Chiếc xích lô chở mùa xuân |
|
1 Tân
ngồi vắt vẻo trên chiếc xích lô ngước
nh́n những tảng mây trắng lững lờ trôi trên
nền trời xanh thẫm, ḷng bâng khuâng nhớ
tới những ngày tháng cũ. Lúc ấy vào
khoảng mười giờ sáng. Từ khi đạp
xe ra khỏi nhà sáng sớm tới giờ anh vẫn chưa
kiếm được một “cuốc” nào. Nếu
đến trưa vẫn không có khách th́ coi như
mất toi nửa ngày tiền thuê xe và tất nhiên
phải nhịn ăn luôn bữa trưa.
Chỗ
Tân đậu xe góc đường Lê Lợi - Tự
Do, anh cho là rất “địa lợi”, v́ phía chéo
bên kia đường là khách sạn Đại
Lục, nơi có nhiều khách ngoại quốc
tới ở. Họ thường bao luôn cả xe ngày
để đi “tham quan” khắp Saigon Chợ
Lớn. Đồng thời nơi này cũng là nơi
có nhiều kỷ niệm với Tân - những ngày tháng
cũ trước 75 - anh đă gặp “người yêu
lư tưởng” của ḿnh và sau đó cưới làm
vợ. Cuộc sống lứa đôi tràn ngập
hạnh phúc cho tới ngày 30 tháng 4 đen tối
sầu thảm. Tân móc túi lấy gói thuốc rê
vấn một điếu. Vừa phập phèo mấy
hơi để dĩ văng tan theo khói thuốc, th́ anh
nghe tiếng gọi xích lô bên kia đường. Tân
vội quay nh́n. Một người đàn bà
đưa tay vẫy gọi. Tân vứt vội mẩu
thuốc hút dở, rời khỏi nệm xe, nhẩy
phóc lên yên xích lô đạp nhanh tới bên kia vệ
đường (v́ chỗ này thuộc phạm vi “lănh
thổ” của khách sạn nên họ cấm xích lô
đậu. Anh em xích lô chỉ có thể “đột
kích” đón khách rồi phóng đi ngay). “Cô
muốn đi đâu?” Tân hỏi bằng tiếng Anh
giọng rất chuẩn, rất Mỹ làm cô khách
ngạc nhiên. Cô đặt ḿnh lên xe thong thả nói: Tân
hỏi lại: “Nghĩa là cô muốn mở một
cuộc du lịch bỏ túi trong thành phố?” Trước
khi cho xe chuyển bánh, Tân nói: “Cô chưa cho biết
sẽ trả tôi bao nhiêu tiền. Chúng ta nên ṣng
phẳng dứt khoát trước khi bắt đầu. Cô
khách nhắc lại câu hỏi của tôi khi năy: Cô
khách một lần nữa tỏ ra ngạc nhiên nhưng
không nói ǵ. Hôm
qua cô trả cho anh xích lô đúng như giá anh ta đ̣i,
thế mà khi trả tiền c̣n nằn ń xin thêm. C̣n
anh xích lô này th́ lại xin bớt. Con người
xứ sở này có vẻ phức tạp, khó hiểu
thật. Tân
từ từ đạp xe về phía chợ Bến Thành.
Tới nơi, anh hỏi khách: Cô
khách mỉm cười. Từ lúc lên xe tới
giờ. Tân mới thấy khách cười: Thấy
sự trao đổi nói năng có vẻ thân mật
cởi mở, Tân hỏi: Khách
khẽ gật và đôi mắt xanh biếc của cô
chớp chớp. Bây giờ Tân mới có dịp quan sát
người đẹp. Cô khoảng dưới ba mươi
tuổi, thân h́nh thon thả dong dỏng cao bó gọn
trong chiếc áo pull trắng và chiếc quần gin
mầu xanh đậm. Mớ tóc vàng óng ả của
cô chẩy dài buông xơa xuống cái lưng ong. Nước
da cô trắng hồng mịn màng. Những sợi lông
tơ trên hai cánh tay trần tṛn lẳn gợi
cảm. Tân cũng đă có dịp vuốt ve những
cánh tay như thế, nhưng xa xôi lắm rồi. Theo
sự nhận xét sơ khởi của tân th́ nhan
sắc cô nàng ở mức trung b́nh nhưng khá
quyến rũ ố h́nh như cô có cái duyên ngầm
của các cô gái phương Đông. Khách
khẽ gật. Lần
này cô nàng ngoái hẳn ḿnh về phía sau nh́n Tân: Tân
hóm hỉnh cười: Cô
khách càng thêm ngạc nhiên. Một anh đạp xích lô,
tức thuộc giới lao động b́nh dân thất
học, mà lại có vẻ hiểu biết những
sự việc ngoài tấm mắt của anh ta. Rồi
c̣n biết cả nịnh đầm ố món “vơ”
của bọn đàn ông có học. Cô cười
nhẹ trả lời Tân: Tới
chợ bến Thành cô bảo anh ngừng xe để
cô vào chợ mua một món ǵ đó. Cô hỏi anh có
đợi được không. Anh gật đầu.
Mươi phút sau cô trở ra trên tay cầm một cái
gói bọc giấy nhỏ. Tân
có vẻ ngập ngừng trước khi nói: Nói
xong, cô khẽ thở dài, mặt thoáng buồn, đôi
mắt xanh biếc đăm đăm như nh́n vào
cơi xa xăm mơ hồ nào đó. Tân thấy vậy
không hỏi nữa. Anh lặng lẽ đạp xe trên
đường Trần Hưng Đạo rộng dài,
dưới trời nắng bắt đầu gay
gắt. Những chiếc xe gắn máy của bọn
trẻ gầm rú phóng vùn vụt, đôi lúc cô khách
sợ hăi kêu lên v́ tưởng nó đâm nhào vào ḿnh.
Từ đường Đồng Khánh, cô bỏ Tân
ngừng xe trước một tiệm tạp hóa. Lúc
trở ra cô khoe với Tân một vật nhỏ: Dứt
lời cô khách lên xe ngồi, Tân đạp tiếp.
Chợt cô quay lại hỏi Tân: Cô
lại thốt lên tiếng kêu ngạc nhiên và
nhắc lại: Cô
khách người Mỹ đi từ ngạc nhiên này
tới ngạc nhiên khác. Cô có vẻ thích thú nghe
những điều Tân nói. Cái con người lam lũ
nghèo khổ đạp xích lô này đă từng là
sỹ quan Không Quân và đă sang Mỹ học? Cô
nửa tin nửa ngờ, ḍ đường: Tân
đưa tay quệt mồ hôi trên trán. Chiếc áo cũ
mỏng mầu đen nhiều miếng vá anh mặc
ướt đẫm mồ hôi. Tân cảm thấy
bắt đầu mệt và khát nước. Chén xôi
bắp nhỏ ăn từ sáng sớm, giờ đă
tiêu hết. Anh trả lời khách không mấy hào
hứng sốt sắng như lúc đầu: Sau
khi thảng thốt kêu lên tiếng “ô”, cô ngưng
hỏi và im lặng một lúc lâu. Tân
cũng chẳng quan tâm đến sự im lặng
của cô khách. Anh đang mải lo đối phó
với những xe cộ chạy hỗn độn, vô
trật tự trên đường phố. Chỉ
cần sơ ư một chút, có thể gây ra tai nạn
thương tích cho người ngồi trên xe. Hai bên
lề đường Đồng Khánh, người người
đi lại tấp nập. Hàng hóa của các
tiệm bầy tràn ra cả lề đường.
Rồi những gánh hàng quà rong, những xe bán nước
ngọt, trái cây, tạo nên một cảnh hoạt náo
vui mắt. Cô khách có lẽ vui lây với không khí
nhộn nhịp này, nhất là nh́n những người
đàn bà Hoa mặc những bộ quần áo
mỏng, giản dị. Cô hỏi Tân: Ngưng
chút cô nói tiếp: “Cả về chính trị và kinh
tế. V́ thời đại chúng ta, kinh tế đang
chi phối thống lĩnh toàn cầu!” Tân căi: Cả
buổi trưa hôm đó, cô khách người Mỹ và
anh xích lô đạp mải mê tranh luận về
nhiều vấn đề thời sự, chính trị,
học thuyết, triết lư, chiến tranh, ḥa b́nh,
cộng sản, tư bản... quên cả đường
phố chật chội xe cộ chen lấn bừa băi.
Năm đó là năm 1985, thành phố Saigon c̣n
nhiều xe đạp, xe gắn máy, ít xe hơi. Riêng
anh đạp xích lô quên cả mệt và đói. Anh
đang hào hứng. Đă lâu lắm anh không hề dám
nói năng thảo luận với bất cứ ai
những vấn đề húy kỵ trên. Nói với cô
khác lạ này không sợ báo cáo, không sợ xuyên
tạc, chụp mũ. Tân yên tâm tự nhủ ḿnh như
vậy nên anh “phát ngôn mạnh bạo xả ga”.
Gần xế chiều, Tân đạp xích lô chở cô
khách Mỹ về khách sạn Đại Lục. Bước
xuống khỏi xe khách mới hỏi: Tân
ph́ cười trước câu hỏi này. Đúng là
một người Mỹ ngây ngô, chẳng biết ǵ
về làn sóng đỏ đang tràn ngập tràn phá
hủy hoại khốc liệt cả miền Nam. Anh
trả lời: Tân
cười nửa miệng: Cô
khách người Mỹ mở bóp lấy hai tờ
giấy năm đô la đưa cho Tân và hẹn sáng
mai tới đón cô đi chơi tiếp. Tân cầm
hai tờ giấy bạc ngần ngừ. Anh định
đưa trả lại một tờ th́ cô khách
Mỹ đă bước vào trong khách sạn. Sáng
hôm sau đúng chín giờ, Tân đạp xe tới góc
đường Lê Lợi - Tự Do đă nh́n
thấy cô khách đứng chờ. Cô giơ tay
vẫy chào anh rồi bước lại ngồi lên
xe. Cô
khách Mỹ chỉ cười và chớp chớp đôi
mắt xanh biếc không có ư kiến ǵ, nhưng trong
đầu cô nẩy một câu hỏi: sao lại có
anh chàng gàn dở thế nhỉ? Đă nghèo khổ mà
lại c̣n chê tiền? C̣n
Tân bây giờ mới nh́n thấy đôi mắt xanh
mầu ngọc bích và trong sáng như mắt mèo đẹp
tuyệt vời của cô. Trong đôi mắt ấy
anh đọc thấy nhiều thứ lắm: hiền
ḥa, dịu dàng, nhân bản và cả nỗi đau
tiềm tàng ẩn sâu. Đúng, đôi mắt là linh
hồn của con người. Các cụ ḿnh xưa
nhận xét thật tài t́nh tinh vi. Xe chạy ra bờ sông
Saigon trước khách sạn Majectic. Cô khách ngỏ ư
muốn ngồi chơi nơi vườn hoa. Tân nói
đùa: Để
an toàn, khỏi lo lắng, Tân đặt chiếc xích
lô ngay cạnh chỗ ghế ngồi và khóa bánh xe
lại bằng dây xích. Anh nói với cô khách Mỹ: Cả
hai cùng cất tiếng cười vui vẻ. Bờ sông
Saigon lúc nào cũng tụ tập đông người.
Thấy khách ngoại quốc, bọn trẻ nhỏ
chuyên bán những đồ lặt vặt rẻ
tiền cho du khách, xúm lại vây quanh hai người
mời mọc, gạ gẫm, nài nỉ. Chúng nói
những câu tiếng Mỹ bồi ngây ngô ngộ nghĩnh.
Rồi đám bán hàng rong xúm xít như ruồi bu. Tân
khó chịu lắm, luôn tay xua đuổi th́ bị
mắng trả tục tĩu. C̣n cô khách Mỹ cứ
cười cười lấy làm vui thích hoạt
cảnh này. Cô mua một gói đậu phụng rang
cho ḿnh, một gói cho Tân và mỗi người
một chai côca -cola. Lâu lắm Tân mới uống
lại thứ nước ngọt của “đế
quốc Mỹ” này. Sao mà ngon ngọt đến
thế. Mười mấy năm trời khi ở trong
tù và cả lúc về ngoài đời anh chưa
một lần được uống lại. Tiền
ăn c̣n lo chưa nổi lấy đâu tiền
uống côca -cola. Khi bóc gói đậu phụng, anh
thất vọng. Nó đă bị hư từ lâu, nhưng
người ta vẫn đem bán. Cô khách nói: Cô
khách Mỹ nói nhanh: “Edward Carter! Anh có nhớ sai tên
không? Anh ta người ra sao?” Tân
vỗ vỗ trán như gọi những h́nh bóng cũ
trở về: Tới lượt Tân thở dài nuốt nước bọt như cố nén nỗi đau buồn xuống đáy ḷng: “Cha mẹ tôi đều mất khi tôi c̣n ở trong tù!” Cô
khách Mỹ kêu lên: “Thế c̣n đứa nhỏ?” Và
lần này chính Tân ngạc nhiên trố mắt nh́n cô
khách Mỹ. Cô lấy khăn giấy chậm nước
mắt. Cô khóc. Rồi cô đưa đôi mắt xanh
biếc đẫm nước mắt nh́n Tân nói: Sau
một lúc suy nghĩ đắn đo, Jacqueline nói: Họ
c̣n ngồi nói chuyện với nhau rất lâu.
Jacqueline có ư mời Tân đi dùng bữa trưa, nhưng
anh từ chối, mặc dù bụng đang đói.
Xuống xe cô móc bóp rút ra tờ giấy một trăm
đô đưa Tân, nói: Tân
nh́n tờ giấy bạc một trăm đô nằm
trong tay sững sờ. Một số tiền quá
lớn và quá bất ngờ đối với anh.
Chừng như định thần lại được,
Tân phóng ḿnh bước nhanh như chạy vào khách
sạn, miệng gọi lớn: “Jacqueline! Jacqueline! Tôi
không thể! Tôi không nhận số tiền này. Tôi
xin trả lại cô!” Nhưng
Jacqueline đă mất hút. Anh bảo vệ khách
sạn thấy gă xích lô chạy xồng xộc vào
trong khách sạn miệng la lối ầm ĩ liền
chặn Tân lại, nói lớn, giọng hách dịch: Tân
giơ tờ giấy một trăm đô nói: Anh
bảo vệ ngẩn người ra nói: Nhưng
Tân không đưa làm anh bảo vệ khách sạn
nổi giận: Tân
cầm tờ giấy bạc một trăm đô
chậm răi bước ra khỏi khách sạn. Một
trăm đô, đúng là số tiền không nhỏ,
nhưng công sức của anh bỏ ra đâu có
xứng đáng để nhận sồ tiền này.
Thôi sáng mai tới trả cô ta vậy. Cả đêm
đó Tân không ngủ được. Anh cứ
trằn trọc “đánh vật” măi với tờ
giấy bạc một trăm đô. Tại sao lại
có thể như thế nhỉ? Đi cuốc xe áng giá
năm đô, cô ta trả một trăm đô.
Chẳng lẽ là bạc giả như anh chàng bảo
vệ khách sạn nói? Không! Nhất định không
phải rồi! Cần ǵ cô ta phải làm cái việc
lươn lẹo dối trá, Vậy tại sao cô ta
trả cho ḿnh cả một trăm đô? Thương
hại? Bố thí? Một tấm ḷng? Dù có là ǵ
đi chăng nữa th́ sáng mai cũng vẫn phải
trả lại tiền cho cô ấy. Tân
thở dài. Tắt đèn. Bật đèn. Vuốt ve
ngắm nghía tờ giấy bạc một trăm đô.
Tờ giấy mầu xanh lá cây như sáng rực trong
đêm. Một trăm đô đâu có nhỏ. Có khác
ǵ tiền từ trên trời rơi xuống. Nhưng
nhất định ngày mai phải trả lại cô
ta, cô Jacqueline quư hóa: Tôi rất trân trọng tấm ḷng
của cô nhưng tôi không thể nhận số
tiền này. Chúng ta chỉ mới có hai ngày quen
biết, đâu đă có ân t́nh nghĩa trọng ǵ. Cám
ơn ḷng tốt của cô. Cám ơn người
đàn bà ở phương trời xa đến. Nghĩ
tới những người cùng chung ṇi giống
sống quanh tôi, cô làm tôi thấy đau đớn
tủi nhục. Hôm
sau mới tám giờ sáng, Tân đă đạp xe
tới chỗ cũ để đợi Jacqueline,
mặc cho một người khách Tây phương
đang vẫy tay gọi xe bên kia đường. Anh
sốt ruột chờ, đốt hết điếu
thuốc này đến điếu thuốc khác,
thỉnh thoảng thọc tay vào túi quần để
yên trí tờ giấy bạc một trăm đô
vẫn c̣n nằm trong đó. Chín giờ đă
tới. Rồi chín giờ mười phút. Chín
giờ mười lăm phút. Không thấy bóng dáng
Jacqueline đâu cả. Chín giờ hai mươi phút. Tân
thấy anh bảo vệ khách sạn hôm qua bước
lại phía anh. Chẳng lẽ tên này gặp ḿnh
kiếm cớ gây sự để đoạt tờ
giấy một trăm đô? Tiền bạc làm con người
mờ mắt dễ trở thành bất lương.
Anh bảo vệ khách sạn tới bên Tân dừng
lại và hỏi vẫn giọng hách dịch: Tân
gật. Anh ta đưa Tân một mảnh giấy: Thư
là một mảnh giấy nhỏ có in tiêu đề
khách sạn. Jacqueline viết bằng tiếng Anh: Cô
kư tên một chữ tắt “J”. 2 Chị
chủ nhà vẫn cười cười nói: Tân
sửng sốt: “Quà ở Mỹ gửi? Lạ
nhỉ?” Từ ngày ra tù về Tân chưa hề
nhận được một lá thư nào từ
ngoại quốc gửi về, nói chi đến
việc nhận quà! Anh có nghe tin cánh Không Quân bên
Mỹ tổ chức quyên góp tiền bạc cứu
trợ, nhưng chưa tới tay anh. Có lẽ v́ anh chưa
liên lạc được với họ. Tân khấp
khởi mừng thầm yên trí đây là quà của
“các bạn ta” gửi. Anh cầm tờ giấy báo
tin vui bước vào nhà đến bên ngọn đèn
điện vàng vọt yếu ớt. Chị chủ nhà
bước theo sau luôn miệng hỏi: Bỗng
Tân đưa tay trái đặt lên ngực. Tim anh
đập nhanh, dồn dập. Anh coi lại tờ
giấy báo tin lần nữa Thật bất ngờ ngoài
cả sức tưởng tượng của Tân. Người
gửi quà là Jacqueline. Số quà nặng tới hai mươi
kư. Ngày hôm sau Tân phải chạy vạy mới mượn
được đủ tiền dự phỏng để
đóng thuế. Tất nhiên trong số tiền này có
cả tiền của chị chủ nhà. Chị cứ
luôn miệng lẩm bẩm: 3 Tân
thân mến, Khi
nhận được thư này tôi hy vọng Tân
đă nhận được gói quà tôi gửi.
Chắc Tân ngạc nhiên lắm? Những quần áo,
vật dụng, radio, cassette không phải của ḿnh tôi
đâu mà c̣n là của một số bạn bè phi công
cùng khóa với Tân gửi đấy! Khi ở Hà
Nội về nước, tôi liền liên lạc ngay
với Trung Tâm Huấn Luyện Fort Worth ở Dallas nên
có được một số địa chỉ các
bạn đồng khóa với Tân. Biết tin anh
họ mừng lắm. Sau khi nghe tôi kể hiện
cảnh của anh, họ buồn rầu khổ sở
và tức tốc hè nhau góp gửi cho anh một số
tiền cũng như vật dụng quần áo.
Về tiền được hơn một ngàn đô.
Tôi đang t́m cách gửi sao cho sớm đến tay
anh mà không bị mất. Tôi mong anh sẽ hài ḷng
về số quà tặng “đó là những tấm ḷng
của bạn bè” chứ không phải “sự thương
hại hay bố thí” như một lần anh đă
hiểu lầm. Sở dĩ chúng tôi gửi tiền và
mua những món đồ cho anh là do một người
bạn Việt Nam chỉ dẫn. Anh ta bảo những
thứ này ở Việt Nam đang bán được
giá cao. Bây giờ tôi xin nói một chút về tôi
chắc anh sẵn ḷng nghe? Tôi đến Việt Nam không
phải để du lịch. Tôi đến Việt Nam
với mục đích duy nhất t́m kiếm tung tích
chồng tôi. Chồng tôi chính là Đại Úy Phi Công
Edward Carter thuộc Lực Lượng Hải Quân Hoa
Kỳ, người học cùng khóa và là bạn thân
của anh.” Coi
tới đây Tân ngừng lại. Bất ngờ quá!
Anh cố h́nh dung lại người bạn phi công cùng
khóa Edward Carter. Sau khi măn khóa về nước, Tân có
thư từ qua lại với anh ta, nhưng chỉ
được hai năm sau đó mất liên lạc.
Anh nhớ mang máng là Edward Carter được thuyên
chuyển tới Đệ Thất Hạm Đội
ở Thái B́nh Dương. Lúc học ở Mỹ, Tân
và Edward Carter có nhiều kỷ niệm, nhất là
những buổi cuối tuần được
nghỉ đi kiếm bồ bịch, mải vui quá ngày
phép, hai người bị kỷ luật. Tân thở dài.
Mới đó đă mười mấy năm trôi qua.
Tân coi tiếp thư: “Trong
một phi vụ oanh tạc vùng Thanh Hóa, máy bay của
chồng tôi bị bắn hạ. Anh được báo
cáo mất tích.” Tân lại ngưng coi và đặt
lá thư xuống cái bàn gỗ nhỏ cũ kỹ
đặt nơi đầu giường. Anh chống
tay lên cằm, suy nghĩ trong xúc động. Edward
bị bắt sống hay bị chết? Nếu bị
bắt sống th́ nhất định Jacqueline đă
biết tin, v́ tất cả tù binh Mỹ đều
bị nhốt trong “khách sạn Hilton ” ở Hà
Nội. Tân cầm thư coi tiếp: “Tôi
không tin thông báo của chính phủ. Bản danh sách quân
nhân Mỹ mất tích c̣n quá dài. Tôi phải tự
đi t́m chồng tôi v́ tôi tin chồng tôi chưa
chết. Chúng tôi mới lập gia đ́nh có một
đứa con gái. Khi chồng tôi mất tích nó
được hai tuổi. Tôi
đến Việt Nam lần vừa rồi là lần
thứ hai. Lần trước tôi đến Hà
Nội và đi nhiều nơi, kể cả Thanh Hóa.
Mất hơn một tháng chẳng kiếm được
tin tức ǵ. Một người bạn viết thư
cho tôi biết ở Saigon có một “tuy-ô” cung
cấp người Mỹ mất tích rất đáng
tin cậy. Thế là chẳng cần đắn đo
suy nghĩ, tôi vội vă book vé bay sang Việt Nam
liền. Tôi đă bị lừa nhưng được
gặp anh. Đúng như người bạn Mỹ
của anh nhận xét. Nếu cái mũi cao thêm một
chút, dài thêm một chút, và nước da trắng th́
anh đúng là bản sao của chồng tôi. Sao lại
có thể có hai người giống nhau như thế
và sao lại có sự t́nh cờ gặp gỡ
giữa tôi và anh như thế nhỉ? Hôm đầu
tiên ngồi trên chiếc xích lô của anh, tôi ngoái
lại nh́n anh, không khỏi giật ḿnh sửng
sốt. Suưt chút nữa th́ tôi kêu tên chồng. Anh có
biết không, trong lúc liên lạc với Trung Tâm
Huấn Luyện Fort Worth tôi mới biết thêm anh là
người đạt số điểm cao nhất
ở khóa đó. Ông chỉ huy trưởng Trung Tâm
Huấn Luyện già đă về hưu vẫn c̣n
nhớ tới anh và không ngớt lời ca ngợi anh
một thanh niên thông minh giầu nghị lực,
một phi công đầy triển vọng tài ba. Nói
để anh mừng nhé. Các bạn người
Mỹ của anh đang vận động với chính
phủ can thiệp cho anh sang Mỹ định cư
đấy. Công việc này tất nhiên rất khó khăn
và nhiều trở ngại, nhưng ai có quyền
cấm người ta hy vọng nhỉ, có phải
thế không? Từ nay tôi sẽ liên lạc thường
xuyên với anh qua thư từ. Anh cần những ǵ
có thể cho tôi biết để tôi và các bạn
anh cố gắng giúp. Dưới đây là một
số địa chỉ các bạn cùng khóa với
anh. Anh nhớ viết thư cho họ nhé. Có mấy người
mang cấp bậc Đại Tá rồi đấy.
Họ sẽ có thư cho anh, nếu không có ǵ trở
ngại về phía anh. Chúc
anh vui khỏe.
Ít
ngày sau, đúng như thư Jacqueline viết, có
một người lạ đem đến cho Tân hơn
một ngàn đô. Tân cầm số tiền trong tay mà
vẫn ngỡ như ḿnh nằm chiêm bao. Anh không nén
được xúc động, tay cầm cây bút run run
khi viết mấy chữ biên nhận tiền. Rồi
anh thấy đôi mắt ḿnh cay cay... Anh đă không
cầm được nước mắt. Đêm đó
Tâm nằm mơ thấy ḿnh chở Jacqueline trên xe xích
lô. Tới một quăng vắng vẻ Jacqueline bảo
anh ngừng xe lại rồi nàng rời khỏi xe,
bất thần ôm chầm lấy anh hôn thắm
thiết. Khi Tân giật ḿnh thức giấc anh cảm
thấy như mùi nước hoa, mùi da thịt của
nàng c̣n phảng phất đâu đây. 4 Có
được số tiền “ngoại viện” Tân
đem một nửa “phân phối” cho bố mẹ
vợ, bạn bè và cả chị chủ nhà. Riêng cô
con gái Tân dẫn đi may một lúc mấy bộ
quần áo và mua cho chiếc xe đạp để
đi học. Tân viết thư gửi Jacqueline bầy
tỏ ḷng biết ơn. Với các bạn bè người
Mỹ cũng vậy. Và cứ thế mỗi tháng Tân
nhận được một lá thư của Jaqueline
cùng một số tiền hoặc hàng hóa, có lần có
cả đồ hộp thức ăn, sữa. Tạm
thời qua cơn bĩ cực nhưng Tân vẫn không
chịu rời chiếc xích lô. Hàng ngày anh vẫn
đạp xe ra phố, không phải để chở
khách như trước mà là phương tiện
để anh đi đó đây thăm bạn bè
ăn nhậu. Thỉnh thoảng anh đạp xe
tới góc phố Lê Lợi - Tự Do tưởng
nhớ tới Jacqueline và những ngày đầu
gặp gỡ. Đôi mắt xanh biếc và mái tóc vàng
óng ả chẩy dài xuống lưng của Jacqueline h́nh
như lúc nào cũng hiển hiện trước
mắt Tân. Có lư nào cô nàng yêu ḿnh? Tân băn khoăn,
thắc mắc, khắc khoải măi với câu hỏi
này. Và đôi lúc anh thấy nhoi nhói nơi tim khi nghĩ
rằng chẳng qua cô nàng thương hại ḿnh thôi.
Trong những lá thư gửi Jacqueline, Tân đă bóng
gió viết về t́nh cảm của ḿnh đối
với nàng, nhưng có lẽ nàng không hiểu sự
tế nhị này của người Á Đông. Trong thư
hồi âm, Jacqueline vẫn viết nhiều về
những ngày ở Việt Nam và hỏi Tân về
lịch sử, phong tục, tập quán, phong cảnh và
những món ăn của người Việt. Rồi
cô hỏi Tân thích nhất món ăn ǵ của Mỹ và
nếu được sang Mỹ định cư thích
sống ở đâu. Mỗi lần nhận được
thư Jacqueline là buổi tối hôm đó Tân nằm
mơ thấy ḿnh sống trên đất Mỹ. Lúc th́
lái máy bay, có lúc th́ đi hộp đêm với
bạn bè người Mỹ nhẩy đầm
nhậu nhẹt say khướt. Nhưng nhiều
nhất vẫn vẫn là mơ thấy sóng đôi
với Jacqueline, hết đi ngắm tuyết ở vùng
đồi trắng xóa miền Đông, tới shopping
ở các chợ miền Nam Cali nắng ấm. Khi
thức giấc Tân thấy tiếc và muốn giấc
mơ cứ thế kéo dài măi. Măi
Tân mới kiếm được một việc tương
đối “độc lập tự do” và hợp
với “khả năng” của đa số tù
cải tạo về: đạp xích lô. Tuy “lao động”
vất vả cực nhọc lại không ”vinh quang”
chút nào Tân cũng kiếm được đủ ngày
hai bữa ăn và thuê một cái buồng nhỏ trong
xóm nhà lá để đêm về có chỗ ngủ. Hôm
nào chạy được khá tiền một chút, anh
mời cả gia đ́nh bố mẹ vợ và cô con gái
đi làm một chầu phở b́nh dân. Cuộc
sống khó khăn chật vật nhưng Tân vẫn
lấy làm hài ḷng v́ dù sao vẫn c̣n hơn gấp trăm
lần trong trại tù cải tạo, có làm không có
ăn. Tân cho rằng khi con người đă trải
qua cuộc sống trong tù cải tạo của
cộng sản rồi th́ tất cả mọi sự
trên cơi đời này đều... nhẹ như lông
hồng! Buổi
sáng hôm đó Tân sửa soạn đạp xích lô
đi “tiếu ngạo giang hồ” có một anh công
an t́m gặp. Anh ta trố mắt ngạc nhiên khi
thấy người ḿnh đi t́m gặp lại là
một anh đạp xích lô. Anh ta hỏi đi hỏi
lại măi có đúng tên là Đỗ Tân không rồi
mới cho biết lư do. Có ông dân biểu Mỹ
muốn gặp. Tân choáng người. Một dân
biểu Mỹ muốn gặp anh? Rồi trực giác bén
nhậy của Tân cho biết đây là một tin lành.
Tân đạp xích lô theo anh công an đến khách
sạn Đại Lục nơi trước đây
Jacqueline ở. Mọi người làm trong khách sạn
đều nh́n Tân với cặp mắt nghi ngờ và
kiêng nể. Th́ ra ông dân biểu Mỹ là cựu phi công
học cùng khóa với Tân. Máy bay của ông bị
bắn trong một phi vụ oanh tạc miền Bắc
và bị nhốt “khách sạn Hilton ” hơn năm năm
th́ được thả. Về Mỹ ông ứng
cử và đắc cử dân biểu. Jacqueline đă
gặp ông tŕnh bầy hoàn cảnh Tân và nhờ ông
can thiệp với chính phủ cộng sản Việt
Nam. Ông sang đây với một phái đoàn bàn
thảo chương tŕnh viện trợ nhân đạo
cho Việt Nam, trong đó có “chút việc riêng tư”
là can thiệp cho Tân sang Mỹ định cư. Trước
khi gặp nhà chức trách, ông muốn gặp Tân
để “nhận diện” người bạn
đồng khóa năm xưa. 5 Sau
khi chia tay anh ở phi trường Tân Sơn Nhất.
thấm thoát thế mà đă hơn ba tháng trôi qua.
Sở dĩ hôm nay mới viết thư cho anh v́ khi
đặt chân tới đất Mỹ, khỏi
kể nhiều anh cũng thừa biết là tôi
bận lắm. Sau khi nghỉ ngơi cho tỉnh người,
đồng thời cũng là để gột
sạch “bụi bậm xă hội chủ nghĩa” (c̣n
bám chút đỉnh nơi thân thể), tôi và Jacqueline
lo tổ chức lễ cưới. Rồi chúng tôi
đi Washington DC tới bức tường đá đen
ghi tên các chiến sĩ Hoa Kỳ hy sinh trong cuộc
chiến Việt Nam.Chúng tôi dành ít phút cúi đầu
tưởng niệm dưới hàng chữ ghi tên
Carter.Sau đó chúng tôi đi hưởng tuần trăng
mật ở Honolulu. Tiếp theo chúng tôi đi thăm
chỗ tôi học lái máy bay năm xưa ở hai bang
Lousiana, Texas và các bạn phi công cùng khóa. Ông bạn
cựu phi công đương kim dân biểu đă
giới thiệu cho tôi một job hợp với
khả năng: lái máy bay cho một đồn điền.
C̣n Jacqueline vẫn tiếp tục nghề cũ y tá
bệnh viện. Con gái tôi được Jacqueline và
con gái cô quư mến lắm. Hai đứa ngoài giờ
học cứ quấn quưt bên nhau như hai chị em
ruột. Như anh biết đấy, khi ra đi tôi
đă mang theo chiếc xích lô mà tôi phải mua lại
với một giá mắc người chủ mới
chịu bán. Cứ chủ nhật hoặc những ngày
nghỉ lễ, tôi đạp xích lô chở Jacqueline và
hai đứa nhỏ chạy ḷng ṿng trên các
đường nhỏ trong thành phố. Đây là
một chiếc xe độc đáo duy nhất có
ở thành phố này, nên đạp tới đâu cũng
được người Mỹ vui vẻ ngắm nghía
và trầm trồ giơ tay chào. Có nhiều người
bắt tôi xuống xe để cho họ đạp
thử và suưt nữa th́ làm lật cả xe. Lâu
dần người Mỹ quen mắt với chiếc
xe xích lô của tôi. Chúng tôi đặt chiếc xích
lô ngay trong pḥng khách. Nhờ nó, tôi và Jacqueline thành
duyên chồng vợ nên chúng tôi vô cùng quư và trân
trọng giữ ǵn nó. Hiện
tại chúng tôi đang sống tràn trề hạnh phúc.
Mùa xuân của cuộc đời tuy đến
muộn nhưng chúng tôi bằng ḷng lắm với
những ǵ ḿnh đang có, đang sống. Thiên
đường có thật anh Hoàng ạ! Và chúng tôi
đang tắm trong suối nguồn tươi mát
của Thiên Đường. Xin
chúc anh và gia đ́nh mọi điều tốt đẹp.
Thỉnh thoảng rảnh rỗi anh nhớ viết thư
cho tôi nhé. Quư
mến, Thanh Thương Hoàng |
|