Truyện
thật đời người [2] |
Là truyện có thật được
viết lại theo lời kể của người
khác hay do chính tác giả chứng kiến. Nghĩa là
các sự kiện và mọi t́nh tiết của câu
truyện đều là sự thật. Tuy nhiên, v́
sự tế nhị và tránh xúc phạm đến
đời tư cá nhân, tên các nhân vật được
tác giả viết tắt hoặc dùng một tên khác
với tên thật của nhân vật trong câu
truyện. Nếu có sự trùng hợp tên là hoàn toàn
ngoài ư muốn. Rất mong quư độc giả thông
cảm và chấp nhận cho. Huy
Anh BA
THẾ HỆ MỘT OAN T̀NH Là
một truyện đă xẩy ra tại Việt Xin
mời quư độc giả lần lượt đọc
qua bốn tiêu đề của một câu truyện
có thật, do chúng tôi tự đặt như sau,
để có câu trả lời cho câu hỏi “Oan t́nh
ǵ”? -
Người Mẹ bị chôn sống. -
Người Cha Tự sát. -
Người vợ phản bội. -
Người chồng bao dung. Người
Cha Tự Sát ******************** Sau
cái chết tức tưởi và oan nghiệt của
bà Ba Trầm Hương trong biến cố Mậu
Thân 1968 ở Huế, nỗi buồn mất vợ
của ông Ba Trầm Hương và niềm đau
mất Mẹ của các con rồi cũng nguôi ngoai
theo năm tháng. Cuộc sống chung cũng như
riêng tư của các thành viên trong gia đ́nh ông Ba
Trầm Hương theo thời gian trở lại b́nh
thường. Công
viêc buôn bán trầm hương của gia đ́nh Ông
Ba nhờ Trời ngày một phát đạt trông
thấy. Nhiều người cho là sự làm ăn
phát đạt này một phần có sự phù trợ
của Bà Ba ở thế giới bên kia. V́ theo
niềm tin dân gian những oan hồn thường linh
lắm và thường hay hiện về với người
thân. Lúc
mới mất nghe đâu nhiều lần Bà Ba đă
hiện về với người thân trong gia đ́nh,
khi th́ hiện hồn về với chồng, lúc
hiện hồn về với con, lần nào về cũng
khóc lóc thảm thiết. Ông Ba đă nhiều lần
xin các Thầy ở Chùa Từ Đàm làm lễ cầu
siêu cho Bà Ba Trầm Hương. Nhờ thế mà sau
này không ai c̣n nghe nói Bà Ba hiện về nữa. Cô
con gái lớn Hương Giang sau khi học xong Trung
Học, tốt nghiệp Tú Tài Hai, lên đại
học được hai năm th́ lên xe hoa về nhà
chồng. Thật ra là lên xe hoa về nhà riêng của
Nàng th́ đúng hơn. Đó là một căn nhà khá
khang trang ở nội thành Huế, đă được
ông Ba Trầm Hương mua từ mấy năm trước
để dành tặng cho con gái cưng. V́ sau khi làm
nghi thức xin rước dâu, chú rể đưa cô
dâu về qua nhà bà Cô ruột ở ngoại thành
Thừa Thiên Huế chỉ lưu lại ít giờ
đồng hồ, gọi là cho đúng lễ nghi theo
phong tục cưới hỏi cổ truyền. Sau
đó cả hai đến ngay ngôi nhà riêng được
tặng như một phần của hồi môn ông Ba
Trầm Hương dành cho con gái đầu ḷng.
Hạnh phúc đầu đời đă đến
với đôi trai tài gái sắc trong căn nhà khang
trang ấm cúng ấy. Những
kẻ có ḷng ghen ghét th́ b́nh phẩm rằng anh chàng
sĩ quan tốt nghiệp trường Vơ Bị
Quốc Gia Đà Lạt mới ra trường này
tốt số, “Chuột sa hủ nếp”. Nhưng
khách quan phần đông bà con lối xóm ai cũng
phải trầm trồ khen ngợi đây là một
cặp vợ chồng lư tưởng trong thời
chiến: Chàng một sỉ quan hào hùng trong binh
chủng Lực Lượng Đặc Biệt thuộc
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Nàng một nữ
sinh viên xinh đẹp của Đại Học Văn
Khoa Huế . Họ gặp nhau, yêu nhau qua một
thời hoa mộng, rồi lấy nhau khi Chàng đă
hoàn thành binh nghiệp th́ chắc chắn Trường
An đă cưới DHương Giang v́ t́nh chứ
không phải v́ tiền. Chính Hương Giang nhiều
lần lên tiếng thanh minh với những người
trong thân tộc vốn hoài nghi về t́nh yêu của
Trường An,một chàng sinh viên mồ côi cha
mẹ, nghèo, đă phải đến xin dậy kèm
Nàng để có tiền độ nhật và theo
đuổi học hành. Thực tế có thể có
loại người lấy vợ không phải v́ t́nh
mà v́ món của hồi môn của nhà vợ giầu
có, nhưng với Trường An, th́ không, tuyêt đối
không. Hương Giang đă nhiều lần khẳng
định như vậy với Cha và Mẹ kế trước
khi chàng ngỏ ư xin cưới Nàng. V́ hơn ai
hết Nàng biết rơ tư cách, bản lănh của người
yêu, vốn xuất thân từ một Trường Vơ
Bị danh tiếng bậc nhất tại Việt Nam
thời bấy giờ. Nàng luôn mạnh mẽ lên
tiếng bác bỏ mọi dèm pha của nhửng người
thiển cận trong thân tộc để bảo
vệ phẩm chất đích thực của Chàng,
bảo vệ một t́nh yêu chân chính đơm hoa
kết trái. Cuối cùng th́ họ đă cưới
nhau và sống những ngày hạnh phúc trong lo âu. Sống
hạnh phúc trong lo âu là tâm trạng không riêng ǵ
của Hương Giang, mà là tâm trạng chung của
những người đàn bà có chồng là lính trong
thời chiến. Nhất nữa người chồng
của Hương Giang lại là một lính thứ
dữ, theo cách nói b́nh dân, một sĩ quan lực lượng
đặc biệt hào hùng theo đúng nghĩa, nhưng
đầy bất trắc hiểm nguy đối
với mạng sống. V́ vậy tâm trạng có
vẻ mâu thuẫn này xem ra lại phản ánh đúng
thực tế. Thực tế là đă có nhiều người
con gái lớn lên trong thời chiến, biết
rằng lấy chồng lính sớm muộn có thể
mang vành khăn sô “c̣n lóng lánh dấu ái ân”, nhưng
thực tế lại là niềm ước mơ
của nhiều người con gái thời bấy
giờ....... Hương Giang là một trong những người
có niềm ước mơ ấy, ước mơ có
người yêu là lính chiến, được làm
vợ lính và Nàng đă đạt được
ước mơ ấy một cách trọn vẹn.
Đôi t́nh nhân ấy đă yêu nhau, lấy được
nhau và đă sống những năm tháng hạnh phúc
trong lo âu và nơp nớp đợi chờ người
chinh phu sau những cuộc hành quân nối dài theo
cuộc chiến....... ********* Thế
rồi, thời thế đổi thay, hạnh phúc
riêng cũng như chung của người Việt
ở Miền Nam đều mất hết, kể
từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, khi quân
đội cộng sản Bắc Việt cưỡng
chiếm Miền Nam Việt Nam. Cuộc sống an vui
và hạnh phúc riêng của gia đ́nh Hương Giang
& Trường An cũng như nhiều gia đ́nh
khác, quân cũng như dân đều bị tước
đoạt. Chồng Hương GIang lúc này đă là
một sĩ quan cấp Tá, chỉ huy trưởng
một căn cứ huấn luyện Lực Lượng
Đặc Biệt ở B́nh Dương. Nay cuộc
sống bỗng chốc tan nát tất cả. Thiếu
tá.Trường An người chồng thân yêu của
Nàng từng là người hùng của một quân
lực hùng mạnh hàng thứ ba trên thế giới,
nay bị những kẻ chiến thắng theo cách nói
của dân gian là “Chó ngáp phải ruồi”, đă
gán cho cái tên là “sỉ quan ngụy”, phải ra
tŕnh diện, nói là chuẩn bị lương
thực 10 ngày, th́ sau đó đă phải vào tù
gọi là “ Tập trung cải tạo ngụy quân,
ngụy quyền” mút mùa, không có ngày về. Lúc
này Hương Giang chưa đầy ba mươi
tuổi, bị rơi vào hoàn cảnh một ḿnh
phải thay chồng nuôi dưỡng, giáo dục
một nách năm đứa con thơ dại, bốn
trai, một gái. Thằng con trai lớn nhất chưa
đầy mười tuổi, và đứa con gái út
mới mười tám tháng. Trong
khi đó, cha của Hương GIang và gia đ́nh
ở Huế th́ cũng may mắn thoát nạn di
tản kinh hoàng của Tháng Tư Đen, trở về
đầy đủ dưới mái nhà xưa. Cửa
hàng buôn bán trầm hương của gia đ́nh chưa
biết tính sao, v́ phải chờ chính sách công thương
nghiệp của chế độ mới. V́ sau 30
tháng 4 năm 1975 đă có lời đồn đoán
rằng chính quyền mới sẽ quốc hữu hoá
tuốt tuột mọi ngành và thực hiện chính
sách cải tạo các cơ sở cộng nông thương
nghiệp tư bản tư doanh trên toàn Miền Nam,
theo gương Miền Bắc sau ngày Hiệp Định
Genève 1954 chia đôi đất nước, đảng
Cộng Sản Việt Nam nắm quyền thống
trị. Gia
đ́nh ông Ba Trầm Hương gồm hai vợ
chồng cộng với hai đứa con trai của bà
vợ lớn (Đă bị giết chôn mồ tập
thể Mậu Thân 1968) đang ở tuổi
thiếu niên, và ba đưa con chung ở tuổi nhi
đồng. Bằng ấy miệng ăn nếu không
có các đợt đổi tiền giới hạn
th́ cả nhà ngồi ăn không cũng không hết
của trong nhiều năm. V́ đổi tiền nên
bao nhiều tiền mặt của chế độ cũ
bổng chốc trở thành mớ giấy lộn.
Nh́n những sấp giấy bạc 500 c̣n mới, công
lao buôn bán của cả gia đ́nh, nay bỗng
chốc mất sạch. Nh́n đống tiền giao
nạp hàng triệu để chỉ nhận b́nh quân
đầu người 200 đồng tiền mới,
ḷng ộng Ba Trầm Hương quặn đau. Cũng
may ông Ba c̣n tích được ít vàng sau này đem
bán dần độ nhật cho gia đ́nh. Trong khi
chờ đợi nhà nước thực hiện chính
sách thương nghiệp mới, ông Ba vẫn nuôi hy
vọng nghề buôn bán trầm hương của gia
đ́nh được phục hồi cách nào đó
để nuôi sống gia đ́nh.... Nhưng
rồi niềm hy vọng của ông Ba Trầm Hương
đă tan theo mây khói, khi vào năm 1978, chiến
dịch đánh tư sản trên toàn Miền Nam đă
xẩy ra, gọi là để cải tạo công thương
nghiệp tư bản tư doanh. Chiến dịch
đánh tư sản này do Đỗ Mười lúc đó
là Phó Thủ Tướng đặc trách Ban Cải
Tạo Trung Ương trực tiếp lănh đạo.
Trong chiến dịch này, các đối tượng
bị đánh là các công thương nghiệp tư
doanh các ngành, bị qui chiếu thành phần để
tài sản bị tịch thu, từ cơ sở đến
vốn liếng, hàng hoá, hiện kim, hiện vật.
Nếu bị ghép là tư sản dân tộc th́
chỉ bị mất của không bị tù tội
nếu không chống đối chính sách cải
tạo của nhà nước. Nếu bị quy
chiếu là “Tư sản mại bản ôm chân đế
quốc” th́ ngoài tài sản mất sạch, nhà tư
sản c̣n bị bỏ tù. Ngay trong đợt cải
tạo lần đầu Ông Ba Trầm Hương
đă bị quy kết thành phần tư bản thương
nghiệp dân tộc, nghĩa là công việc buôn bán
không liên hệ với tư bản nước ngoài.
Do đó Ông Ba chỉ bị tịch thu hết tài
sản, mà không bị bỏ tù. Nhưng thế cũng
đủ làm cho Ông Ba phẫn chí như người
mất hồn. Hôm kiểm kê tại nhà riêng, ông Ba
chết lặng ngồi nh́n những thoi vàng và các
đồ quư kim bị các nhân viêm kiểm kê làm biên
bản tịch thu, dù số của ch́m này Ông đă
chôn dấu rất kỹ. Với ông Ba Trầm Hương
thế là hết, sự nghiệp tiêu tan từ đây. Từ
sau ngày bị kiểm kê, tài sản bị tịch thu,
ông Ba Trầm Hương trở nên ít nói. Ngày ngày
đi đi lại lại trong nhà, lên lầu,
xuống lầu, ra sân, ra chợ, qua lại trước
nhà hàng xóm, tay đưa lên đầu vừa xoa,
vừa găi, thỉnh thoảng mỉm cười
một ḿnh, hay cười ré lên. Nhiều hôm tối
rồi mà không thấy ông về nhà, con cháu túa đi
t́m, bắt gặp ông thẫn thờ đi dọc theo
bờ Sông Hương như một người
mất trí. Thế
rồi một đêm kia, con cháu chậy túa lên
lầu khi nghe thấy tiến la hét từ pḥng Ông Ba
Trầm Hương. Một cảnh tượng làm
mọi người kinh hăi khi Bà Ba Nhỏ đang
dằng co con dao phay trên tay Ông Ba. Đầu và mặt
Ông Ba bê bết máu. Ba Ba Nhỏ vừa khóc vừa la: -
Mần chi ông ngu dại rứa, cái mạng mới
quư hỉ.. Th́ ra v́ quá phẩn chí và tiếc của,
Ông Ba Trầm Hương đả dùng con dao phay
tự chém vào đầu. May Bà Ba Nhỏ thấy
kịp cản ngăn nên chưa vong mạng. Lúc đó
con cháu và láng giềng thân quen chậy lên lầu
khuyên can ông Ba không nên làm thế. V́ c̣n mạng
sống th́ c̣n kiếm lại được của
cải, chứ mất mạng là mất tất cả.
Con cái băng bó tạm vết thương trên đầu
và đưa ông Ba vào bệnh viện đa khoa
Thừa Thiên Huế. Trong khi nằm viện, con cháu thay nhau trông
chừng v́ sợ Ông Ba có thề làm liều nữa.
Nhưng canh giử cách chi rồi củng có sơ
hở. Ngày đó thằng con trai Bà Ba Lớn vào thay
Bà Ba Nhỏ. Lợi dụng lúc Ông Ba ngủ, thằng
con trai mắc bệnh giền bỏ ra ngoài hút
thuốc lá. Hút thuốc lại thèm ly cà phê đen,
thằng con trai Ông Ba rời hành lang bệnh viện trước
pḥng Cha ḿnh nằm, chạy xuống khu “Căng Tin”
của bệnh viện kiếm ly cà phê đen. - Có người tự tử, có người
nhẩy lầu tự tử... - Ai tự tử, ai vậy??? Thằng con trai Ông Ba Trầm Hương
trên đường trở lại pḥng bệnh
của Cha, với ly cà phê đen trên tay, khi nghe
tiếng người nói có người nhẩy
lầu tự tử, đă rẽ qua hiện trường
v́ ṭ ṃ. Nào ngờ, sau khi rẽ đám đông bu
quanh nạn nhân, thằng con trai Ông Ba đă hoảng
hốt rú lên: _
Cha, Trời Ơi, Cha tôi.... Tôi đă giết Cha tôi
rồi.... Hắn
ôm cha khóc lóc thảm thiết, với mặc cảm
tội lỗi là ḿnh đă giết cha khi bỏ ra
ngoài để người cha có cơ hội tự
tử t́m sự giải thoát. V́ trong lúc người
con trai ra khỏi pḥng t́m cà phê và khói thuốc, người
cha đả bất thần tỉnh dạy. Rồi như
có ma đưa lối quỷ dẫn đường,
ông Ba Trầm Hướng đă chạy một
mạch lên lầu gieo ḿnh xuống đất để
t́m cái chết thảm thương, tương tự
như cái chết bi thảm vào Mậu thân năm 1968
của vợ Ông, Bà Ba Lớn bị giết và bị
chôn trong nấm mồ tập thể nơi góc sân trường
Tiểu Học G.H. Câu
chuyện thật đời người này đă
chấm dứt nỗi oan t́nh thế hệ thứ
nhất, thế hệ Cha Mẹ, mối oan t́nh ǵ, xin
mời độc giả tiếp túc câu chuyện
kỳ sau của thế hệ thứ hai, thế
hệ các con ông bà Ba Trầm Hương. Huy Anh |