Truyện thật đời người
BA THẾ HỆ MỘT OAN T̀NH

[2]

 

Là truyện có thật được viết lại theo lời kể của người khác hay do chính tác giả chứng kiến. Nghĩa là các sự kiện và mọi t́nh tiết của câu truyện đều là sự thật. Tuy nhiên, v́ sự tế nhị và tránh xúc phạm đến đời tư cá nhân, tên các nhân vật được tác giả viết tắt hoặc dùng một tên khác với tên thật của nhân vật trong câu truyện. Nếu có sự trùng hợp tên là hoàn toàn ngoài ư muốn. Rất mong quư độc giả thông cảm và chấp nhận cho.

Huy Anh

Houston , ngày 18 tháng 9 năm 2003.

BA THẾ HỆ MỘT OAN T̀NH

Là một truyện đă xẩy ra tại Việt Nam vào thời gian trước và sau 30 tháng tư năm 1975. Đó là câu truyện thương tâm xẩy ra cho ba thế hệ của một gia đ́nh: Cha mẹ, con và cháu , với cùng một nỗi oan t́nh. Oan t́nh ǵ?

Xin mời quư độc giả lần lượt đọc qua bốn tiêu đề của một câu truyện có thật, do chúng tôi tự đặt như sau, để có câu trả lời cho câu hỏi “Oan t́nh ǵ”?

- Người Mẹ bị chôn sống.

- Người Cha Tự sát.

- Người vợ phản bội.

- Người chồng bao dung.

Người Cha Tự Sát

********************

Sau cái chết tức tưởi và oan nghiệt của bà Ba Trầm Hương trong biến cố Mậu Thân 1968 ở Huế, nỗi buồn mất vợ của ông Ba Trầm Hương và niềm đau mất Mẹ của các con rồi cũng nguôi ngoai theo năm tháng. Cuộc sống chung cũng như riêng tư của các thành viên trong gia đ́nh ông Ba Trầm Hương theo thời gian trở lại b́nh thường.

Công viêc buôn bán trầm hương của gia đ́nh Ông Ba nhờ Trời ngày một phát đạt trông thấy. Nhiều người cho là sự làm ăn phát đạt này một phần có sự phù trợ của Bà Ba ở thế giới bên kia. V́ theo niềm tin dân gian những oan hồn thường linh lắm và thường hay hiện về với người thân.

Lúc mới mất nghe đâu nhiều lần Bà Ba đă hiện về với người thân trong gia đ́nh, khi th́ hiện hồn về với chồng, lúc hiện hồn về với con, lần nào về cũng khóc lóc thảm thiết. Ông Ba đă nhiều lần xin các Thầy ở Chùa Từ Đàm làm lễ cầu siêu cho Bà Ba Trầm Hương. Nhờ thế mà sau này không ai c̣n nghe nói Bà Ba hiện về nữa.

Cô con gái lớn Hương Giang sau khi học xong Trung Học, tốt nghiệp Tú Tài Hai, lên đại học được hai năm th́ lên xe hoa về nhà chồng. Thật ra là lên xe hoa về nhà riêng của Nàng th́ đúng hơn. Đó là một căn nhà khá khang trang ở nội thành Huế, đă được ông Ba Trầm Hương mua từ mấy năm trước để dành tặng cho con gái cưng. V́ sau khi làm nghi thức xin rước dâu, chú rể đưa cô dâu về qua nhà bà Cô ruột ở ngoại thành Thừa Thiên Huế chỉ lưu lại ít giờ đồng hồ, gọi là cho đúng lễ nghi theo phong tục cưới hỏi cổ truyền. Sau đó cả hai đến ngay ngôi nhà riêng được tặng như một phần của hồi môn ông Ba Trầm Hương dành cho con gái đầu ḷng. Hạnh phúc đầu đời đă đến với đôi trai tài gái sắc trong căn nhà khang trang ấm cúng ấy.

Những kẻ có ḷng ghen ghét th́ b́nh phẩm rằng anh chàng sĩ quan tốt nghiệp trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt mới ra trường này tốt số, “Chuột sa hủ nếp”. Nhưng khách quan phần đông bà con lối xóm ai cũng phải trầm trồ khen ngợi đây là một cặp vợ chồng lư tưởng trong thời chiến: Chàng một sỉ quan hào hùng trong binh chủng Lực Lượng Đặc Biệt thuộc Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, Nàng một nữ sinh viên xinh đẹp của Đại Học Văn Khoa Huế . Họ gặp nhau, yêu nhau qua một thời hoa mộng, rồi lấy nhau khi Chàng đă hoàn thành binh nghiệp th́ chắc chắn Trường An đă cưới DHương Giang v́ t́nh chứ không phải v́ tiền. Chính Hương Giang nhiều lần lên tiếng thanh minh với những người trong thân tộc vốn hoài nghi về t́nh yêu của Trường An,một chàng sinh viên mồ côi cha mẹ, nghèo, đă phải đến xin dậy kèm Nàng để có tiền độ nhật và theo đuổi học hành. Thực tế có thể có loại người lấy vợ không phải v́ t́nh mà v́ món của hồi môn của nhà vợ giầu có, nhưng với Trường An, th́ không, tuyêt đối không. Hương Giang đă nhiều lần khẳng định như vậy với Cha và Mẹ kế trước khi chàng ngỏ ư xin cưới Nàng. V́ hơn ai hết Nàng biết rơ tư cách, bản lănh của người yêu, vốn xuất thân từ một Trường Vơ Bị danh tiếng bậc nhất tại Việt Nam thời bấy giờ. Nàng luôn mạnh mẽ lên tiếng bác bỏ mọi dèm pha của nhửng người thiển cận trong thân tộc để bảo vệ phẩm chất đích thực của Chàng, bảo vệ một t́nh yêu chân chính đơm hoa kết trái. Cuối cùng th́ họ đă cưới nhau và sống những ngày hạnh phúc trong lo âu.

Sống hạnh phúc trong lo âu là tâm trạng không riêng ǵ của Hương Giang, mà là tâm trạng chung của những người đàn bà có chồng là lính trong thời chiến. Nhất nữa người chồng của Hương Giang lại là một lính thứ dữ, theo cách nói b́nh dân, một sĩ quan lực lượng đặc biệt hào hùng theo đúng nghĩa, nhưng đầy bất trắc hiểm nguy đối với mạng sống. V́ vậy tâm trạng có vẻ mâu thuẫn này xem ra lại phản ánh đúng thực tế. Thực tế là đă có nhiều người con gái lớn lên trong thời chiến, biết rằng lấy chồng lính sớm muộn có thể mang vành khăn sô “c̣n lóng lánh dấu ái ân”, nhưng thực tế lại là niềm ước mơ của nhiều người con gái thời bấy giờ....... Hương Giang là một trong những người có niềm ước mơ ấy, ước mơ có người yêu là lính chiến, được làm vợ lính và Nàng đă đạt được ước mơ ấy một cách trọn vẹn. Đôi t́nh nhân ấy đă yêu nhau, lấy được nhau và đă sống những năm tháng hạnh phúc trong lo âu và nơp nớp đợi chờ người chinh phu sau những cuộc hành quân nối dài theo cuộc chiến.......

*********

Thế rồi, thời thế đổi thay, hạnh phúc riêng cũng như chung của người Việt ở Miền Nam đều mất hết, kể từ sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, khi quân đội cộng sản Bắc Việt cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam. Cuộc sống an vui và hạnh phúc riêng của gia đ́nh Hương Giang & Trường An cũng như nhiều gia đ́nh khác, quân cũng như dân đều bị tước đoạt. Chồng Hương GIang lúc này đă là một sĩ quan cấp Tá, chỉ huy trưởng một căn cứ huấn luyện Lực Lượng Đặc Biệt ở B́nh Dương. Nay cuộc sống bỗng chốc tan nát tất cả. Thiếu tá.Trường An người chồng thân yêu của Nàng từng là người hùng của một quân lực hùng mạnh hàng thứ ba trên thế giới, nay bị những kẻ chiến thắng theo cách nói của dân gian là “Chó ngáp phải ruồi”, đă gán cho cái tên là “sỉ quan ngụy”, phải ra tŕnh diện, nói là chuẩn bị lương thực 10 ngày, th́ sau đó đă phải vào tù gọi là “ Tập trung cải tạo ngụy quân, ngụy quyền” mút mùa, không có ngày về. Lúc này Hương Giang chưa đầy ba mươi tuổi, bị rơi vào hoàn cảnh một ḿnh phải thay chồng nuôi dưỡng, giáo dục một nách năm đứa con thơ dại, bốn trai, một gái. Thằng con trai lớn nhất chưa đầy mười tuổi, và đứa con gái út mới mười tám tháng.

Trong khi đó, cha của Hương GIang và gia đ́nh ở Huế th́ cũng may mắn thoát nạn di tản kinh hoàng của Tháng Tư Đen, trở về đầy đủ dưới mái nhà xưa. Cửa hàng buôn bán trầm hương của gia đ́nh chưa biết tính sao, v́ phải chờ chính sách công thương nghiệp của chế độ mới. V́ sau 30 tháng 4 năm 1975 đă có lời đồn đoán rằng chính quyền mới sẽ quốc hữu hoá tuốt tuột mọi ngành và thực hiện chính sách cải tạo các cơ sở cộng nông thương nghiệp tư bản tư doanh trên toàn Miền Nam, theo gương Miền Bắc sau ngày Hiệp Định Genève 1954 chia đôi đất nước, đảng Cộng Sản Việt Nam nắm quyền thống trị.

Gia đ́nh ông Ba Trầm Hương gồm hai vợ chồng cộng với hai đứa con trai của bà vợ lớn (Đă bị giết chôn mồ tập thể Mậu Thân 1968) đang ở tuổi thiếu niên, và ba đưa con chung ở tuổi nhi đồng. Bằng ấy miệng ăn nếu không có các đợt đổi tiền giới hạn th́ cả nhà ngồi ăn không cũng không hết của trong nhiều năm. V́ đổi tiền nên bao nhiều tiền mặt của chế độ cũ bổng chốc trở thành mớ giấy lộn. Nh́n những sấp giấy bạc 500 c̣n mới, công lao buôn bán của cả gia đ́nh, nay bỗng chốc mất sạch. Nh́n đống tiền giao nạp hàng triệu để chỉ nhận b́nh quân đầu người 200 đồng tiền mới, ḷng ộng Ba Trầm Hương quặn đau. Cũng may ông Ba c̣n tích được ít vàng sau này đem bán dần độ nhật cho gia đ́nh. Trong khi chờ đợi nhà nước thực hiện chính sách thương nghiệp mới, ông Ba vẫn nuôi hy vọng nghề buôn bán trầm hương của gia đ́nh được phục hồi cách nào đó để nuôi sống gia đ́nh....

Nhưng rồi niềm hy vọng của ông Ba Trầm Hương đă tan theo mây khói, khi vào năm 1978, chiến dịch đánh tư sản trên toàn Miền Nam đă xẩy ra, gọi là để cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Chiến dịch đánh tư sản này do Đỗ Mười lúc đó là Phó Thủ Tướng đặc trách Ban Cải Tạo Trung Ương trực tiếp lănh đạo. Trong chiến dịch này, các đối tượng bị đánh là các công thương nghiệp tư doanh các ngành, bị qui chiếu thành phần để tài sản bị tịch thu, từ cơ sở đến vốn liếng, hàng hoá, hiện kim, hiện vật. Nếu bị ghép là tư sản dân tộc th́ chỉ bị mất của không bị tù tội nếu không chống đối chính sách cải tạo của nhà nước. Nếu bị quy chiếu là “Tư sản mại bản ôm chân đế quốc” th́ ngoài tài sản mất sạch, nhà tư sản c̣n bị bỏ tù. Ngay trong đợt cải tạo lần đầu Ông Ba Trầm Hương đă bị quy kết thành phần tư bản thương nghiệp dân tộc, nghĩa là công việc buôn bán không liên hệ với tư bản nước ngoài. Do đó Ông Ba chỉ bị tịch thu hết tài sản, mà không bị bỏ tù. Nhưng thế cũng đủ làm cho Ông Ba phẫn chí như người mất hồn. Hôm kiểm kê tại nhà riêng, ông Ba chết lặng ngồi nh́n những thoi vàng và các đồ quư kim bị các nhân viêm kiểm kê làm biên bản tịch thu, dù số của ch́m này Ông đă chôn dấu rất kỹ. Với ông Ba Trầm Hương thế là hết, sự nghiệp tiêu tan từ đây.

Từ sau ngày bị kiểm kê, tài sản bị tịch thu, ông Ba Trầm Hương trở nên ít nói. Ngày ngày đi đi lại lại trong nhà, lên lầu, xuống lầu, ra sân, ra chợ, qua lại trước nhà hàng xóm, tay đưa lên đầu vừa xoa, vừa găi, thỉnh thoảng mỉm cười một ḿnh, hay cười ré lên. Nhiều hôm tối rồi mà không thấy ông về nhà, con cháu túa đi t́m, bắt gặp ông thẫn thờ đi dọc theo bờ Sông Hương như một người mất trí.

Thế rồi một đêm kia, con cháu chậy túa lên lầu khi nghe thấy tiến la hét từ pḥng Ông Ba Trầm Hương. Một cảnh tượng làm mọi người kinh hăi khi Bà Ba Nhỏ đang dằng co con dao phay trên tay Ông Ba. Đầu và mặt Ông Ba bê bết máu. Ba Ba Nhỏ vừa khóc vừa la:

- Mần chi ông ngu dại rứa, cái mạng mới quư hỉ..

Th́ ra v́ quá phẩn chí và tiếc của, Ông Ba Trầm Hương đả dùng con dao phay tự chém vào đầu. May Bà Ba Nhỏ thấy kịp cản ngăn nên chưa vong mạng. Lúc đó con cháu và láng giềng thân quen chậy lên lầu khuyên can ông Ba không nên làm thế. V́ c̣n mạng sống th́ c̣n kiếm lại được của cải, chứ mất mạng là mất tất cả. Con cái băng bó tạm vết thương trên đầu và đưa ông Ba vào bệnh viện đa khoa Thừa Thiên Huế.

Trong khi nằm viện, con cháu thay nhau trông chừng v́ sợ Ông Ba có thề làm liều nữa. Nhưng canh giử cách chi rồi củng có sơ hở. Ngày đó thằng con trai Bà Ba Lớn vào thay Bà Ba Nhỏ. Lợi dụng lúc Ông Ba ngủ, thằng con trai mắc bệnh giền bỏ ra ngoài hút thuốc lá. Hút thuốc lại thèm ly cà phê đen, thằng con trai Ông Ba rời hành lang bệnh viện trước pḥng Cha ḿnh nằm, chạy xuống khu “Căng Tin” của bệnh viện kiếm ly cà phê đen.

- Có người tự tử, có người nhẩy lầu tự tử...

- Ai tự tử, ai vậy???

Thằng con trai Ông Ba Trầm Hương trên đường trở lại pḥng bệnh của Cha, với ly cà phê đen trên tay, khi nghe tiếng người nói có người nhẩy lầu tự tử, đă rẽ qua hiện trường v́ ṭ ṃ. Nào ngờ, sau khi rẽ đám đông bu quanh nạn nhân, thằng con trai Ông Ba đă hoảng hốt rú lên:

_ Cha, Trời Ơi, Cha tôi.... Tôi đă giết Cha tôi rồi....

Hắn ôm cha khóc lóc thảm thiết, với mặc cảm tội lỗi là ḿnh đă giết cha khi bỏ ra ngoài để người cha có cơ hội tự tử t́m sự giải thoát. V́ trong lúc người con trai ra khỏi pḥng t́m cà phê và khói thuốc, người cha đả bất thần tỉnh dạy. Rồi như có ma đưa lối quỷ dẫn đường, ông Ba Trầm Hướng đă chạy một mạch lên lầu gieo ḿnh xuống đất để t́m cái chết thảm thương, tương tự như cái chết bi thảm vào Mậu thân năm 1968 của vợ Ông, Bà Ba Lớn bị giết và bị chôn trong nấm mồ tập thể nơi góc sân trường Tiểu Học G.H.

Câu chuyện thật đời người này đă chấm dứt nỗi oan t́nh thế hệ thứ nhất, thế hệ Cha Mẹ, mối oan t́nh ǵ, xin mời độc giả tiếp túc câu chuyện kỳ sau của thế hệ thứ hai, thế hệ các con ông bà Ba Trầm Hương.

Huy Anh

trở lại