu là đàn bà, trẻ con và quân nhân đang mong mỏi
chiến hạm uỉ vào để "vớt" cứu họ lên hạm, tôi chặc lưỡi và thầm nghĩ "thôi th́ cứ
vào rồi tính sau" và tôi cho chiến
hạm ủi băi sau khi chuẩn
bị neo lái, chuẩn
bị
cửa đổ bộ. Taù từ từ tiến vào băi chỉ
với
cái trớn chứ không chạy máy, vậy mà đă nghe tiếng
" sạt
sạt" của lườn chiến hạm chạm cát rồi, dĩ nhiên tàu ngừng,
(neo lái đă thả trưóc đó không nhớ
bao nhiêu thước). Pḥng máy lo cho mở
cửa đổ bộ và hạ cửa "ramp", dân quân vui mừng
khôn xiết. Trung úy Nguyễn
Hữu
Từ và Trung úy Hạnh
đặc
trách lo cho người lên đứng ngay tại mép cửa đổ bộ. Phần phụ là hai bên hông chiến
hạm đă thả (4 hay 6) thang giây cho dân quân leo lên, trên tàu
mỗi
thang giây đều có nhân viên đứng chờ sẵn
để giúp họ và cũng tịch thu súng đạn
của
quân nhân pḥng khi có biến. Phía cửa đổ bộ hai Trung úy tận
tâm sốt
sắng giúp người leo lên nhất
là đàn bà và trẻ em. Đàn ông th́ dễ
dàng hơn. Tôi nh́n họ từ đài chỉ huy mà nước mắt cứ chảy không cầm được. Đă vậy trên bờ băi có hai chiếc
xe 10 bánh chạy
tuôn tràn xuống bất kể đoàn người đang chạy bộ, lội bộ lật đật cho kịp. Tôi thấy v́ muốn sống mà không cần
biết
đồng bào khác có cả
trẻ
con cũng đang lật đật vừa chạy vừa khóc la. Chỉ
có cách ngăn cản
họ là cầm súng bắn ngay đầu máy xe th́ mới
ngừng
họ được, và tôi đích thân đă làm như thế. (Sau này Trung úy Từ
có kể lại một chuyện hy sinh rất đau ḷng: hai chị
em và một bé - không nhớ
bao nhiêu tháng v́ c̣n bồng trên tay dùng thuyền
thúng đến cửa đổ bộ, Trung úy Từ
đă gíup người
em bước lên, rồi người chị trao đứa nhỏ cho người em xong, chị
đẩy
chiếc thuyền thúng và nói vói theo: “Em lo cho cháu dùm chị”. – Trung úy Từ
chỉnh
lại nếu tôi nhớ sai - cám ơn. Hy sinh và ở
lại có lẽ để chờ chồng? Chỉ khỏang 30 tới 45 phút, ḷng chiến
hạm đă chật ních người. Giờ phút này tôi ái ngại
và lo lắng vô cùng. Ái ngại và lo lắng vô cùng v́ chiến hạm
đă khá đầy người mà trên bờ có tiếng súng cũng như có đạn
rơi lẻ tẻ trên boong tàu. Không nghĩ là của
họ cũng không nghĩ là của
anh em chiến sĩ bên này. Đă đến lúc tôi phải
rời
băi ủi, v́ càng chờ cho ngướ lên th́ có lẽ
càng nguy hiểm v́ trời cũng bắt đầu nhá nhem. Tôi cho gọi sĩ quan cơ khí lên đài chỉ
huy để nói chuyện về cách kéo neo cùng cách cho máy chạy
như thế nào, và biết rằng không làm cách nào để
ngăn ngừa được người chết v́ chân vịt. Tôi đă dùng loa tay kêu gọi
những người đang c̣n bơi sau lái tàu và xung quanh
lẫn
đàng trước mũi tàu: "Xin mọi
người hăy tránh xa chiến
hạm, càng xa càng tốt,
tôi sẽ vào lần nữa để qúy vị có thể có may mắn ra đi". Nhưng không một
ai nghe, cho dù có nghe rơ cũng không ai tuân thủ,
chỉ muốn đạt được cái may mắn ra đi. Bây giờ phải làm sao? Có ai trả
lời được ngoài tôi? Thôi th́ v́ chiến
tranh không chết v́ đạn thù mà chết v́ cố gắng t́m tự do ở một bến bờ nào đó! 19 tháng năm năm hai không hai mươi
hai Sau khi lệnh kéo neo được
ban ra, sân sau của chiến hạm, sĩ quan cùng nhân viên không ai dám cho máy
kéo neo khởi động chỉ v́ đông người
c̣n bơi qua lại
phía sau lái chiến hạm, tôi cũng biết
vậy
nhưng đành nói vào máy là cứ cho khởi động và khi xích neo nhúc nhích th́ họ
sẽ hiểu và tránh xa. Neo được kéo th́ chiến
hạm
sẽ được lùi ra khỏi băi không cần
dùng máy, NHƯNG chiến hạm không nhúc nhích, lườn
tàu nằm trên cát rồi.
Thôi th́ đành thấy người bỏ mạng v́ chân vịt
vậy. Hạm trưởng một máy liên lạc,
sĩ quan Cơ khí trưởng một máy liên lạc.
Một
người trên đài chỉ
huy, một
người dưới hầm máy. Lệnh ra "hai máy lùi một".
Cơ khí trưởng đă biết khi khởi động hai máy lùi một
th́ kéo cần
trả lại về "hai máy ngưng" tức
th́. Và cũng đă nhắc mấy sĩ quan cùng đoàn viên đừng
báo cáo sự việc có người bị nhận xuống nước và nước biển đă đổi màu, chỉ cần cho biết có cát khi chân vịt
quậy lên. Tôi không dám nh́n ra phía lái chiến
hạm, chỉ nh́n chăm chăm về
phía trước (tức là nh́n vào bờ).
Sau ba lần
như vậy, tôi thấy được cột cờ nhỏ phía trước mũi chiến hạm xoay hướng có nghĩa là chiến
hạm đang được thoát từ từ. Thế là xong, hai bàn tay tôi đang ướt
đẫm mồ hôi vụt khô liền lúc đó. Cám ơn ơn trên đă
cho tôi rút chiến
hạm ra được. Dùng kỹ thuật lái tàu để vận chuyển HQ 403 ra khỏi
băi, như "tay lái hết bên tả”, “máy tả ngưng”, “máy hữu tiến
một”, “tay lái số
không”, “máy hữu
ngưng”, “tay lái mười lăm độ bên phải”,v.v.. để đưa chiến hạm đi thẳng ra khơi. Lệnh
liên tục
và nhân viên pḥng lái phải nhanh. (Trong lúc bối
rối
tôi xin lệnh cho một chiến hạm khác đến để kéo chiến hạm tôi ra, NHƯNG không ai muốn
bị mắc cạn v́ chiến hạm khác đều có lườn nhọn. Biết thân phận ḿnh nên đă tự
lo cho xong). Chạy tới lui sau khi báo cáo "action completed",
người người đầy chiến hạm có vẻ vui mừng nhưng thật sự nỗi lo âu hiện rơ trên từng khuôn mặt, anh em quân nhân cũng như đồng
bào. Biết mọi người đói khát nhưng hạm trưởng
này không giải
quyết ǵ hơn được. Tôi cũng là người
mà, "bốc" họ lên được trên chiến hạm của ḿnh, nhưng vợ
con của
tôi ở Sài G̣n không liên lạc
được chẳng biết ra sao?! Tưởng
đâu sẽ
đưa những người này về Vũng Tàu hay đâu đó th́ ḿnh nhờ
nhân viên thân tín chạy về nhà lo dùm gia đ́nh họ
cũng như gia đ́nh ḿnh. Nhưng có được vậy đâu. Vài tiếng
đồng
hồ sau th́ lệnh cho chuyển sang chiếc lớn hơn (h́nh như HQ 500), đành phải
làm vậy, thấy họ sung sướng v́ được lên chiến hạm lớn hơn và nhiều
hy vọng
về Sài G̣n. Tôi hoàn toàn không biết. (HQ 500 lớn
và dài hơn HQ 403. HQ 500 dài 328 feets chở
khoảng 20 xe tanks. HQ 403 dài 203.6 feets (chừng
62 mét). Vận tốc hồi mới:
13 knots/ giờ
hoặc 15 MPH hoặc
24 km/giờ. Hỏa lực không là bao nhiêu cả) Xin vào hỏi
" ông Google" LST và LSM ) ***************** Sau đó không lâu, lệnh
chuyển tới: "Danh chờ
đó sẽ có tiểu đĩnh đưa Tướng
Trưởng và một cố vấn ra và ông đưa Tướng
Trưởng về Sài G̣n gấp
để gặp Tổng thống."
Tôi vâng vâng dạ dạ một hồi khi Tư Lệnh Hạm
Đội
là Hải Quân Đại tá Nguyễn Xuân Sơn vừa dứt lời th́ tôi thưa ngay: "Tư Lệnh ơi, chữ
gấp ở đây là không được
rồi, làm sao HQ 403 chạy
được gấp, phải 3 ngày mới
về tới nơi, Tư Lệnh
nhờ Mỹ dùng trực thăng đưa ông Tướng
đi".
Tư Lệnh Hạm Đội bảo: "Cảm
ơn già, tui lu bu quá nên nhớ trước quên sau". Đại Tá Sơn người
Nam nên hay dùng danh từ "già". ************** Sau đó tôi lại
lang thang trên biển, gặp ghe dân nào th́ vớt
ghe đó. Thật tội nghiệp, họ thấy chiếc tàu to bự họ mừng lắm. Thang dây hai bên hông chiến
hạm lúc nào cũng ở
đó để
chờ, tôi ngừng để chờ, và c̣n xoay chiến
hạm về hướng cưỡi sóng để cho họ dễ bám thang hơn. Cửa
sông Hàn là nơi lúc nào cũng có sóng ngang, mà ghe cặp
vào th́ chỉ có bị dập vào thành tàu nguy hiểm. Lệnh lại tới cho tôi có công tác cho bớt
sự nh́n người hốt hoảng chạy mà không biết
chạy
đi đâu. "Già ở
đó chờ, tàu nhỏ sẽ đưa Chuẩn Tướng Tất đến và đưa Chuẩn
Tướng về Cam Ranh". Tôi có hỏi lại "Thưa
Tư Lệnh, là Chuẩn Tướng Tất". Mới đặc cách đó, nhớ
chớ
có chào Chuẩn Tướng đó nghe. Tới
giờ
này cũng không biết họ của Ông. (mới hỏi anh Như Trần
- là Chuẩn
Tướng Phạm Duy Tất) Không biết khi nào Chuẩn
tướng
mới ra tàu nên tôi dặn
sĩ quan và nhân viên đi phiên (xem chú thích phiá dưới) là
tôi phải
xuống pḥng tắm rửa nghỉ ngơi một
chút, Chuẩn
tướng đến nhớ gọi tôi. (48 tiếng
đồng
hồ tôi ăn uống cà phê trên đài chỉ
huy. Mỗi lần lên đài chỉ
huy, xuống
lại pḥng là leo ba cầu
thang gần như thẳng đứng, mỗi cầu thang có 12 bậc).
Tự
nhiên cảm thấy sốt ruột, tôi ra khỏi
pḥng tắm
và nhanh nhẹn mặc bộ quân phục để lên đài chỉ huy trở lại. Bộ quân phục đă có sẵn cấp bực và phù hiệu hạm trưởng nhưng tôi không
đội
mũ (không cần thiết v́ đang ở và làm việc trên chiến hạm của ḿnh). Leo lên gần
hết bực thang cuối cùng th́ thoáng thấy
Chuẩn tướng Tất đang ngồi đó, tôi cảm thấy khó chịu v́ không ai chạy
xuống
báo cho tôi rằng Chuẩn tướng đă đến. Dĩ nhiên tôi đến
chào và xin lỗi. Ông bước xuống khỏi ghế và nói: "Tôi
trao trả cái ghế lại cho anh ". Chú thích: Đi Phiên: Đoàn viên trên chiến hạm
được chia làm 3 chi đội,
mỗi chi đội
có trách nhiệm
cho một phiên. Một
phiên có thể trách nhiệm
cho một phiên 4 tiếng
đồng hồ và một
phiên đặc
biệt chỉ có 2 tiếng.
(Tôi có thể sai v́ lâu qúa trí nhớ
ṃn mỏi rồi).
(Tôi lật đật mời ông ngồi lại trên ghế đó - ghế của Hạm Trưởng- và ông sang ghế
dành cho Hạm Phó. Ông nói tôi không biết
mà cũng chẳng
ai giải thích cho đến
lúc anh lên, chú em này giỏi - ông chỉ vào một anh Hạ sĩ - đă đến chào tôi đúng cách và mời
tôi sang ghế này (ghế Hạm phó). Rồi Chuẩn tướng bắt đầu hỏi chuyện "quan liêu" của
Hải Quân. Ông nói tôi nghe rất nhiều về bên Hải Quân nhưng chưa từng
được biết, hôm nay thấy
rồi
đó. Vậy chứ Tư Lệnh Hải Quân xuống
tàu th́ sao? Thưa Chuẩn tướng v́ đây là tục
lệ
của Hải Quân mà Tư Lệnh Hải Quân
th́ dĩ nhiên biết
rồi nên không có vấn
đề.
Ông hỏi tiếp: “Về
vấn đề ăn uống th́ sao”? “Thưa
Chuẩn
tướng: thức ăn th́ rất
tầm thường nhưng phải
có hai người "hầu"
đứng hai bên, một
lo cho hạm trưởng và một lo cho sĩ quan. Tất
cả sĩ quan ( ngoại
trừ sĩ quan đang đi phiên) đều
phải ngồi vào bàn ăn chờ
hạm trưởng, khi hạm trưởng vào pḥng
ăn các sĩ quan đứng
lên, hạm trưởng mời ngồi mới được ngồi. Một sĩ quan kém thâm niên nhất
phải đứng lên đọc thực đơn "Thưa HT và quư vị sĩ
quan, thức
ăn hôm nay gồm có... Và xin mời...". Chuẩn tướng hỏi: “Lúc nào cũng
vậy sao”? “Dạ
cả tuần nay bận biụ quá nên sao cũng được”. Ông cười và nói: "Thật
là quan liêu, chúng tôi ngủ bờ ngủ bụi, ăn theo tiếng
súng nổ..."
Tôi đành cười theo và chỉ
nói được:
“Dạ
tập tục là vậy”.
Rồi sau đó nói lan man đủ
chuyện mà không đề
cập
đến chuyện ông đến Cam Ranh làm chi. Chiến hạm chạy ŕ ŕ đến khi tới Cam Ram th́ quư quan đang họp,
tôi mệt quá nên ra lệnh
không kịp
và đă đụng vào soái hạm
hơi mạnh.
Úi chao ơi, mấy ông Đại Tá đều
chạy
ra hỏi và tôi đang đứng
trên đài chỉ
huy đưa tay chào xong chạy xuống lo cho Chuẩn tướng
sang tàu, mặc dầu hai chiến hạm cặp vào khá sát nhau nhưng vẫn
phải chờ nhân viên bắc một
cầu
gỗ bề ngang chừng 5 tấc có tay vịn, gọi là Hạm Kiều, v́ nhỡ đâu khi đặt chân từ chiến hạm này qua chiến
kia, tàu dời
ra rồi dập vào th́ sao. Đúng ra khi bước
chân lên hạm kiêù, mặt phải quay lại về hướng lái tàu và chào lá quốc
kỳ và nếu là khách quan trọng
th́ hạm trưởng phải chào lại. Phần khác th́ thuỷ
thủ
đứng gác hạm kiều sẽ chào lại. Khi Chuẩn tướng bước sang soái hạm
th́ chỉ
có tôi chào tiễn đưa thôi. (Đại tá Tư
Lệnh Hạm Đội hỏi:
"Mệt
lắm hả Danh?" nghe sao mà thấy hết mệt luôn!! ************* Thứ
bảy ngày 29 tháng ba năm 1975 coi như Đà Nẵng
bỏ
ngỏ, tôi không dùng chữ
"MẤT", V́ Đà Nẵng
vẫn
đó chỉ là không c̣n chim đầu
đàn. Ông Tướng vùng I phải
đi gặp
Tổng Thống, ông Tỉnh trưởng cũng không có đó, trời
ơi, tôi nghĩ bên trong chắc hỗn loạn vô bờ. Tháng sáu ngày bảy
năm 2022, Tôi ngồi đây moi lại trong kư ức những ǵ c̣n nhớ
được,
biết rằng có thiếu sót nhưng vẫn
c̣n hơn giữ
trong tâm để làm cái ǵ? Thế rồi tôi rời soái hạm để đi về hướng Bắc. Chiến hạm ra khỏi vịnh Cam Ranh, tôi ṿng qua vịnh
Nha Trang nơi Ḥn Lớn để hy vọng anh chị và mấy cháu của tôi có chạy ra chạy vào Ḥn Lớn th́ ḿnh cũng cấp
cứu được, nhưng tuyệt
nhiên. Tôi cũng có chận một số ghe đánh cá và hỏi
họ chạy đi đâu vậy? Họ trả lời chạy về CỒN để chở gia đ́nh. Thật
thảm
thương!! Một vài người bạn gọi máy cho tôi bảo:
“Đừng
vào Cầu Đá nghe, một
chiếc
giống chiếc của ông đang nghiêng ngay tại
Cầu Đá đây này”. Họ
nói dân quân tràn xuống tàu bất kể ra sao nên tàu bị
nghiêng. Thôi th́ tôi đi. Có con làm hạm
trưởng
con tàu to đùng mà không đón một ai được, ḷng dạ nào yên. Ba mươi tháng Ba năm 1975 Tôi c̣n phải lang thang ra Đà Nẵng
nữa. Ḷng lo sợ
vô cùng. Đâu có chiến hạm nào với lực lượng súng mạnh để yểm trợ cho HQ 403 khi có biến
đâu. Mặc dù biết những chiếc tàu nhỏ của phía bên kia chưa vào kịp.
Lệnh bảo phải đón cho được
một
vị Đại tá và một đoàn quân đang về
đến Đà Nẵng. Trời tối rồi mà phải vạ cửa biển Đà Nẵng, có thấy ǵ đâu. Ban đêm nh́n vào vách núi không
thể
nào ước tính được là xa bao nhiêu và là gần
bao nhiêu. Đụng vào th́ sao? Ở
lại
đấy chờ chúng vào? Có bao nhiêu đèn soi sáng cực
mạnh phải dùng hết, rọi vào từng hỏm nhỏ và kêu gọi Đại tá ơi Đại tá hỡi, hăy đốt lửa lên cho chúng tôi thấy
được. Và tuyệt nhiên những ǵ ḿnh cầu
mong không có được. Cứ như vậy qua hết đêm, không đón được
ai, không biết họ sẽ phải đi theo quốc
lộ
bằng đường bộ cho đến khi nào. Cho đến sáng hôm sau, tôi vẫn
lang thang ở đấy (cửa vịnh Đà Nẵng) , ghe nhỏ
vẫn
chạy ra, vẫn đầy người và vẫn cố gắng đến HQ 403, và cũng không làm sao leo lên
được,
v́ sóng dập rất nguy hiểm, dĩ nhiên chúng tôi rất
cố gắng nhưng ai cũng vị
kỷ, họ đeo ṭn ten ở
thang dây để
kéo giúp người, nhưng dân sợ
không dám đứng
lên từ chiếc ghe của họ, vừa đứng lên vói tay th́ sóng dập
họ lại té lại xuống ghe. Tôi dặn
nhân viên chuyển
lời cứ theo tàu tới một nơi yên ẳng hơn rồi sẽ lên tàu, nhưng họ
nôn nả hối hả làm sao ấy, họ chạy đi và theo bờ
cũng xuôi Nam. Trên một trong những chiếc ghe dân, có một
chiếc
có phu nhân của một sĩ quan của HQ 403, ông ấy
cho tôi biết
và tôi cho ngừng tàu, tôi nói: Trung úy leo xuống
đầu thang dây, tôi cho tàu xoay về
hướng sóng ngược rồi Trung úy cố
gắng
kéo bà xă lên, nhờ vài nhân viên đeo thang dây phụ
giúp, và khổ nỗi ông nói ông sợ
té. Thả
thêm dây thừng xuống ghe nhưng không hiểu
tại sao họ không cột ghe. Nhân viên cũng bảo
ông như vậy, nhưng ông không làm. Nghiă ǵ??? Và cũng
như những
chiếc khác, họ quay vào chạy
gần
bờ. (Sau này ông
ấy
rất thù tôi và trên đường
đoàn tàu đi Côn Sơn ông ấy toa rập
với
một sĩ quan khác đến
kho súng để lấy súng để
thanh toán tôi mang HQ 403 về giao cho chính phủ
mới. (tôi viết
chữ này không hoa). Dĩ nhiên nhân viên
đưa súng nhưng thông báo ngay cho người Hạ
sĩ
chuyên lo chuyện cho tôi. Thằng
em này rất tuyệt
cú mèo: dàn ngay một số anh em khác ôm súng mỗi
người một bậc thang rồi
mới
lên đài chỉ huy báo cáo.) Tôi không c̣n phận
sự
ở
Đà Nẵng nữa và xuôi Nam. Những chiếc thương thuyền
của
các hăng ngoại quốc cũng đầy người, nh́n thấy
tội
nghiệp và thảm thương vô cùng. Đàn bà, trẻ
em nhớn nhác lo âu. Đầu
đội
nắng, thân trên sắt
(tất
cả ngồi trên boong tàu). Tôi hoàn toàn không biết
họ sẽ
được đưa đến đâu. Đi xa qúa th́ nước
có thể đầy đủ nhưng ăn th́ sao đây? Từ
từ tôi cũng tạt qua Qui Nhơn vào ngày thứ
Hai 31 tháng ba 1975, không vào cảng, người tản cư cũng đông như Đà Nẵng.
Gọi thử vào pḥng hành quân không ai trả
lời máy. Thêm một
tỉnh
nữa không c̣n cấp
chỉ
huy. Máy liên lạc PRC 25 tôi cho lấy
từ các chiếc ghe của dân quân lên được
HQ 403, tôi cho nhân viên cố gắng ḍ tần số và để yên đó trên đài chỉ
huy để theo dơi, cho nên đến
đâu tôi đều biết được cấp chỉ huy c̣n đó hay đă ra đi. Anh em chiến
hữu chửi trên máy v́ tức
giận
mà dùng những từ thô lỗ. Có những nơi họ có ư như mấy ổng chạy hết rồi th́ anh em ḿnh tự
đánh. Một tây tháng Tư/1975, Nha trang tản
cư. Hai tây tháng Tư/1975, HQ 403 phải
vào cặp cầu Cam Ranh để
đón gia đ́nh quân nhân, chỉ có dân chúng ỏ
cầu
tàu, có lẽ anh em Hải Quân đă cùng gia đ́nh ra đi bằng
cách nào đó. Bắt đầu tháo đây để
ra khỏi
vịnh Cam Ranh. Trong khi vận
chuyển để ra khỏi vịnh th́: hai chiếc
thương thuyền
của ngoại quốc đang cặp "xà lan" (pontoon nổi).
Thương thuyền hết hàng rồi nên nổi rất cao. Thang treo xéo 45 độ
áp bên mạn tàu, trên xà lan, mọi
người chen chúc và tranh giành để
leo lên thương thuyền. Cảnh tượng thương tâm không kể
xiết. Từ xà lan lên đến
boong chính của
thương thuyền cao chừng độ gần hai từng lầu hoặc hơn. Vợ cố gắng giành thang và leo lên đựơc,
đưa tay vẫy người chồng đang đứng trên xà lan. Hai người
vẫy tay ngoắc nhau bằng ḷng lắm. Họ sắp sửa làm ǵ qúy vị
thử
tưởng tượng đi. Chẳng hạn ông chồng sẽ leo lên rồi gặp nhau trên thương thuyền,
há. Không, không ai ngờ họ làm chuyện mà không ai nghĩ đến,
giờ phút này mà tôi c̣n rùng ḿnh và há hốc
miệng
để thấy sự hoảng hốt sợ hăi muốn ra đi bằng mọi giá mọi cách. Sóng đẩy
đưa, xà lan dập
vào thành tàu. Người chồng lấy hết sức thẩy (ném, tung tùy người
dùng chữ nào) đứa lên cho vợ chụp bắt....Rồi bây giờ tưởng tượng nữa đi. Cả ba người ra đi trong ḷng biển
vịnh Cam Ranh. Ném làm sao tới,
vợ nhoài người chụp, rớt xuống, chồng nḥai người
chụp
em bé đang rớt xuống,... Không phải
một
người hành động như thế. Tôi nhắm mắt không dám nh́n nữa.
Trong đầu bao nhiêu oán trách, bao nhiêu chửi
bới mọi người, ta và thù. Tôi lẳng
lặng cho HQ 403 đi ra khỏi
vịnh. Thứ năm ngày 3 tháng 4/1975, thả
trôi ngoài Vịnh CamRanh. Phần này trở về sau cũng chỉ
là xuôi Nam từng
tỉnh một, bốc quân dân đưa về
Vũng Tàu rồi
lại đi. Bà con ḍng họ
của hạm trưởng, của
sĩ quan, của
nhân viên, chúng tôi cũng nôn nả trong ḷng không nói ra
nhưng mọi
người đều biết với nhau, cứ lo phận sự. Đi Phan rang, đến
B́nh Tuy, v.v... và cứ thế cho đến thứ Bảy 12 tháng Tư năm 1975, HQ 403 về
đến Sài G̣n vào một
buổi
trưa để chứng kiến sự nôn nao, lo lắng
và hối
hả vô vọng của toàn dân. KẾT THÚC BÀI TỰ
TRUYỆN
CỦA TÔI ẤP Ủ 47 NĂM. Tôi cũng như mọi
người,
chạy về nhà (cư xá Thanh Đa), hàng xóm cho biết
đi đâu rồi, chỉ có tôi biết nên tôi chạy
qua Nhà thờ
Huyện sĩ th́ mọi người đang tạm
trú nơi đây, tôi mừng lắm và an ủi mọi
người
cứ ở
yên đó tôi sẽ về đón nếu phải ra đi. (Chỉ
gia đ́nh bên bà xă chứ gia đ́nh đông người
của tôi vẫn c̣n ở Nha trang v́ lư do....). Được ba ngày ở Sài G̣n, sáng 16 tháng Tư 1975 khởi
hành đi Phan Thiết (hy vọng) và chờ ngoài khơi để
rồi
lại từ giă Phan Thiết
vào ngày thứ
Sáu 18 tháng Tư 1975 và kế tiếp là Hàm Tân ngày 20 tháng Tư 1975. Lúc 19:00 giờ
ngày thứ
Hai ngày 21 tháng Tư, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu nói chuyện trên đài, đến
21:00 giờ
th́ người tuyên bố TỪ CHỨC, vào trao quyền
cho Phó Tổng
Thống Trần Văn Hương. (Chiều tối ngày 26 tháng TƯ/1975, trên đường
đi về Sài G̣n, khi đi ngang Mũi Kỳ
Lân th́ cứ tưởng ḿnh đang sắp
đâm vào một ḥn đảo
nào đó, rất
lớn và đen ś vượt
qua mũi HQ 403 rồi th́ chiến hạm lắc
dữ dội, điều
này cho biết
là một chiến
hạm
nào đó vừa vượt qua, chuyển
câu hỏi bằng đèn vói theo nhưng không được
trả lời. HQ 403 đi sớm
hơn chừng 2 phút th́ có lẽ
giờ này không có ai để
viết lại cuộc Di Tản
to lớn
này. Ngồi đó nhịp
tim đánh nhanh và suy nghĩ lại th́ chỉ
có Đồng minh mới
có chiến hạm chạy nhanh như vây và xuất
phát nơi không phải hải cảng lớn, và h́nh như hôm đó là ngày Đồng
minh rút dân sự và quân sự
về nước. Chỉ
vơ
đoán thôi v́ cho tới bây giờ
tôi vẫn
nhớ như in trong đầu
về đêm ấy). Từ mũi Kỳ Vân về lại Sài G̣n ngày Chủ Nhật 27 tháng Tư/ 1975 lúc 11 giờ đêm. Hôm sau, 28 tháng Tư 1975, họp với Đại tá Tư Lệnh Hạm Đội về việc Di Tản Hải Quân, chiều họp lại và huỷ bỏ việc di tản.
Và coi như xong, 20:30 giờ
HQ 403 rời SàiG̣n từ cầu - nhớ là gần dinh Thủ tướng Khiêm- nhưng có người
nói không đúng, vậy th́ tôi xin để
quư vị
sửa sai dùm. Đoàn chiến
hạm HQVNCH theo sông Soài Rạp
để ra biển lần cuối cùng va chiều
tối
th́ đến Côn Sơn (22:00 giờ
thứ Tư 30 tháng Tư năm Một
Chín Bảy Mươi Lăm). Thưa qúy Hải Quân, từ Niên Trưởng già dặn nhất cho đến thuỷ thủ trẻ tuổi nhất kể từ 1975, tôi không phải
người viết sách, viết truyện, có bao nhiêu kư ức
c̣n lại đem viết ra đây cho mọi
người
bồi hồi xúc động tưởng nhớ. Cá nhân tôi hiện
tại
giờ phút này nước
mắt
đang chảy ṛng ṛng. Xin kính thân chúc tất
cả luôn được khoẻ mạnh, hạnh phúc hiện tại có được với con cháu là qúy hóa vô cùng. Đặc biệt gửi đến Hải Quân Đại Tá Nguyễn Xuân Sơn Tư Lệnh
Hạm Đội với ḷng kính mến
vô vàn. Không được đi tạp dịch khi chiến hạm vào Ụ th́ không cầm
được
HQ 403, mà không cầm được HQ 403 th́ đâu biết
được một sự di tản chưa từng có trong lich sử. Kính Thân Chào Thủy Thủ Già
Nguyễn
Thành Danh, Hạm Trưởng cuối
cùng HQ 403. Texas ngày 19/07/2022 |