NHẤT
LINH - BƯỚM TRẮNG Đặng Tiến |
"Trương chậm bước
lại v́ chàng vừa nhận thấy ḿnh đi nhanh quá
tuy không có việc ǵ vội và cũng không nhất
định đi đến đâu". Câu văn khơi ḍng cho tiểu thuyết Bướm
Trắng của Nhất Linh, là bước chân người
đi. Người ấy lắng nghe, và nhận định
nhịp bước, nhận thấy ḿnh đi nhanh quá,
mà không có lư do, không có việc ǵ vội. Sau đó
lại bổ sung không nhất định đi đến
đâu, dường như muốn tu chỉnh câu
vừa mới nói: không có việc ǵ, không cần
đến chữ vội, như lỡ bước quá
một bước, thốt quá một lời, viết
quá một chữ. Quá một chữ, không nhất
thiết phải là thừa, v́ câu nói, lời văn, bước
chân đưa đẩy như vậy, trong đời
sống như vậy. Khi ta bước, hay thở, không mấy khi
ta lưu ư. Cũng có khi cố t́nh nhanh hay chậm chân
một chút, hay thở mạnh, sâu hơn một chút, v́
lư do nào đó. Như lư do đưa đẩy
Nhất Linh viết truyện Bướm Trắng:
chuyện của Trương biết ḿnh bị bệnh
phổi, được bác sĩ tiên đoán sống
một năm. Biết vậy, và cho rằng không tránh
khỏi; Trương lắng nghe cuộc sống đang
tiếp diễn, và gây thêm biến cố, để
cuộc sống xao động hơn, để ḿnh nghe
tiếng động của đời sống rơ
rệt hơn. Trong Tiếng nói của im lặng (Les
voix du silence), André Malraux có giải thích tác phẩm
của ḿnh: Tôi có lần kể cuộc phiêu lưu
của một người không nhận ra giọng nói
của ḿnh vừa được thu âm, v́ anh ta mới
nghe lần đầu qua lỗ tai chứ không qua cổ
họng; và v́ chỉ có cổ họng mới chuyển
đến ta, tiếng nói của nội tâm, tôi gọi
tên sách là Thân phận làm người (La condition
humaine). Nói rộng ra, gọi Bướm Trắng
là tiếng thầm th́ của nội tâm cũng
được. Bướm Trắng viết vào năm
1939, đăng báo 1940, xuất bản 1941, khi Nhất
Linh đă có địa vị vững vàng trong văn
học; tiểu thuyết Đoạn Tuyệt, 1934,
đă gây chấn động v́ luận đề xă
hội. Nhất Linh dựng lại hai nhân vật Dũng
và Loan trong Đôi Bạn, 1938-39, giầu tính
chất văn chương hơn, nhưng cái nền
của tác phẩm vẫn c̣n tồn đọng
chuyện xă hội và chính trị trong bối cảnh nông
thôn miền Bắc. Đến Bướm Trắng,
ông chủ tâm viết một tác phẩm văn học
thuần túy, không hàm ư chính trị hay xă hội,
lấy đời sống đô thị làm khung
cảnh. Nhất Linh muốn thể nghiệm một
kỹ thuật khác xưa: viết tiểu thuyết
để hành văn, lấy văn chương làm
cứu cánh, không mượn văn học để
luận về xă hội và thời thế. Dù rằng
thời điểm Bướm Trắng, 1939-1940, t́nh
h́nh đất nước đang căng thẳng.
Bản thân Nhất Linh đă dấn thân sâu vào
thời cuộc, nhưng không mượn văn chương
để bày tỏ quan điểm xă hội. Tuy nhiên tác
phẩm bao giờ cũng phản ánh đời sống
xă hội qua một thành phần nào đó, điều
này là quy luật hiển nhiên, không tránh khỏi. Chuyện xảy ra tại Hà Nội,
giữa một nhóm thanh niên trí thức thuộc gia
đ́nh khá giả. Trương, sinh viên trường
luật, thôi học v́ bệnh lao phổi. Trong giới
hạn thời gian c̣n sống, Trương muốn khám
phá triệt để cuộc sống, chủ yếu
qua hai cách: qua t́nh yêu với Thu và qua kinh nghiệm trác
táng. Có lúc thụt két, phải vào tù mấy tháng. Ra tù,
Trương khỏi bệnh, về làng cưới
vợ quê. Trong một tham luận nhân cuộc hội
thảo về Tự lực văn đoàn ở Cẩm
Giàng, quê Nhất Linh, ngày 9/5/2008, học giả
Nguyễn Huệ Chi đă nhận ra những biến
chuyển trong quan niệm và kỹ thuật tiểu
thuyết Nhất Linh "nhà văn luôn luôn t́m ṭi không
ngừng không mỏi. Vừa cho ra mắt một
loạt tiểu thuyết luận đề làm cả
một thế hệ thanh niên yêu thích, ông lại
thoắt chuyển sang dạng tiểu thuyết không có
truyện, lấy việc phân tích các biến thái tâm lư
nhân vật làm chủ điểm (Đôi bạn)
rồi lại thoắt chuyển sang dạng tiểu
thuyết khơi sâu vào những miền khuất
tối, không dễ nhận biết cái của "tôi",
cái thế giới bí mật nhất trong mỗi con người,
kể cả sự ṃ mẫm vô thức trên quá tŕnh cái
tôi phân thân, tự hủy, ít nhiều mang dáng dấp
hiện sinh (Bướm trắng) (1) . Chúng tôi lưu
ư vào hai chữ hiện sinh. Trương, con người b́nh thường,
thậm chí tầm thường, trở nên nhân vật
tiểu thuyết v́ bệnh lao, việc có thể đến
với bất cứ người nào. Nhất Linh
chọn nhân vật thanh niên trí thức Hà Nội, v́ hoàn
cảnh này thuận lợi cho việc tạo ra sự
việc để nhẩn nha và tỉ mỉ phân tích
nội tâm. Dụng tâm của Nhất Linh là kể
một câu chuyện đời thường, bằng
giọng văn đời thường, không lên
bổng xuống trầm, không hùng hồn để
thuyết phục, không bi lụy để gây xúc
cảm, không thắt nút mở nút. Chuyện của Trương
chấm dứt ở đây, nhưng vẫn có thể
tiếp tục diễn tiến. Kết cuộc như
thế, không tự nhiên, cũng không bất ngờ, có
thể không như thế. Câu kết: "Nói xong, Nhan nh́n Trương,
mỉm cười; nàng sung sướng có cái cảm tưởng
như được săn sóc âu yếm đến
một người chồng". Đây chỉ mới là cái cảm tưởng
như trong trí tưởng một thôn nữ, trong
một câu dứt chuyện lấp lửng về phía
Nhất Linh. T́nh tiết câu chuyện – cấu trúc
nội tại của tiểu thuyết – không nhất
thiết đưa đẩy đến kết thúc như
vậy. Nhưng giọng kể của Nhất Linh đẩy
đưa như vậy. V́ Bướm Trắng tác
phẩm nghệ thuật là một cấu trúc hư tưởng.
Nó tự do với người đọc. Tác phẩm có thể đề xuất vài
ba câu hỏi phụ. Tại sao tựa đề Bướm
Trắng ? Trước tiên, là ẩn dụ một bông
cẩm chướng trắng, trong pḥng khách của bác
sĩ: "Một bông cẩm chướng trắng,
gió lọt vào làm rung động như một cánh bướm.
Tưởng đến một ngày chủ nhật
nắng – một ngày đă xa lắm chàng đứng
nh́n những con bướm trắng bay trên một
luống cải lấm tấm hoa vàng – và nhớ
lại cả cái ngạc nhiên của ḿnh khi nh́n
cảnh rất thường ấy." (sđd,
tr.22). Xa hơn nữa, một buổi sáng trời
c̣n nhá nhem, nghe tiếng xe ḅ lăn lạch cạch:
"Trương đoán là một xe rau ở
ngoại ô lên chợ sớm. Ḷng chàng lắng xuống
và từ thời quá văng xa xăm nổi lên một h́nh
ảnh yêu quư của tuổi thơ trong sáng: khu vườn
rau của mẹ chàng với những luống rau
diếp xanh thắm, những luống th́a-là lá nhỏ
như sương mù và hôm nào trời nắng,
những mầm đậu ḥa lan tươi non nhú lên
qua lần rơm ủ. Rồi đến khi luống
đậu nở hoa trắng có những con bướm
rất xinh ở đâu bay về…" (sđd,
tr.106). Vườn xưa; vườn mẹ hay
địa đàng thơ ấu? Đời này hay
tiền kiếp? Hoa đậu đơn sơ. Bướm
không có màu, lẫn vào hoa trắng. Như chuyện Trang
Chu. Ẩn dụ trong điển tích lại đưa
chúng ta vào một chiều kính sâu thẳm khác của
nhan đề. Xưa Trang Châu chiêm bao thấy ḿnh
là bướm, vui phận làm bướm, tự
thấy thích chí, không c̣n biết có Châu nữa.
Chợt tỉnh giấc, lại thấy ḿnh là Châu. Không
biết Châu chiêm bao là bướm, hay bướm chiêm
bao là Châu.
Thiên Tề vật luận trong Nam hoa kinh ư nói mọi
vật đều đồng đẳng, tương
đương. Chuyện thị phi, tốt xấu,
phải trái… không phải là những giá trị đối
lập và tuyệt đối. Trước cơi chết,
sự "huyền đồng" này được
ư thức soi sáng: Cái chết là ngọn gió san bằng
mọi giá trị nhân tạo. Không cứ ǵ người phương Đông
chịu ảnh hưởng Lăo Trang mới có tư tưởng
này. Trong tiểu thuyết Kẻ vô luân,
l’Immoraliste, 1902, nổi tiếng, André Gide đă đề
xuất một hoàn cảnh và tư tưởng gần
với Bướm Trắng. Michel là một nhà bác học trẻ
tuổi thượng lưu. Bị bệnh lao phổi
nặng, anh mới khám phá ra giá trị cơ bản
của sự sống, của nhục thể, bên ngoài
thành kiến về đạo đức, văn hóa, tài
sản mà xă hội đă xe kết để áp đảo
thậm chí tiêu hủy căn tính con người: "văn
hóa, nảy sinh từ sự sống, hủy diệt
sự sống" (la culture, née de la vie, tuant la vie).
Michel tự sự: "Với một người tưởng
chết không ǵ bi thảm bằng cuộc dưỡng
bệnh dài. Sau khi chạm phải cánh cửa tử
thần, những điều hệ trọng trước
kia, nay không c̣n quan trọng, nhiều điều khác, xưa
kia th́ không, nay trở thành quan hệ. Thậm chí xưa
kia ḿnh không biết là có. Từng lớp hiểu
biết chồng lên trí năo, nay vỡ lỡ ra như
những mảng phấn dồi, và đôi chỗ, để
lộ ra những mảng thịt da trần trụi
của con người chân chính xưa kia bị
khuất lấp". Nhất Linh có tiếp cận tác phẩm và
tư tưởng André Gide, thịnh hành khoảng 1930,
nhưng chịu ảnh hưởng đến đâu th́
không biết, dù rằng có những câu gợi nhớ: "Nếu c̣n sống th́ không bao
giờ nữa chàng là người có lỗi. Không có
tội với ai nữa (…) Chàng mở to hai mắt,
khắp người rờn rợn sợ hăi v́ lần
đầu nhận thấy rơ căn bản của tâm
hồn ḿnh một căn bản vô luân khốn nạn"
(sđd, tr.104). Vô luân: từ then chốt, vọt miệng
thốt ra nhắc đến tên sách của Gide, Kẻ
vô luân. Nhưng đạo đức ở đây không
phải là chuyện luân lư giáo khoa thư, mà là lư tưởng
tự do của con người muốn để tư
tưởng thoát ly ra khỏi quan niệm thiện ác,
phải trái của một chế độ giáo lư
hạn hẹp – trong tâm trạng cùng cực của con
người sắp chết. Giảng luận về thiên
Tề vật luận của Trang Tử, Thu Giang
Nguyễn duy Cần đă nhận định: "họ
không phải là người vô luân lư, immoral (Thu Giang
chua tiếng Pháp) như người ta đă hiểu
lầm, mà là một hạng người đă vượt
lên trên tất cả mọi thứ luân lư tầm thường
chật hẹp: họ là hạng người không c̣n tư
tâm tư dục nữa" (2). Trong Bướm Trắng, Nhất Linh không
có ư đồ cao đạo như vậy. Ông cũng
không đặt vấn đề đạo đức,
văn hóa triệt để, thành hệ thống, như
Gide. Ông chỉ viết một cuốn truyện dung
dị về con người b́nh thường, cho người
đọc trung b́nh lấy văn chương làm
niềm vui. Gán cho ông một dụng ư đạo lư,
triết lư cao siêu là khiêng cưỡng. Nhan đề Bướm
Trắng cũng không minh họa cho giấc mơ
của Trang Chu. Nhất Linh đă dùng h́nh ảnh này và
tư tưởng thoát tục trong những trước
tác khác. Văn học có lúc tạo nên những tao
ngộ lạ lùng. Khi thế giới lao vào thế
chiến thứ hai, th́ Nhất Linh khởi viết Bướm
Trắng, đồng thời Albert Camus viết Kẻ
xa lạ (l’ Etranger) chỉ xuất bản vào 1942. Dĩ
nhiên là Nhất Linh không biết đến. Chuyện xảy ra tại Alger, Meursault làm thư
kư quèn cho một hăng buôn, một chủ nhật trên băi
biển, phạm tội ngộ sát. Ra ṭa, bị kết
án cố sát; v́ thái độ dửng dưng trước
những giá trị đạo đức, tôn giáo mà công
tố viện đưa ra, Meursault lănh án tử h́nh; và
trước khi lên đoạn đầu đài, đă
tổng kết cuộc sống: "Tôi đă có lư,
tôi vẫn có lư, tôi luôn có lư. Tôi đă sống
thể này trong khi có thể sống cách khác. Tôi đă
làm điều này mà không làm điều nọ. Tôi
đă không làm chuyện nọ trong lúc đă làm
chuyện kia. Th́ đă sao? Không có ǵ quan trọng và tôi
đă biết tại sao…" Camus thời trẻ, vào tuổi của Trương,
bị bệnh lao nặng, tái phát nhiều lần,
phải vào viện lao nhiều lần và có tiếp xúc
tới tư tưởng Lăo Trang qua ảnh hưởng
thầy học Jean Grenier, đă từng dịch Lăo và
Trang tử (3) ra tiếng Pháp. Kẻ xa lạ hành văn b́nh dị – " bút
pháp trắng " – lư tưởng của Nhất Linh.
Tác phẩm vang danh khắp thế giới, được
dịch ra tiếng Việt năm lần bảy lượt.
Kẻ xa lạ gây ảnh hưởng rộng răi
như vậy, v́ thái độ dửng dưng " xa
lạ " của Meursault, c̣n có tác động đạo
đức mạnh hơn những phản ứng mănh
liệt rốt ráo của Michel trong Kẻ vô luân của
Gide. Cuộc trùng phùng giữa hai tác phẩm chưa
hẳn đă là t́nh cờ, mà có cơ duyên: là
niềm hoang mang của con người, từ Đông
sang Tây, giữa ḷng thế kỷ XX mà André Gide, André
Malraux, và nhiều tác gia khác, đă dự báo. Việt Nam 1940, chưa ai nói đến
triết lư hiện sinh. Ngay tại Pháp, phải sau
thế chiến, nó mới thành tư trào văn
nghệ phổ biến; giữa thập niên 1950 mới
du nhập vào Việt Nam. Và ngày nay, sau những cơn
say thời thượng, đọc lại Nhất Linh,
có ai nói rằng Bướm Trắng là tác
phẩm hiện sinh, là tiểu thuyết hiện sinh
đầu tiên và sáng giá nhất bằng tiếng
Việt, đóng góp vào một kinh nghiệm trí thức
lớn lao của thế giới giữa thế kỷ
XX, được chăng? Nói vậy được chăng
? Tôi an tâm khi học giả Nguyễn Huệ Chi cùng
đưa ra cảm giác ấy (xem trích dẫn 1). * Bướm Trắng là một tác phẩm nghệ
thuật, cần được thưởng lăm như
một bức tranh, một bản nhạc giao hưởng.
Nó không phải một tác phẩm luận đề luân
lư, giáo điều như Kẻ vô luân của André
Gide. Nhất Linh khi bày tỏ tham vọng viết
một tiểu thuyết hay, đào sâu tâm lư con người,
không khỏi nhắc đến bộ sách đồ
sộ Đi t́m thời gian đă mất của
Marcel Proust, cho dù Bướm Trắng không đạt
tới kích thước ấy. Ngày nay, chúng ta đều biết mănh
lực gợi cảm của những danh từ riêng –
tên người, tên địa lư đối với
Proust. Thử t́m hiểu tên nhân vật trong Bướm
Trắng, người đọc thấy đôi điều
lư thú. Nhà văn Nguyễn Tường Thiết, con út
Nhất Linh, đă kể về người chị
vắn số: "Chị Thoa có lần nói
với tôi : - Em biết không, cậu lấy tên của
chị đặt cho một nhân vật trong tiểu
thuyết của cậu đấy!". Sau khi người
chị qua đời, kiểm soát lại thời điểm
ông mới khấn thầm: Chị lầm rồi! Không
phải cậu lấy tên chị đặt cho nhân
vật Thoa trong Hai buổi chiều vàng đâu, mà (ngược
lại) cậu lấy nhân vật Thoa để đặt
tên cho chị đấy! Hai buổi chiều vàng
xuất bản năm 1937, một năm trước khi
chị ra đời" (4). Việc đặt tên cho nhân vật
truyện, có khi c̣n phức tạp hơn việc đặt
tên con. Trong Bướm Trắng có hai cô gái giang
hồ, tên Phương và tên Mùi. Tên Phương đă
xuất hiện trong Đôi Bạn, là một cô hàng
xén, hoạt động cách mạng bị Pháp bắt;
ra tù ít lâu rồi chết v́ bệnh lao; trong Bướm
Trắng, Liên là người yêu của Trương
cũng chết v́ bệnh lao trước đấy ba năm.
Sau này, trong Gịng sông Thanh Thủy, Phương là
một cô gái đẹp. Tên Mùi nôm na, nhưng nghĩa
cũng gần với tên Phương, c̣n quen thuộc hơn,
v́ là nhân vật chính trong tác phẩm dài hơi Xóm
Cầu Mới, mà phần đầu có lúc Nhất
Linh đặt tiểu tựa là Cô Mùi. Trong các nhân
vật nữ của Nhất Linh, Mùi là cô gái dung
dị, khả ái, xuất hiện lâu dài có lẽ hơn
cả cô Loan. Có lẽ v́ tinh nghịch, Nhất Linh đă
đưa chính ḿnh vào tác phẩm qua nhân vật tên
Linh thổi clarinette (sđd, tr.97), cố theo người
hát sai cả nhịp (sđd, tr.98). Tên hai nhân vật chính, Trương và Thu dường
như chỉ xuất hiện trong Bướm
Trắng nhưng mang nặng ngữ nghĩa. Trương
là nhân vật truyện, nhân vật hư cấu quen
thuộc trong các truyện dân gian: Trương Chi, Trương
Ba, Trương Hống, chàng Trương trong chuyện
thiếu phụ Nam Xương, Dũng trong Đoạn
Tuyệt và Đôi Bạn, cũng họ Trương.
E chỉ là t́nh cờ thôi nhưng trong tiềm thức
một nhà văn dồi dào văn hóa như Nhất
Linh, tên Trương có âm vang tiêu biểu không khỏi
nhắc đến bài viết nổi tiếng của
Roland Barthes: Proust và Tên (Proust et les noms), và âm hưởng
nhân danh, địa danh bất thần gây cảm
hứng cho Marcel Proust. Tên Thu là tên mùa thu, không gian, thời gian lư
tưởng làm nổi bật vẻ đẹp của
trần thế và hạnh phúc làm người. Khí
hậu mùa thu thường xuất hiện trong tác
phẩm Nhất Linh, như nơi trang nhập đề
Đôi Bạn. Trước đó, Nhất Linh có truyện
dài Nắng Thu, 1934, tả cuộc t́nh cực
kỳ lăng mạn giữa Phong với Trâm, một cô gái
câm; sau bao nhiêu nghịch cảnh, hai người đă
tái hợp, cùng nh́n cảnh từ một khoang
thuyền về nhà: "Rồi hai người say sưa
nh́n nhau rồi lặng yên để hưởng cái
hạnh phúc êm đềm lúc đó như man mác
khắp bầu trời, phảng phất trên mặt nước
lăn tăn gợn sóng như ḥa với gió heo may,
với ánh nắng một ngày thu trong sáng" (câu
cuối truyện). Nhân vật của Nhất Linh dù chính hay
phụ vẫn thường được lấy
mẫu từ cuộc sống thực. Cô Thu cũng
vậy thôi, và c̣n có thể là một kỷ niệm riêng
mà tác giả chiu chắt. Huy Cận thân thiết
với Nhất Linh thời Bướm Trắng, có
thổ lộ riêng với Nguyễn Tường
Thiết: "Chỉ có tôi với ông Nhất Linh
biết thôi! Chúng tôi có san sẻ riêng với nhau câu
chuyện về một thiếu nữ. Tôi không biết
ông Nhất Linh có mê cô ấy thật không, nhưng ông
đặt một bí danh cho thiếu nữ ấy là
"cô áo trắng". Bài thơ Áo Trắng của tôi,
ông muốn tôi đề tặng ông. Cháu biết không,
cô áo trắng là cô Thu trong Bướm Trắng của
ông Nhất Linh đấy" (5). Huy Cận đă xác nhận chi tiết này
trong hồi kư: "Một kỷ niệm vui nữa
của Nhất Linh đối với tôi là khi tập
Lửa Thiêng của tôi sắp đem in th́ tôi hỏi
Nhất Linh muốn tôi tặng bài thơ nào. Nhất
Linh lật qua các trang thơ đă đánh máy, dừng
lại ở bài Áo Trắng. "Anh cho tôi bài thơ này".
Tôi hỏi "Chắc anh có kỷ niệm ǵ liên quan
đến t́nh cảm của bài thơ ". "Đúng
thế, trong đời tôi cũng có một cô áo
trắng". Về sau đọc tiểu thuyết
của Nhất Linh tôi có chú ư rằng Nhất Linh đă
một vài lần tả chiếc áo trắng của người
trong truyện, đặc biệt là trong một đoạn
của cuốn Bướm Trắng tác giả đă
tả chiếc áo cánh phơi trên giây c̣n bày ra mùi hương
da thịt làm đắm đuối một nhân vật
đứng ngắm chiếc áo. Chắc hẳn tác
giả đă vận dụng kỷ niệm, đă
sống lại kỷ niệm say sưa của ḿnh để
viết đoạn văn trên" (6) . Huy Cận nhớ mang máng như vậy là
đă t́nh nghĩa, nhưng không chính xác: tấm áo
trắng phơi trên giây là của cô Loan vào cuối
truyện Đôi Bạn. Áo của cô Thu không
biết màu ǵ và vắt ở đầu giường,
mềm như da người và mùi thơm hơi cay v́
Trương úp mặt vào chiếc áo (sđd,
tr.44), chứ không phải đứng nh́n áo phơi trên
giây. Chi tiết không mấy quan trọng, nhưng
cũng cần minh định v́ Nhất Linh là nhà văn
duy lư: Những câu văn thi vị, huyền ảo đến
đâu cũng phải hợp lư: không phải chỉ v́
ông xuất thân là nhà khoa học, nhưng v́ cốt cách
tri thức như thế. Những kỷ niệm của Huy Cận
về Bướm Trắng lại có ích cho người
t́m hiểu văn học: "Có khi anh c̣n rủ tôi
về chơi nhà anh ở thị xă Hà Đông vào
một dịp Tết. Lúc đó Nhất Linh đang
viết truyện dài Bướm Trắng, anh có khoe
với tôi là đă viết được gần
nửa truyện rồi. Nhất Linh viết truyện trên
những quyển vở gạch carô, và viết bằng
bút ch́ vót thật nhọn, chữ viết đều
đặn và rất nhỏ. Trên trang bản thảo ít
có chỗ chữa, thảng hoặc có thêm câu nào th́ móc
ra ở ngoài lề như kiểu ta chữa bản mo-rát
của nhà in đem tới. Anh khoe với tôi là viết
tiểu thuyết như vậy, anh không hề có đề
cương trước, có dàn bài trước, hay nói
cho đúng hơn là anh có một thứ dàn bài mơ
hồ trong tâm trí, một thứ khung của câu
truyện. Rồi th́ anh xông vào viết truyện,
mặc cho nhân vật lôi cuốn anh đi " (sđd,
tr. 254). Điều này càng chứng tỏ Bướm
Trắng không c̣n là tác phẩm luận đề, mà
là một tiểu thuyết tâm lư, dựa trên đề
tài chính là t́nh yêu, nhưng có lúc người đọc
tự hỏi Trương có thật sự yêu hay không,
hay chỉ tạo t́nh huống để lắng nghe ḿnh
khổ sở hoặc vui sướng, trong tâm trạng
đặc biệt của người bệnh. "Trương
ở vào t́nh trạng một người không cần ǵ
nữa, chỉ mong xảy đến cho ḿnh một
việc, bất cứ việc ǵ, miễn là khác thường
để cho ḿnh quên được sự sống"
(sđd, tr. 41). Hay khám phá ra sự sống, cũng
vậy thôi. Từ đó, t́nh cảm của Trương
với Thu dùng dằng, khi đắm say, cuồng
dại, khi hờ hững, ích kỷ. Có thể anh đặt
ra tṛ chơi rồi tự ḿnh lún sâu vào cạm
bẫy; hoặc là yêu thật mà không muốn thú
nhận. Quan hệ luyến ái Trương -Thu đánh
dấu một thời đại trong t́nh yêu, từ xúc
cảm tự nhiên đến cách biểu hiện,
giữa đôi lứa và trước xă hội, từ
thời Tố Tâm 1922, của Hoàng ngọc Phách. T́nh yêu trong thời kỳ này, qua Bướm
Trắng và tiểu thuyết Nhất Linh nói chung, là
một mỹ cảm, quan hệ nam nữ thiết tha, có
thể đến mức máu theo nước mắt
hồn ĺa chiêm bao như trong truyện Kiều, nhưng
vẫn là một t́nh cảm lư tưởng, pla-tô-ních
không đưa đến quan hệ tính dục như
ta sẽ thấy ở các tác giả khác, thuộc
thế hệ sau. Có thể là độc giả
thời kỳ đó chờ đợi như thế. Dù
muốn dù không nội dung một tác phẩm cũng
phản ánh tâm lư thời đại – cụ thể là
nhu cầu độc giả – Mà cũng có thể
tạng viết của Nhất Linh tự nhiên như
vậy, mà ông cũng muốn như vậy, trên tự
thế của ông thời đó. Dù không có chức
vụ ǵ chính thức, Nhất Linh cũng đang là
một trí thức uy tín, nhà văn nhà báo chủ trương
"nghệ thuật vị nhân sinh" qua những
điều tâm niệm của Tự lực văn đoàn.
Trong Bướm Trắng dù muốn tạo dựng
một nhân vật "vô luân", Nhất Linh vẫn là
nhà đạo đức, moraliste, dù không rao giảng luân
lư như trong các tác phẩm trước đó. Có
lẽ điều này lư giải đoạn kết,
đôn hậu bất ngờ: Trương về quê
lấy vợ và sống cuộc sống nông thôn b́nh
dị. Bối cảnh xă hội và tâm lư các nhân
vật Bướm Trắng dễ đưa đến
quan hệ tính dục, nhưng câu chuyện chỉ
đưa đến một cái hôn ngây ngất trên
cảnh chùa Thầy; sau một thời gian dằng co, Trương
đơn phương chấm dứt quan hệ. T́nh yêu
được mô tả tập trung rơ nét hơn các tác
phẩm trước, nhưng chỉ gây hứng thú cho
người đọc ở nơi gặp gỡ
của hai tâm hồn đồng điệu, hiểu
nhau qua những cử chỉ nhỏ nhặt từ
những chíu mày, chớp mắt, đến những
lời nói bâng quơ, mà người ngoại cuộc dù
có chứng kiến cũng không ngờ vực. Đây là
sở trường của Nhất Linh, mà ta đă
gặp và sẽ gặp trong trước tác khác; nhưng
ở Bướm Trắng th́ tập trung hơn v́
không tan loăng trong những tạp âm khác của tâm
cảnh. Trong Viết và đọc tiểu thuyết
(1952-1961), ông quan niệm một tác phẩm hay phải có
giá trị "muôn nơi và muôn thuở" dịch ra
tiếng nước ngoài vẫn c̣n hay; nghệ
thuật tiểu thuyết không dựa vào cốt
truyện, hay tư tưởng, hay câu văn trầm
bổng, và là diễn biến tâm lư của nhân
vật. Bướm Trắng là tác phẩm đánh
dấu bước ngoặt trong trước tác Nhất
Linh. Học giả Bùi Xuân Bào, trong một chuyên
luận về tiểu thuyết Việt Nam 1925-1945
bằng tiếng Pháp đă ghi nhận điều này:
"Bướm Trắng đánh dấu một giai
đoạn mới trong tiến tŕnh Nhất Linh v́ tác
giả đă hoàn toàn dứt bỏ công thức
luận đề mà xưa nay ông vẫn sử
dụng. Ở đây hư cấu tiểu thuyết không
t́m cách chứng minh điều ǵ. Mà chỉ nhắm phân
tích tâm hồn một thanh niên ở tuổi hưởng
thụ cuộc sống, khát khao hạnh phúc, mà
chứng bệnh nan y đă cản ngăn những
nguyện vọng chính đáng nhất (…) Tác phẩm vô cùng độc đáo.
Trước Nhất Linh và đồng thời với ông.
Chưa có tác giả nào đẩy xa như vậy
cuộc phân tích một bi kịch của tâm thức. Chưa
bao giờ nỗi ám ảnh của cái chết được
đan kết chặt chẽ như vậy với
những hoang mang của t́nh yêu" (7). Giáo sư Bùi Xuân Bào (1916-1991) là một
học giả uyên bác và nghiêm túc, lại là người
đương thời cùng Nhất Linh, nhận định
cũng là chứng từ của thời đại, cung
cấp một tư liệu quan trọng. Đặt trước
tác vào bối cảnh văn học của nó, Bùi Xuân
Bào đă đề xuất, đối chiếu quan
điểm chuyên môn và văn học "Kỹ
thuật tiểu thuyết của Nhất Linh ở đây
đă đạt tới độ toàn bích. Từ
bỏ những thủ pháp thuần trí thức, cắt
từng vạt sáng tối như trong các tác phẩm trước,
tác giả đă uyển chuyển các phương
tiện tra vấn nội tâm và phương tiện
diễn đạt, ông đă đụng vào những xu
hướng, những vận động của tiềm
thức. H́nh thức tự sự được sử
dụng ưu tiên và nhuần nhuyễn, là độc
thoại nội tâm; không phải theo các bậc thầy
nội vấn hiện đại như Proust và Joyce
mải mê phân tích chi li những nguồn mạch tâm lư,
mà như phong cách Dostoievski; chúng tôi không dám so b́
Nhất Linh với bậc thầy của tiểu
thuyết Nga, nhưng chắc chắn là bước
ngoặt của Bướm Trắng trong biến
chuyển nghệ thuật Nhất Linh, phải có
dấu ấn do ảnh hưởng của Tội ác và
h́nh phạt. Nói chung, tác phẩm mới nhất của
Nhất Linh có một hậu cảnh siêu h́nh và duy linh
(métaphysique et spirituel) có lẽ do ảnh hưởng
nhiều chương trong Tội ác và h́nh phạt (sđd,
tr. 365-366) ". Bùi Xuân Bào có đơn cử chương
6 trong Bướm Trắng, cảnh Trương băn
khoăn trước tủ tiền với cuộc
dằn xé nội tâm của Raskolnikov trước khi
hạ sát bà chủ cho vay nợ. Lịch sử khi sang trang, đă biến
đổi nhiều luận điểm văn học.
Gần đây, dường như ở Việt Nam đang
có sự đánh giá lại. Phan Cự Đệ
(1933-2007) khi đề cập đến tiến tŕnh
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đă có
trích dẫn đoạn Bùi Xuân Bào đánh giá cao Bướm
Trắng; Phan Cự Đệ cho rằng, trong Bướm
Trắng, Nhất Linh chịu ảnh hưởng
cả Dostoievski lẫn Proust (8) chủ yếu là cách phân
tích tâm lư chi li. Trước đây, khoảng 1973, ông đă
nhận xét về Đôi Bạn: "trong tiểu
thuyết này ḍng tâm lư của các nhân vật phát
triển cũng là nhờ sự vận động
của những kỷ niệm, hồi ức, liên tưởng
(…) sẽ gây thành một phản ứng dây chuyền,
làm cho ḍng nội tâm trôi chảy không ngừng và chính
cái đó tạo nên chiều sâu tâm lư nhân vật"
(9). Gần đây, 30 năm sau, ông đă
nới rộng nhận xét sang Bướm Trắng,
mà dường như ông mới đọc lại và
nhận ra giá trị "Những hồi ức, liên
tưởng cũng góp phần mở rộng không gian
nghệ thuật của câu chuyện, đưa người
đọc đến những vùng trời xa lạ khác
nhau hoặc mở rộng thời gian nghệ thuật,
rọi một ánh sáng mới vào quá văng xa xăm và
bỗng nhiên làm thay đổi cảm xúc của người
đọc" (2004, tr.239) Có lẽ Phan Cự Đệ quá đà, theo
lối viết của ông ấy, từ cực đoan này
sang cực đoan kia, chứ không ai ngờ vực
rằng ông có chút cảm t́nh riêng tây ǵ với
Nhất Linh. Nhận định của giới phê b́nh và
nghiên cứu văn học, qua nhiều quan điểm và
thời điểm khác nhau, chứng tỏ giá trị
khách quan của Bướm Trắng – cho dù nó kén
người đọc, ít phổ biến v́ ra đời
trong nghịch cảnh. Để có một đánh giá chừng
mực, chúng tôi quan tâm đến cách đọc
của nhà nghiên cứu Phạm thế Ngũ (1921-2000)
trưởng thành vào thịnh thời của nhóm
Tự Lực; trong một bộ văn học sử
phổ thông, ông đă nhận định tổng
hợp, ngắn gọn nhưng đầy đủ: " Qua Bướm Trắng, Nhất Linh cũng
đă đưa ng̣i bút phân tích tâm lư vào địa
hạt nhân bản muôn thuở với trường
hợp bi đát con người bị giằng co
giữa t́nh yêu và cái chết, con người muốn
phá họa nhân phẩm, tự thân trụy lạc, mà
vẫn không thể nào không hướng về những
nẻo thiện mỹ, con người tủi thân
giận phận muốn t́m xuống đáy địa
ngục mà nằm cho xong nhưng hồn mộng vẫn
chập chờn đôi cánh bướm trắng, h́nh
ảnh một hạnh phúc thiên đường đă
trót để lỡ " (10) . Bướm Trắng viết xong 1940, đăng báo
Ngày Nay, từ số 208 tháng 4-1940; năm sau, Đời
Nay xuất bản, khi chiến tranh lan tràn trên
khắp thế giới, và Việt Nam bước vào khúc
quành quyết định. Từ đó đến nay là hơn 70 năm.
Thời gian đă dài, c̣n dài hơn nữa, với bao
nhiêu đổi thay dâu biển, trong xă hội và ḷng người.
Giữa thế kỷ 18, nhà thơ Nguyễn Gia Thiều
ra xem vườn sau một cơn mưa : Lởm chởm vài hàng tỏi Số phận một bức tranh, một bài
thơ hay cuốn truyện cũng tèo teo như vậy,
có khi tồn tại nhờ trí nhớ tập thể, cũng
bấp bênh và phôi pha. Ngày nay trong nước đang có phong trào xét
lại sự đóng góp lớn lao của Tự
Lực Văn Đoàn trong quá tŕnh xây dựng nền văn
học Việt Nam hiện đại, đặc
biệt là tác phẩm Bướm trắng của
Nhất Linh đă từng bị ruồng rẫy, có khi
phê phán nặng lời, qua nhiều thế hệ. Qua
cuộc hội thảo Nh́n lại thơ mới và văn
xuôi Tự lực văn đoàn tổ chức
tại TP Hồ chí Minh, năm 2012, đă có nhiều
tham luận đánh giá cao Tự lực văn đoàn.
Từ những nhà nghiên cứu tên tuổi và như
Phong Lê (Viện văn học): "trong ngót mười
năm tồn tại, cho đến (…) Bướm
Trắng 1941 Tự lực văn đoàn đă góp
phần quan trọng đưa tiểu thuyết Việt
Nam vào quỹ đạo hiện đại, trên tất
cả phương diện của cấu trúc tự
sự kiểu loại nhân vật, tư duy nghệ
thuật và ngôn ngữ giọng điệu…, sau khi
dứt bỏ triệt để mọi dấu ấn
trung đại" (11) . Cho đến các nhà
nghiên cứu trẻ tuổi hơn như Phạm
thị Phương (Đại học sư phạm
TPHCM): "Tiểu thuyết Bướm Trắng
được coi là đỉnh cao nghệ thuật
của Nhất Linh. Giá trị nội tại, tự
tại của tác phẩm ngày càng được
khẳng định, khẳng định ngay cả khi
đặt nó trong sự tương đồng với
tác phẩm Người xa lạ của Camus, Thất
lạc cơi người của Dazai Osamu v.v. mà Nhất
Linh chưa từng biết đến khi viết nó, ngay
cả khi đặt nó đối chiếu với phong cách
của các tác giả ... mà ông rơ ràng có chịu
ảnh hưởng. Tất cả những sự đối
chiếu này đă khẳng định bản lĩnh
độc lập của thủ lĩnh một văn
đoàn chủ trương đổi mới văn
học nước nhà theo hướng hiện đại
hóa, một cá tính sáng tạo của nhà nghệ sĩ
lớn " (12). Đây là đoạn kết của bài tham
luận, đánh giá cao nghệ thuật tiểu
thuyết Bướm Trắng. Hiện nay ở nước ngoài nhà
xuất bản Văn Mới (California - Hoa Kỳ) năm
2014 in lại Bướm Trắng, trong toàn văn và
nguyên tác, là điều may cho nền văn học dài
lâu của đất nước; và cho một thiểu
số độc giả, the happy few, không biết
được bao nhiêu người và phiêu bạt
những đâu đâu. Mà cũng không biết trước
tác phẩm sẽ được tiếp nhận ra sao. Dĩ nhiên là tác phẩm mong có được
lớp độc giả mới, bây giờ và mai sau. Từ đó bài này xem như một hoài
vọng: Của tin gọi một chút này làm
ghi. Đặng Tiến (1) Nguyễn Huệ Chi, Văn học
cổ cận đại Việt Nam, từ góc nh́n văn
hóa… tr. 825, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2013. (2) Trang Tử, Nam hoa kinh, bản
dịch Thu Giang Nguyễn duy Cần, cuốn II, tr. 244, nxb
Khai Trí, 1963, Sài G̣n. (3) Jean Grenier, Esprit du Tao, 2003, nxb Gallimard. (4) Nguyễn Tường Thiết, Nhất
Linh, cha tôi, tr. 286. Nxb Văn Mới, 2006, California. (5) Nguyễn Tường Thiết, sđd, tr.
91. Bài thơ Huy Cận nhắc đến : Áo trắng
đơn sơ mộng trắng trong… (6) Huy Cận, Hồi kư song đôi,
tập II, tr. 259, nxb Hội nhà Văn, 2002, Hà Nội. (7) Bùi Xuân Bào, Naissance et évolution du roman
Vietnamien moderne 1925-1945 (H́nh thành và biến chuyển
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại 1925-1945),
tr.354-361, Đường Mới tái bản, 1985, Paris. Nguyên gốc là luận án phụ, cấp
bậcTiến sĩ Quốc Gia, 1961, GS. Pierre Moreau điều
kiển, Sorbonne, Paris. (8) Phan Cự Đệ, Văn Học
Việt Nam thế kỷ XX, tr. 240, nxb Giáo Dục,
2004, Hà Nội. (9) Phan Cự Đệ, Tiểu Thuyết
Việt Nam Hiện Đại, tr. 84, nxb Đại
Học và Trung Học chuyên nghiệp, 1974, Hà Nội (10) Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn
học sử giản ước tân biên, cuốn III,
tr. 463, nxb Quốc Học Tùng Thư, 1965, Sài G̣n. (11) Phong Lê, Nh́n lại thơ mới và văn
xuôi Tự Lực Văn Đoàn, tr. 28. Nxb Thanh Niên,
TPHCM, 2013. (12) Phạm thị Phương, Nh́n
lại thơ mới và văn xuôi Tự Lực Văn
Đoàn, tr. 378. Nxb Thanh Niên, TPHCM, 2013. |