Chuyện cổ tích trên đỉnh mồ côi Vơ Đắc Danh |
Chuyện
cổ tích trên đỉnh mồ côi (1) Bà
Vơ Thị Ba, bảy mươi tuổi, tóc trắng như
một bà Tiên; con trai bà, anh Nguyễn Tấn Bông, 42
tuổi, người gân guốc, đen sạm và
mạnh khoẻ như anh tiều phu; mười một
đứa trẻ, chín trai, hai gái, đứa lớn năm
tuổi, đứa nhỏ nhất một tuổi, đứa
nào cũng trắng trẻo, khôi ngô như những thiên
thần.
Đó
là một gia đ́nh sống trên đỉnh Mồ Côi
hoang vắng, thuộc quần thể Núi Cấm,
giữa vùng núi Thất Sơn, An Giang. Người ta cho
rằng đó là một gia đ́nh lạ, có một không
hai trên đất nước nầy, nếu không
muốn nói là có một không hai trên thế gian. D́
Ba kể rằng, quê d́ ở B́nh Thủy, Cần Thơ.
Ngày xưa d́ từng là chủ xe đ̣. Năm 1980, có
lần d́ theo xe đưa nghĩa vụ quân sự qua
Thất Sơn, bỗng dưng d́ mê núi. Từ đó,
thỉnh thoảng là d́ "đi núi", không phải
viếng chùa cúng miễu ǵ cả, d́ không theo đạo
nào, nhưng trong nhà d́, đạo nào d́ cũng
thờ, thờ chung một bàn, không sợ họ
"nghịch" nhau. D́
nói, tôi không học giáo lư của tôn giáo nào cả, nhưng
tôi thờ tất cả v́ đạo nào cuối cùng cũng
là hướng thiện, mà con người luôn cần có
cái tâm. Trở lại chuyện đi núi, d́ nói không
hiểu sau mỗi lần đi là không muốn quay
về. Núi Cấm hồi ấy hùng vĩ, mênh mông,
hoang vu và cô tịch. Vậy mà d́ cảm thấy mê.
Từ
chân núi lên tới đỉnh Mồ Côi, hồi ấy
không có đường xe, chỉ có con đường
ṃn len lỏi theo con suối Thanh Long. Độ cao
của Núi Cấm chỉ trên dưới bảy trăm
mét nhưng đường lên đỉnh quanh co
gần mười cây số, lên xuống nhiều con
dốc, lởm chởm đất đá, đầy nguy
hiểm, nhọc nhằn. Cách một hai cây số
mới có một ngôi nhà. Rừng núi hoang vu buồn
đứt ruột.Vậy mà má tôi kiên quyết ở
đây". Hỏi,
lúc mới lên sống bằng ǵ ? Anh Bông nói, cái may
mắn của anh là, từ chiến trường
Campuchia vừa xuất ngũ trở về, đôi chân
và cả phần tâm linh c̣n quen với núi rừng bên
ấy. Ban đầu, anh đi gánh mướn các
loại đồ rẫy cho những gia đ́nh trên núi.
Nào su, nào chuối, nào xoài, nào mít, nào măng . . .,
mỗi gánh bảy mươi kư, mỗi kư hai trăm
đồng, mỗi ngày anh gánh hai chuyến từ đỉnh
xuống chân núi, có khi chuyến lên gánh thêm gạo, cát,
đá, xi măng, gạch ngói. Bông vừa gánh thuê,
vừa học nghề làm rẫy. Mấy năm sau, ba
mẫu đất của anh đă thành một khu vườn.
Từ đó Bông không c̣n đi gánh hàng thuê nữa mà
gánh thành quả của chính ḿnh. Cứ ba ngày đi
một chuyến, mỗi chuyến kiếm ba bốn trăm
ngàn. Thấy anh làm giỏi, chi cục kiểm lâm giao
cho anh quản lư thêm 12 mẫu, cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất năm mươi
năm. Mười
năm sau kể từ ngày lên Núi Cấm, "chàng
tiều phu" Nguyễn Tấn Bông đă tích lũy
được vài chục cây vàng. D́ Ba giục anh
đi cưới vợ. Tuổi đă sắp bốn mươi
rồi. Bông cũng từng ước mơ trong căn
nhà có thêm người phụ nữ, có tiếng cười
tiếng khóc của trẻ thơ. Nhiều lúc trong chiêm
bao, Bông thấy thấp thoáng một người vợ
trẻ, tay ẳm con đứng chờ anh sau mỗi
chuyến đi rừng. Nhưng người phụ
nữ ấy là ai ? Mười năm sống ở
đây, Bông chưa hề quen được một người
bạn gái. Thế
rồi bỗng dưng năm năm qua, ông trời cho Bông
liên tục mười hai đứa con, mười trai
hai gái, thành một bầy trẻ trong nhà. Câu chuyện
như một huyền thoại lan truyền khắp
rừng núi Thất Sơn. Và, qua mỗi ngọn núi, nó
được thêu dệt thêm đôi chút. Khi
chúng tôi lần ṃ lên tận đỉnh Mồ Côi,
chứng kiến tận mắt, nghe kể tận tai
mới biết rơ ngọn nguồn sự thật. Năm
2002, d́ Ba với anh Bông về Cần Thơ thăm
đứa cháu gái trong bệnh viện đa khoa. T́nh
cờ, d́ nghe được câu chuyện khá thương
tâm: có một thai phụ nghèo không có tiền nhập
viện, chị ôm bụng ngồi khóc quằn quại
trên ghế đá trước sân khoa sản. Anh Bông
đưa d́ Ba vào thăm, cho tiền và làm thủ
tục cho chị ta nhập viện với tấm ḷng
thành, giúp người vượt cạn trong cảnh
nghèo khó neo đơn. Sau khi thằng bé ra đời, người
sản phụ kia quỳ lạy tạ ơn và nói ra
sự thật: "Cháu ở trong quê, chồng chết,
nhà nghèo phải đi làm phụ hồ để nuôi
một đứa con. Nhưng v́ nhẹ dạ nên cháu
bị tay thợ hồ lường gạt. Giờ
nếu ẳm con về th́ không biết lấy ǵ nuôi .
. .". "Đây là năm chỉ vàng, đây là tám
trăm ngàn, tôi giúp cô làm vốn mua bán kiếm
sống. C̣n thằng bé, tôi mang nó về đỉnh
Mồ Côi trên Núi Cấm. Sau nầy nếu cô muốn
nhận con th́ cứ lên đó, tôi giao lại. Điện
thoại của tôi là 0986544323". Trước
khi ẵm thằng bé ra về, d́ Ba để lại
số điện thoại cho các bác sĩ và hộ lư
của khoa sản cùng với lời căn dặn:
"Từ nay về sau, nếu có trường hợp tương
tự như vậy, các cô gọi điện cho mẹ
con tôi. Trước hết là ḿnh giúp người ta
mẹ tṛn con vuông, sau đó, nếu người ta v́ lư
do ǵ mà không nuôi được th́ ḿnh đem về nuôi
giúp". Câu
chuyện bắt đầu là như vậy. Mỗi
lần nghe điện thoại từ bệnh viện
đa khoa, anh Bông, dù đang cuốc đất trồng
khoai giữa rừng sâu cũng bỏ việc chạy
về. Gọi đứa cháu qua giữ nhà, hai mẹ
con lăn xăn xuống núi. Từ chân núi đi xe lôi
qua thị trấn Tịnh Biên, từ Tịnh Biên đi
xe đ̣ lên Long Xuyên, rồi từ Long Xuyên lại
đi xe đ̣ qua Cần Thơ, từ bến xe Cần
Thơ đi xe lôi vô bệnh viện, một cuộc hành
tŕnh không đơn giản để làm một công
việc độc nhất vô nhị trên đời.
Cứ thế, sau mỗi cú điện thoại: "Em
ở khoa sản, bệnh viện đa khoa cần Thơ
,. . ." là trong nhà anh Bông thêm một tiếng khóc
trẻ sơ sinh. Anh Bông vừa cười vừa nói:
"Trời khiến thế nào mấy ông ạ, năm
2005, tôi ẵm về năm đứa, mà năm ấy
má tôi lại bệnh. Ôi trời đất ôi,
khuấy sữa, thay tă, tắm rửa, ca hát suốt ngày.
Lại phải lên rừng hái măng, hai su gánh
xuống núi, rồi mua tă giấy, mua sữa gánh lên. Nhưng
vậy mà vui, đứa nào đứa nấy bụ
bẫm ngon lành, không bệnh hoạn ǵ hết." Anh
Bông kéo đám trẻ vào ḷng, vừa xoa đầu,
vừa kể về hoàn cảnh ra đời của
từng đứa một: "Đây là thằng
Nguyễn Sơn Giàu, đứa đầu tiên con
của chị phụ hồ đây, nó đẻ
bọc điều đó, thằng nầy không thành
tỷ phú th́ cũng làm quan. C̣n đây là thằng
Nguyễn Sơn Thanh, đẻ được hai ngày th́
mắc bệnh phổi. Tôi với má tôi lên giúp
một triệu đồng, nhưng không ngờ mẹ
nó cầm một triệu đồng rồi bỏ
trốn. Thằng nhỏ mới hai ngày tuổi mà
phải thở oxy, ngậm ống sữa và truyền nước
biển. Tôi với má tôi phải ở lại bệnh
viện nuôi nó hai mươi ngày. Khi ẵm nó về, bác
sĩ dặn mỗi tháng phải lên tái khám. Nhưng năm
năm nay có tái khám lần nào đâu, mà nó cứ sân
sẩn. C̣n đây là thằng Nguyễn Sơn Hà,
mẹ nó là một cô gái nghèo đi mót lúa ở
Vị Thanh, phải ḷng một thằng chăn vịt,
mang thai lúc mới mười bảy tuổi, sợ
bị phát hiện nên dùng dây thun nịt bụng
rồi trốn sang ở nhà bà ngoại. Khi chúng tôi
đến bệnh viện th́ nghe nói nó bị đứt
tim thai, phải mổ bỏ con để cứu mẹ.
Nhưng không ngờ nó được cứu sống. Nó
sống, nhưng mẹ nó không dám mang nó về nhà . . . Mười
hai đứa trẻ trong căn nhà nầy là mười
hai câu chuyện khác nhau, nhưng đều giống nhau
ở chổ, chúng là sản phẩm của những
cuộc t́nh vụn trộm từ trong nhà trọ đến
màn trời chiếu đất ngoài đồng. Anh Bông
kết thúc câu chuyện thứ mười hai bằng
một nỗi buồn: "Nó là Nguyễn Sơn Thành,
đang nằm trên núi. Khi tôi với má tôi đến
th́ mẹ nó đă bỏ đi, nó nằm trong pḥng
cấp cứu suốt hai mươi ngày với
chứng bệnh năo úng thủy, một chứng
bệnh ngặt nghèo. Tôi với má tôi rất đắn
đo, cuối cùng th́ không thể quay lưng trước
một hài nhi vô tội. Nhưng suốt ba tháng,
thằng bé cứ khóc ngày khóc đêm, đầu to
dần, mắt đờ đẩn. Tôi ẵm nó
trở lại bệnh viện, nơi nó cất
tiếng khóc chào đời, bác sĩ nói ở đây
không có khả năng điều trị, tôi đưa
nó lên bênh viện nhi đồng II, người ta nói
phải phẫu thuật để đặt ống
dẫn, sẽ rất tốn tiền nhưng không
khả thi. Và đúng là như vậy, tôi đă bán
miếng đất lấy mấy chục triệu đồng
để mong nó sống, nhưng hơn hai năm sau th́
nó đă ra đi". Qua
câu chuyện buồn ấy, Bông lại ôm mấy đứa
nhỏ vào ḷng: "Tôi c̣n mười một đứa,
chín trai, hai gái. Nhưng năm rồi, nhỏ em ở
Cần Thơ lên chơi, thấy bé Cẩm Như đẹp
quá, nó nói cho mượn về chơi mấy tháng, nói
vậy rồi nó giựt luôn không trả, giờ con
nhỏ đang học mẫu giáo ở dưới, lâu
lâu gọi điện lên than nhớ cha, nhớ nội
nhưng cô Út không cho về". Sau mỗi câu nói như
vậy là một tràng cười, tiếng cười
nắc nẻ, hồn nhiên. Tôi hỏi anh định bao
giờ cưới vợ, Bông lại cười:
"Một bầy con như thế nầy, ai dám ưng
tôi mới nể. Nói th́ nói vậy thôi, chớ tôi
biết chắc, giả dụ người ta có ưng ḿnh
đi chăng nữa th́ làm sao người ta có thể
thương con ḿnh như ḿnh được. Tụi nó
đă khổ từ trong bào thai rồi, tôi không
muốn tụi nó phải khổ v́ mẹ ghẻ". Hỏi
anh có định nuôi thêm nữa không, Bông trầm ngâm:
"Má tôi năm nay bệnh nhiều quá, sắp gần
đất xa trời rồi. Tôi muốn dành thời
gian cho má". Hỏi, chuyện học hành của
mấy đứa nhỏ, anh tính sao. Bông lại
trầm ngâm: "Thằng Sơn Ngọc năm nay
lẽ ra phải lên lớp lá, thằng Sơn Thanh
phải là lớp chồi, thằng Sơn Giàu phải là
lớp mầm. Nhưng đây là đỉnh núi.
Hồi ẵm chúng nó lên đây, ḿnh cứ nghĩ
cứu sống một hài nhi, không để chúng nó lăn
lóc ở vỉa hè hay đầu đường xoá
chợ. Nhưng bây giờ, nh́n mặt mày đứa nào
đứa nấy sáng sủa, khôi ngô, những ánh
mắt cứ như luôn nói với ḿnh rằng, cha
đừng để cho con dốt. Tôi đă tâm
nguyện phải cho chúng nó học tới cùng. Tiền
bạc th́ tôi không lo, trước mắt, nguồn
lợi từ mười lăm mẫu đất cũng
đủ để trang trải, sau nầy, khi chúng nó
học lên cao th́ ḿnh bán đất. Nhưng, cái khó là
chỗ ở. Thằng Sơn Ngọc năm tới
sẽ tạm thời gởi cho nhỏ em ở Cần
Thơ. Nhưng không thể gởi hết cả mười
đứa. C̣n mua nhà ở dưới đó th́ ai chăm
sóc, mà tôi đi th́ ai ở đây lo vườn tược,
cây trái cho ḿnh. Càng nghĩ càng thấy rối . . ." Thưa
bạn đọc ! Câu
chuyện cổ tích trên đỉnh Mồ Côi xin
tạm dừng ở đây, bởi người kể
chuyện chưa trả lời được câu
hỏi sau cùng rằng: Khi bà Tiên qua đời, anh
tiều phu có lo cho những thiên thần bé nhỏ
ấy học hành đỗ đạt hay không.
Những câu chuyện cổ tích bao giờ cũng đi
đến một kết thúc có hậu. Nhưng dân gian
thường hay lư giải sự bế tắt bằng
những phép màu. Và tôi hy vọng trong câu chuyện
nầy, sẽ có một phép màu nào đó đến
với anh Bông. Phép màu ấy chính là cái tâm, ḷng nhân
ái đang ẩn chứa đâu đây, trên cơi đời
nầy. Sài
G̣n năm 2007 *** Truyện
ngắn cuối tuần - Chuyện cổ tích trên đỉnh
mồ côi (2) Vơ
Đắc Danh Kể
xong câu chuyện "Cổ Tích Trên Đỉnh Mồ Côi",
tôi vẫn c̣n ray rứt trước hai câu hỏi không
t́m ra lời đáp: Thứ nhất, liệu anh Bông có
lấy vợ được không ở cái tuổi
bốn lăm ? Người phụ nữ, dù có rộng
lượng đến đâu cũng không thể ưng
một người chồng đang nuôi 11 đứa con
nheo nhóc. Thứ hai, chuyện học hành của 11 đứa
trẻ ấy rồi sẽ ra sao giữa đỉnh núi
cao hoang vu, heo hút, đường đến trường
quanh co, năm ba cây số, dốc núi dựng đứng,
trập trùng ? Tôi
đă gởi vào đoạn kết câu chuyện
một nỗi lo cùng với một niềm tin mong manh,
rằng : " Khi bà Tiên qua đời, liệu anh
tiều phu có lo cho những thiên thần bé nhỏ
ấy học hành đỗ đạt hay không ?
Những câu chuyện cổ tích bao giờ cũng đi
đến một kết thúc có hậu. Nhưng dân gian
thường hay lư giải sự bế tắt bằng
những phép màu. Và tôi hy vọng trong câu chuyện
nầy, sẽ có một phép màu nào đó đến
với anh Bông. Phép màu ấy chính là cái tâm, là ḷng nhân
ái đang ẩn chứa đâu đây, trên cơi đời
nầy". Và,
cái phép màu ấy đă đến với anh Bông và
những đứa trẻ mồ côi sau khi câu chuyện
được kể trên Sài G̣n Tiếp Thị. Một
buổi tối, D́ Ba gọi điện cho tôi, nói như
nửa đùa nửa thật: "Con biết không,
mấy ngày qua có nhiều cô từ miền Trung đến
miền Tây, rồi cả bên Mỹ gọi điện
cho thằng Bông để chia sẻ, bày tỏ t́nh
cảm, nhă ư muốn lên đây làm mẹ của
mấy đứa nhỏ, giờ con tính sao ?" Gần
một năm sau tôi trở lại Đỉnh Mồ Côi
th́ Câu Chuyện Cổ Tích đă có nhiều thay đổi
đến không ngờ. Con đường lên đỉnh
núi đă được tráng xi măng để xe
gắn máy dễ dàng lên xuống, anh Bông cho biết,
ngay tuần đầu sau khi câu chuyện được
lên báo, nhiều tổ chức, cá nhân đă mang
tiền lên giúp sức, kẽ ít người nhiều,
trước hết là giúp anh làm con đường bê
tông để giảm bớt nỗi nhọc nhằn khi
lên xuống núi. Mới đây, một nhóm thanh niên
gọi là nhóm chim c̣ gồm 36 người do dược
sĩ Trần Anh Tuấn dẫn đầu từ Đồng
Nai lên chơi , chở lên ba tấm nệm Kim Đan,
mấy thùng đồ chơi trẻ em và 14 triệu
đồng tặng cho đám trẻ.Có một câu
chuyện rất cảm động mà d́ Ba nói rằng
d́ sẽ giữ bí mật cho đến khi nào tôi
trở lại để d́ dành cho tôi một sự
ngạc nhiên. Hôm
ấy, có một chàng trai tên là Minh Triển từ
Mỹ trở về, một thân một ḿnh trèo lên
đỉnh núi, khi tới nơi, anh ôm những đứa
trẻ vào ḷng rồi bật khóc. Anh nói, đọc câu
chuyện trên mạng tưởng người ta hư
cấu, không ngờ sự thật là như vậy. Minh
Triển cũng không nói ǵ thêm, trước khi ra
về, anh gởi cho d́ Ba 300USD cùng với lời
hứa sẽ t́m cách giúp d́ với anh Bông lo cho mấy
đứa nhỏ học hành. Mấy
tuần sau, Triển gọi điện qua nói với d́
Ba: "Con xin phép được làm con nuôi của má, làm
em của anh Bông, làm chú của 11 đứa trẻ
để con được góp sức chăm lo cho
tụi nó". Th́ ra, trong chuyến đến thăm
lần ấy, Triển đă khảo sát dưới chân
núi Cấm có trường học dạy từ lớp
một đến lớp 12. Anh đề nghị anh Bông
xuống chân núi mua đất xây nhà cho các cháu có
chỗ ở gần trường để học hành,
công việc tiến hành tới đâu Triển gởi
tiền về tới đó. Đến
nay, ngôi nhà đă được hoàn tất, chiều
ngang 9 mét, chiều dài 20 mét, một trệt một
lầu, phía sau có 1.000 mét vuông đất vườn.
Anh Bông cho biết, Triển gởi về tổng
cộng 45.000USD. Ngôi nhà 360 mét vuông, mỗi đứa
một pḥng ngủ riêng, đó là ư tưởng
của Minh Triển vừa tập cho các cháu sinh
hoạt độc lập, vừa dự pḥng khi chúng
lớn lên có đủ không gian để sinh hoạt cá
nhân.
Minh
Triển là ai ? Tôi gởi lại địa chỉ mail
cho anh Bông với hy vọng sẽ liên lạc với con
người khá bí ẩn nầy. Anh
Bông lấy ra cho chúng tôi xem hơn mười lá thư
của các chị, các cô gởi về, không chỉ
từ mọi miền đất nước mà cả
những lá thư cách nửa ṿng trái đất.
Mỗi người kể một hoàn cảnh, một tâm
sự khác nhau. Nhưng thật đáng trân trọng v́
hầu hết những lá thư đều bày tỏ ḷng
trân trọng với anh Bông. Ai cũng muốn chung vai gánh
vác với anh một phần trách nhiệm. Một
chị ở Hà Nội tâm sự rằng, chị
lấy chồng gần năm năm nhưng không có
khả năng sinh con, bị chồng bỏ đi
lấy vợ khác, chị sống trong những ngày
tuyệt vọng th́ t́nh cờ đọc được
câu chuyện về anh, bỗng dưng chị khát khao
muốn được làm mẹ của những đứa
con anh, được bồng ẵm, được chăm
sóc chúng như con ruột của ḿnh. Một chị
ở Cali th́ đặt thẳng vấn đề
kết hôn với anh và bảo lănh cho những đứa
con anh du học. Tôi hỏi Bông tính sao, anh cười
hiền: "Ḿnh chẳng biết tính sao cả, đă
thề sống độc thân để nuôi tụi nó
rồi, giờ lấy vợ, liệu người ta có
thương tụi nó bằng ḿnh không, nói th́ nói
vậy chớ chạm vào thực tế mới
biết, không khéo sẽ đỗ vỡ hết, sẽ
nát bét hết . . ." * Năm
15 tuổi, Triển theo một chiếc tàu đánh cá ra
khơi và không ngờ rằng ḿnh đặt chân lên
đất Mỹ. Tuổi thơ lưu lạc, khao khát
t́nh thương. Khi lên tới Đỉnh Mồ Côi,
Triển như thấy bóng dáng thân phận ḿnh qua
từng đứa trẻ. Về Mỹ, anh quyết
định gom đến đồng bạc cuối cùng
của ḿnh dành dụm bao nhiêu năm để làm
một điều ǵ đó nhằm giảm bớt
nỗi bất hạnh cho những đứa trẻ
ấy, Triển cảm thấy như được bù
đắp cho những mất mát của chính tuổi thơ
ḿnh. * Em
mồ côi cha từ nhỏ, năm 15 tuổi, em theo
một chiếc ghe biển làm thuê kiếm tiền nuôi
mẹ và hai đứa em. Một hôm, em thấy lạ,
chiếc ghe cứ đi măi, đi măi không đánh cá mà
cũng không về, và em đă hiểu ra rằng họ
đi vượt biên. Cuộc đời em bắt đầu
sang trang từ đó. Những ngày đầu sống trên
đảo Bidong, em t́m đến xin việc ở
một ḷ bánh ḿ của một người Việt
tỵ nạn, người ta không nhận, em t́m gặp
ông chủ để năn nỉ:" Xin ông cho con
được làm công, không cần trả lương,
chỉ cần ông cho con mỗi ngày hai ổ bánh ḿ thôi".
Ông nhận em vào làm và được trả công
mỗi ngày hai ổ bánh ḿ. Được vài tháng em nói
với ông chủ: " Con muốn đi bán bánh ḿ nhưng
không có vốn, xin ông cho con lấy bánh trước,
chiều về con trả tiền". Ngày đầu em
lấy mười ổ đi bán trong các trại
tỵ nạn, ngày sau mười lăm ổ, rồi
hai mươi ổ . . . con số cứ tăng dần.
Không biết từ lúc nào, ông chủ ḷ bánh ḿ thương
em như con ruột. Một hôm ông gọi em đến
nói: " Tao được xét đi Úc rồi, cái ḷ bánh
ḿ có nhiều người mua nhưng tao không bán, tao
tặng lại cho mầy . . .". Những ngày trước
khi đi, ông chỉ dạy cho em cách làm bánh. Bỗng dưng
em trở thành ông chủ nhỏ như một giấc mơ.
Vài tháng sau em có tiền, em tiếp tục mua thêm
một ḷ bánh ḿ nữa của một người
được xét đi Mỹ. Khoảng sáu tháng sau, trên
đảo xảy ra sự cố: Một người
tỵ nạn say rượu nổi loạn bắn
chết một nhân viên của Cao ủy. Họ nỗi
giận, họ trừng phạt bằng cách cắt
trợ cấp lương thực. Hàng ngàn người
tỵ nạn rơi vào t́nh trạng đói khát. Lúc
ấy, hai ḷ bánh của em không kinh doanh nữa mà
chuyển sang cứu đói, mỗi ngày làm ra bao nhiêu bánh
ḿ em đem phát không cho họ. Nhiều người
mắng chửi em ngu dại, đây là thời cơ
hốt bạc mà không biết nắm bắt để
kinh doanh. Em nghĩ đă đến đây, đă lâm vào
t́nh cảnh nầy th́ ai sao ḿnh vậy. Bao nhiêu vốn
liếng em tiếp tục bỏ ra mua bột làm bánh
cứu đói đến đồng bạc cuối cùng,
đến hai ḷ bánh ḿ đóng cửa. Sau sáu tháng
trừng phạt, Cao ủy họ tiếp tục cứu
trợ lương thực cho người tỵ
nạn. Một người quen tới rủ em: "
Mầy có ḷ bánh, có nghề, tao có ít vốn, ḿnh
hợp tác làm ăn". Hai ḷ bánh ḿ hoạt động
trở lại cho đến ngày em đi Mỹ. Sang
Mỹ, em lại gặp một sự cố đáng
buồn. Lúc làm hồ sơ đi Mỹ, theo quy định
th́ những người dưới 18 tuổi phải có
người đỡ đầu, tối thiểu
phải là họ hàng thân thuộc, em nhờ một người
quen nhận em là cháu. Nhưng khi tới Mỹ th́
họ lấy hết tiền trợ cấp, mỗi
tuần chỉ đưa lại cho em 10USD. Em với
mấy người bạn Việt cùng cảnh ngộ
se pḥng trọ để đi học, đi nhặt rác
và đi giao báo để kiếm sống. Mỗi
tuần kiếm được năm bảy chục
đô, cứ lây lất như thế cho đến khi
vào đại học. Và, cuộc đời em sẽ không
biết ra sao nếu không có một "phép màu", em
cho rằng đó là một phép màu. Hôm
ấy một thằng bạn rủ em tới nhà cha nuôi
của nó chơi. Ông nầy là một người
Mỹ, trước đây là một tiểu thương
đă nghỉ hưu, sống độc thân và khá
giả, ông đă nhận bốn sinh viên Việt Nam làm
con nuôi. Sau cuộc gặp gỡ ấy, ông lại
nhận thêm em, là đứa con nuôi thứ năm.
Từ đó, thỉnh thoảng ông gọi em tới chơi,
làm thức ăn đăi em, rồi hỏi thăm,
dạy bảo. Dần dà, em cảm nhận ở ông
một t́nh cảm rất lạ, rất đầm
ấm, rất chân thành. Có hôm trời mưa, ông
gọi điện hỏi em đang ở đâu, em nói
đang ở ngoài đường. Giọng ông tỏ ra
lo lắng: " Tao đă bảo mầy trời mưa
không được ra ngoài !". Một
hôm ông gọi em tới và ôn tồn nói:" Tao
thấy mầy học ngành điện không ổn,
ở đây có nhiều kỹ sư điện
thất nghiệp, c̣n nếu có việc làm th́ cũng
chỉ đủ sống. Mầy nghỉ học đi,
mở cái công ty cắt cỏ, tao giúp cho". Ở
Mỹ, trừ khu trung tâm thành phố, mỗi nhà đều
bắt buộc phải có khu đất trồng cỏ,
nếu không trồng th́ bị phạt, c̣n trồng mà
hàng tháng không cắt theo quy cách cũng bị phạt.
Ông tư vấn cho em từ việc thành lập công ty,
cách quản lư, cách tiếp thị, quảng cáo . . . Dạo
quanh thành phố San Diego, thấy những chiếc xe bán
tải với mấy người Mễ chở máy móc
đi cắt cỏ cho các sân vườn, Triển nói công
nhân của em đó, rồi kể tiếp: Sau
chuyến về Việt Nam gặp anh Bông và những
đứa trẻ trên núi Cấm, em quyết định
chuyển toàn bộ số tiền trong tài khoản
về cho anh ấy mua đất và cất nhà dưới
chân núi. Nhưng rồi em nghĩ, đó chỉ là
việc khởi đầu cho một tương lai dài
đăng đẳng của mười một đứa
bé. Làm sao cho chúng học hành tới nơi tới
chốn, có một cuộc sống đàng hoàng, đó
là khát vọng lớn nhất của em. Em đem
chuyện ấy bàn với ba nuôi và ngỏ ư muốn
lập một hội từ thiện. Ông nói, trong
mấy đứa con nuôi, ngay từ đầu tao
thấy mầy là đứa có tấm ḷng, sống
phải biết v́ quê hương, v́ đồng bào
mầy ạ. Mầy lập hội từ thiện đi,
tao đứng ra giúp đỡ, mầy quyên góp
được một đồng, tao cho thêm một
đồng . . . Em cũng không ngờ, năm đầu
tiên em vận động được 37 ngàn USD,
ổng góp vô 37 ngàn nữa. Vậy là, ngoài việc chu
cấp cho mười một đứa con nuôi, số
tiền quỹ từ thiện hàng năm em mang về giúp
đỡ trẻ em nghèo các tỉnh. Một
hôm, ba nuôi gọi em đến, ông nói tao bây giờ già
rồi, không biết ra đi ngày nào, tao đă nhờ
luật sư làm di chúc, giao lại toàn bộ tài
sản và tiền bạc trong nhà băng cho mầy. Em
cầm tờ di chúc mà bủn rủn tay chân, số
tiền quá lớn, tài sản cũng quá lớn. Và
lớn lao hơn hết là tấm ḷng của một người
cha không cùng màu da sắc tộc. Tôi
hỏi Triển dự định thế nào với
tờ di chúc ấy, anh nói: Mong
muốn trước tiên của em là cho mười
một đứa con nuôi du học, tiếp theo, em
sẽ về quê xây thêm trại mồ côi theo cách làm
của anh Bông, tức là những đứa trẻ vô
thừa nhận khi vừa mới chào đời. Vơ Đắc Danh |