C |
Hộ
Tống Hạm Kỳ Ḥa HQ009
Tác
giả Hoàng Đ́nh Báu là Hạm Trưởng Hộ
Tống Hạm Kỳ Ḥa (HQ 09) trong giai đoạn
cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông
xuất thân Khóa 11 Trường Sĩ Quan Hải Quân Nha
Trang. Ông
hiện định cư tại Hoa Kỳ sau trên 10 năm
trong ngục tù Cộng Sản. *
* * * * Đầu
năm 1974 tôi được chỉ định đăm
nhận Hộ Tống Hạm Kỳ Hoà HQ 09. Suốt năm
đó HQ 09 có hai nhiệm vụ chính: Tuần tiểu vùng
Trường Sa và yểm trợ các giàn khoan dầu
cuả Hoa Kỳ ngoài khơi từ Vũng Tàu đến
Côn Đảo. Mổi chuyến công tác kéo dài 3 tháng nên
việc nghỉ bến để tiếp tế lương
thực, dầu và nước là Vũng Tàu, đôi lúc
cũng ghé Côn Sơn để nghỉ ngơi và
tiếp tế. Đến năm 1975 khi các tỉnh ở
Cao Nguyên Trung Phần bị lọt vào tay Cộng Quân.
Đầu tháng 2 th́ Huế và Quảng Trị bắt
đầu rối loạn, Sư Đ̣an 1 đóng tại
Huế đang được di tản vào Đà Nẳng.
Vào thời điểm này HQ 09 được lệnh
chuẩn bị ra công tác khẩn cho Vùng 1 Duyên Hải.
Đây được coi như là chuyến công tác
cuối cùng cuả HQ 09 mà hằng năm vào dịp
30.04 vẫn c̣n ghi đậm trong ḷng thủy thủ
đ̣an đă từng phục vụ trong những ngày
tháng cuối cùng đó. –
Sáng ngày 26.03.1975 chiến hạm khởi hành ra Vùng 1 Duyên
Hải. –
6:00 AM ngày 28.03.1975 chiến hạm tới cửa Sơn
Trà để chờ lệnh. Các
tin tức nhận được từ Bộ Tư
Lệnh Vùng 1 Duyên Hải và do dân chúng toả ra
bằng ghe cặp vào chiến hạm lúc sáng nay như
sau: Tối hôm qua Cộng Quân pháo kích vào BTL/HQ/V1DH
bằng hoả tiễn 122 ly và sơn pháo 130 ly, làm hư
hại chiếc trực thăng cuả Tư Lệnh
V1DH, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại. Toàn
thành phố bị thiết quân luật 24/24. Lính
của các Binh Chủng di chuyễn về Đà Nẳng quá
đông, không nơi ăn chốn ở, gia đ́nh ly tán.
Lợi dụng cơ hội nầy đặc công
Cộng Sản trà trộn để phá hoại nên có
nhiều tiếng súng và vài đám cháy nhỏ xăy ra
trong thị xă. Các đơn vị cơ giới
hạng nặng cùng các chiến xa, quân xa cuả Quân
Lực VNCH đă đậu dài từ cầu Trịnh
Minh Thế cho đến bờ biển Tiên Sa. Một vài
nhóm quân nhân đă uy hiếp 1 tầu Haỉ Quân,
buộc phải đưa họ tách bến. Nhưng
tầu này bất khiển dụng nên rất may là không
có ǵ đáng tiếc xăy ra. Với t́nh h́nh đó HQ 09
được lệnh không vào Đà Nẳng mà cũng không
cập cầu Tiên Sa. Chiến
hạm vận chuyễn với 2 máy tiến 1, chạy ḷng
ṿng ngoài cửa Đà Nẳng để chờ lệnh.
Chiến hạm quan sát thấy hàng trăm ghe tầu
đủ loại đang tiến ra biển; một
số ghe tiến về chiến hạm rồi cập vào
để đưa một số binh sỉ và thường
dân lên boong tầu. –
12:00 ngày 28.03.1975, chiến hạm nhận lệnh xuôi
về Qui Nhơn để đón Sư Đoàn 23 Bộ
Binh di tản. Trên đường đi, chiến
hạm cũng đă vớt nhiều đồng bào
từ Quảng Ngăi, Cù Lao Chàm và Cù Lao Ré. Phần đông
họ đi trên các ghe thúng hoặc ghe nhỏ. Chiều
hôm đó chúng tôi đă chứng kiến bao cảnh thương
tâm mà không sao cưú giúp
được. Đó là các đồng bào đang ở
trên xà lan do các tầu ḍng cuả hăng thầu RMK kéo
về Saig̣n. Tàu kéo th́ quá chậm, trên xà lan lại quá
đông người, lẫn lộn vơí nhiều binh
sĩ đầy đủ súng ống. Trời nóng như
đốt, không nước, không lương thực th́
chuyện rối loạn là điều không tránh
khỏi. Chiến hạm không thể đến gần
để giúp đở v́ lúc đó trên tàu cũng
đang đầy người, nếu đến
gần không biết chuyện ǵ sẽ xăy ra. Đành
bấm bụng cho tàu chạy lướt qua, để
lại đàng sau những tiếng la cầu cứu
lẫn tiếng súng. –
08:00 AM ngày 29.03.1975, đến Qui Nhơn, lúc bấy
giờ đă thấy hiện diện nhiều chiến
hạm gồm LSM, LST, WHEC, DER và rất nhiều tiểu
đỉnh cuả Vùng 2 Duyên Hải đang di tản,
một số quân nhân cuả Sư Đoàn 23 từ bờ
ra biển. Bải biển Qui Nhơn với băi cát vàng
được ôm ấp bởi hàng trăm cây dừa
xanh tươi, nay nh́n vào chỉ thấy lửa và khói. –
12:00 ngày 29.03.1975, chiến hạm được
lệnh tác xạ để phá hủy 3 bồn dầu
ở ngă ba quốc lộ 1 và đường vào
thị xă. Cùng vài chiến hạm bạn, sau gần nưả
giờ tác xạ, 3 bồn dầu đă bị phá
huỷ, khói đen cao ngất che phủ một góc
trời. –
4:00 PM Cùng ngày, chiến hạm được lệnh
về Nha trang. Đến 4 giờ sáng ngày hôm sau th́ tàu
đến Ḥn Pyramid, nằm ngoài khơi Nha trang. Tàu
tiếp tục xuống Ḥn Yến rồi Ḥn Dung để
chờ sáng sẽ vào Nha trang bằng ngỏ Cầu Đá
phiá bên Hải Học Viện. Trời sáng dần,
biển êm, gió nhẹ, chiến hạm bắt đầu
nhiệm sở tác chiến. Trên đài chỉ huy nh́n hướng
10 giờ là Ḥn Tre với đài kiểm báo trên đỉnh
như c̣n say ngủ. Bên hướng 3 giờ là con
đường Duy Tân với bao biệt thự xinh
đẹp cùng 1 dăy các Ky Ốt dọc theo bờ cát
trắng. Xa xa là Chụt, phi trường, quân trường
Hải Quân Nha trang. Xa hơn nữa là Xóm Bóng, Ḥn
Chồng, Đồng Đế. Tất cả đều
lần lượt thấy rỏ qua mắt thường.
Chiến hạm chạy từ từ, thận trọng,
quan sát. Có lúc chiến hạm chạy sát bờ
biển Nha trang đến nỗi có thể thấy rơ người
đi bộ. Đặt ống nḥm nh́n càng rơ hơn, toàn
người và người. Tuyệt nhiên không thấy
xe thiết giáp nào của Cộng Sản cả. Có vài
chiếc xe hơi rọi đèn pha ra phía biển, không
biết có c̣n ai ngồi trong đó. Lúc đi ngang qua khách
sạn lớn cuả thành phố, chiến hạm
thấy có nhiều người đang đứng trước
khách sạn này, có người lấy nón vẫy
cầu cưú. Từ Cầu Đá đến Xóm Bóng,
bờ biển Nha trang dài độ 6 cây số,
chiến hạm đi qua rồi ṿng trở lại
Cầu Đá. Quan sát kỹ nhưng chẳng thấy bóng dáng
T 54 như lời đồn đải lúc bấy
giờ. Thủy thủ đoàn làm việc ngày đêm,
ngoài việc đi phiên hải hành thường lệ,
họ c̣n giúp đỡ đồng bào lúc lên tàu.
Kiểm soát an ninh và trật tự v́ có nhiều binh sĩ
quá giang, nhiều đàn bà và trẻ em đang cần
sự giúp đở. Bận rộn nhất là nhân viên
nhà bếp, luôn luôn phải có cơm nóng và nước
uống cho đồng bào. Tôi c̣n nhớ tên một vài
người đă làm việc rất tích cực như
giám lộ Long và Thiếu Úy trọng pháo Dũng trong
chuyến công tác này. Ngày
hôm sau chiến hạm được lệnh tuần
tiểu ngoài khơi vùng biển Nha Trang. Chỉ thị
của Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh Tư Lệnh
V2 Duyên Hải kiêm Tư Lệnh tiền phương sau
khi mất Đà Nẵng là: Tuần tiểu và chận
bắt các tàu lạ xâm phạm hải phận Vùng 2
từ Nha Trang đến Cam Ranh. Vào lúc này, các tàu
lạ mang quốc tịch Trung Quốc và Liên Sô di
chuyển về phiá Nam rất đông. Các thương
thuyền này ngang nhiên xâm phạm hải phận
Việt Nam một cách trắng trợn. Tôi báo cáo lên
cho Bộ Tư Lệnh Vùng 2 DH và xin chỉ thị.
Lần nầy tôi được lệnh không ngăn
chận nó mà chỉ theo dơi và báo cáo mà thôi. Số lượng
tàu ngoại quốc đi sát bờ biển Việt Nam
càng lúc càng đông, đến nỗi không thể nào
kiểm soát hết; vă lại các thương thuyền
lạ này có trọng tải và vận tốc lớn, nên
chiến hạm ta không
đủ khả năng bám sát được. Có
lần chiến hạm thử chặn đầu 1 thương
thuyền có mang cờ Buá Liềm bằng cách chớp
đèn, nhưng nó vẫn tiến mà không hề
giảm tốc độ. Buộc ḷng chiến hạm
phải né sang một bên, nếu không tránh kịp
sẽ bị đứt làm đôi. –
Ngày 02.04.1975, chiến hạm được lệnh
tiến đến ” Chụt” một làng nhỏ cách
Cầu Đá Nha Trang độ 1 Km để phá huỷ hai
bồn dầu của kho xăng nằm dưới chân
núi đối diện phiá bên kia con đường. Các
bồn xăng sơn màu bạc, từ chiến
hạm nh́n vào giống như 2 ống khói
khổng lồ nhô lên trong đám dừa xanh. Tôi yêu
cầu Sĩ Quan trọng pháo lên đài chỉ huy để
chuẩn bị dùng 76 ly tác xạ vào 2 bồn dầu dó.
Chiến hạm tiến gần sát thêm vào mục tiêu;
giám lộ Long và Sĩ Quan đương phiên xác định
điểm neo. Lúc đó là10 giờ sáng, trời
tốt, biển động nhẹ, gió nhẹ.
Khoảng cách mục tiêu cần tác xạ là 2 hải lư.
Nhân viên vào nhiệm sở tác xạ, tất cả
sẵn sàng. Tôi nh́n kỷ mục tiêu lần chót trước
khi ra lệnh tác xạ. Tôi cũng như mọi người
trên tàu đều thấy rơ hàng ngàn đồng bào
đang lũ lượt lên dốc núi để qua bên
kia Cầu Đá, họ đang hướng về bến
cảng nơi đó có hàng trăm ghe thuyền đang
chờ đợi để di tản về Saig̣n. Các
ụ súng cũng báo cáo thấy rất đông đồng
bào đang di chuyển ngang qua bồn dầu. Tôi ra
lệnh ngưng tác xạ, theo dỏi mục tiêu và
chờ lệnh. Tôi báo cáo lên pḥng hành quân của Tư
Lệnh Hoàng Cơ Minh rằng mục tiêu không thể tác
xạ được v́ đồng bào đang đi qua
đó rất đông. Vài phút sau tôi lại được
lệnh bằng mọi giá phải triệt hạ 2
bồn dầu đó. Biết không thể nào từ
chối việc thi hành lệnh cấp trên, tôi chỉ
cho Sĩ Quan trọng pháo nên bắn lên các đỉnh
núi cao nằm phiá sau kho xăng đó. Khẩu
trọng pháo 76 ly bắt đầu nhả đạn,
từng viên, từng viên nổ chát chúa rung chuyển
cả con tàu, tạo nên những cột khói trắng trên
đỉnh núi cao, tựa hồ như những đám
khói của các người đốt rừng để
trồng trọt. Sau
khi tác xạ theo lệnh xong, tôi lên máy báo cáo: Đă tác
xạ 10 viên 76 ly. Bên kia hỏi cho biết kết
qủa. Tôi trả lời không trúng mục tiêu. Sau
đó tôi bị dằng vặt bởi lời báo cáo này.
Nhưng tôi không biết phải làm ǵ hơn, trong khi
tất cả nhân viên trên chiến hạm cũng như
tôi ai cũng cảm thấy nhẹ nhỏm. Ngày
hôm sau, chiến hạm lại được lệnh tiêu
huỷ 2 bồn dầu đó, trước khi rút về
Cam Ranh nhận lệnh mới. Chiến hạm trở
lại “Chụt” lần nữa, vẫn c̣n thấy
nhiều người qua lại gần bồn dầu. V́
lư do nhân đạo tôi liền báo cáo về Tư
Lệnh Vùng 2 Duyên Hải là tôi sẳn sàng chịu
nhận mọi trách nhiệm v́ không thể tác xạ vào
2 bồn dầu này được. Ngày
05.04.1975, chiến hạm khởi hành về Cam Ranh mang
theo gần 500 đồng bào và binh sĩ. Số người
quá đông nên vấn đề ăn uống và vệ
sinh bắt đầu khó khăn. Chiến hạm
cặp cầu Cam Ranh lúc 12 giờ trưa. Một số
đông đồng bào rời tàu để t́m phương
tiện khác vào Sai g̣n. Bộ Tư Lệnh Vùng 2 Duyên
Hải đă di tản nên không thể liên lạc
được, một vài thủy thủ c̣n lang thang trên
cầu tàu, xa xa các bồn dầu Cam Ranh đă tiêu
huỷ từ các ngày trước chỉ c̣n lại
đống tro tàn. Ngày
08.04.1975, sau 14 ngày chiến hạm liên tục hoạt
động không ngơi nghỉ. Hai máy chánh bắt
đầu có trở ngại, máy quá nóng nên chiến
hạm cho chạy một máy, máy kia nghỉ. Nước
ngọt và dầu cặn đă bắt đầu
cạn mà không có nơi tiếp tế. Tôi báo cáo
mọi hư hỏng về Bộ Tư Lệnh Hải
Quân Sai g̣n xin được về để sửa
chữa và tiếp tế. Một ngày sau Bộ Tư
Lệnh cho chiến hạm về Phan Thiết để
tuần tiểu từ mũi Kê Gà đến Vũng Tàu.
Tại đây chiến hạm sẽ nhận tiếp
tế dầu, nước từ các chiến hạm
bạn đang cùng công tác trong vùng. Khi nhận
được tiếp tế đầy đủ,
chiến hạm lại tiếp tục chở đồng
bào và quân nhân từ Phan Thiết về Vũng Tàu. Ngày
16 04 1975 mới được lệnh về Saig̣n để
sữa chữa. Ngày
17.04.1975, chiến hạm ráng lết về Saig̣n với
1 máy chánh tả. Cập cầu HQCX vị trí 1 cho đồng
bào lên bờ. Các thuỷ thủ bắt đầu
dọn dẹp vệ sinh. Tôi rời tàu, ra cổng HQCX
gọi Honda ôm để về nhà. Trên đường
đi tôi bị ám ảnh bởi cảnh đoạ
đày trên xà lan mà đồng bào ta đang chịu
đựng, làm ḷng tôi nôn nóng
muốn mau về để thấy mặt vợ con. Tôi
nghĩ lại ḿnh c̣n có hạnh phúc hơn nhiều người.
Ngày
hôm sau tôi vào Hạm Đội và tŕnh diện HQ Đ/Tá
Nguyễn Xuân Sơn, Tư Lệnh Hạm Đội. Ông cũng
là vị Hạm Trưỡng đầu tiên nhận
lảnh chiến hạm HQ09 năm 1960 tại Hoa Kỳ.
Ông nói tôi phải đưa lệnh công tác sửa
chữa gấp cho HQCX, đồng thời xúc tiến
ngay việc lảnh gạo và nhiên liệu để
sẳn sàng công tác. Đặc biệt lần lănh gạo
này được cấp đầy kho, điều
đó cũng đă nói lên ư định của hạm
đội chuẩn bị cho một cuộc di tản
sắp tới. Ngày
hôm sau Đ/Tá Sơn bị cách chức và HQ Đ/Tá Phạm
Mạnh Khuê lên thay thế. Một buổi họp
khẩn cấp các Hạm Trưởng của Hạm Đội,
Đại Tá Khuê tuyên bố : Anh em yên chí, chúng ta vừa
mới thả 2 trái bom CBU ở Long Khánh, Cộng Quân
đang bị chận đứng. Mọi công tác
vẫn như thường lệ, việc chuẩn
bị chiến hạm di tản huỷ bỏ. Tất
cả mọi người lặng lẽ ra về.
Tuần lễ cuối cùng của tháng 4 năm 1975 là
một tuần lể thê thảm của HQCX. Máy chánh, máy
điện rả ra mà chẳng có thợ xuống ráp
lại. Mỗi ngày có 1 đốc công xuống xem qua
rồi lên, họ lắc đầu noí chờ “Part ”
v.v. Các nhân viên chiến hạm cũng điểm danh
đầy đủ, có 1 Sĩ Quan vào chào từ
biệt tôi để đi Hoa Kỳ ngày 20.04.1975, anh nói
đă có vé máy bay v́ bà xă làm ở cơ quan Mỹ. Chiều
29.04.1975, các chiến hạm từ cầu A cho tới
sở Hàng Hà đều đầy nghẹt người,
riêng các chiến hạm đậu trong HQCX th́ ít người
hơn v́ vào lối này phải có người hướng
dẫn. Tr/Tá Trị, Hạm Trưỡng HQ 406 đang
đậu vị trí ngoài cùng gặp tôi đang lúc anh
đưa gia đ́nh ngang qua HQ09, anh bảo tôi cùng đi
nhưng gia đ́nh tôi chưa vào được nên tôi
từ chối. Chiều
lại, tôi tập họp nhân viên trên tàu, mọi người
nh́n tôi chờ đợi. Tôi nói tàu ḿnh hư không
thể chạy được, anh em nào muốn đi th́
qua HQ 406, tối nay tàu sẽ khởi hành. Riêng bản
thân tôi th́ ở lại, v́ vợ con tôi không vào
được. Một vài người qua HQ 406, c̣n bao
nhiêu hầu như cùng ở lại chiến hạm như
tôi. Tối
hôm đó tôi vào pḥng truyền tin để theo dỏi
việc di tản. Trong pḥng đă có sẵn 2 nhân viên vô
tuyến đang đàm thoại với những
chiến hạm bạn. Tôi chỉ sợ nếu có
một chiến hạm bị bắn cháy trên đoạn
đường từ Saig̣n ra Vũng Tàu th́ cuộc di
tản của chúng ta sẽ như thế nào? May thay
đám du kích Việt Cộng hai bên bờ sông Ḷng Tào
và Soài Rạp chưa đủ sức để làm
chuyện này. Sáng
30.04.1975, đứng trên đài chỉ huy tôi chỉ
thấy một vài chiến hạm c̣n lại đang
cột ngoài phao ở giửa sông, hay cặp bến
tại các cầu tàu. Phần đông các chiến
hạm đều bị bất khiển dụng,
chỉ có một số ít chiến hạm không đi,
mặc dầu c̣n khiển dụng 1 máy hoặc cả 2
máy. Lư do v́ không có Hạm Trưỡng hay cơ khí viên.
Nhưng không phải v́ thế mà chiến hạm
bị bỏ ngỏ. Tất cả vẫn nhiệm
sở tác chiến. Họ là những người lính,
nên dù ở hoàn cảnh nào, họ cũng đều tuân
lệnh và chiến đấu hết ḿnh. HQ 09 cũng
vậy, tất cả vào nhiệm sở để
chiến đấu dù tuyệt vọng. Nếu ông Dương
Văn Minh không tuyên bố đầu hàng, chắc
chắn các chiến hạm c̣n lại cũng phải
một sống một chết với Cộng Quân. 11.00
AM ngày 30.04.1975, ông Dương Văn Minh tuyên bố
đầu hàng. Tôi
tập họp anh em một lần chót : –
Tôi nói anh em đă nghe rồi, chúng ta đầu hàng. Bây
giờ các anh em có quyền về nhà. Trước
khi về, anh Quản Nội Trưởng cho anh em mang
gạo về mà ăn. Cứ mở kho, ai mang được
bao nhiêu th́ mang. Tôi
thay thường phục lái xe về nhà. Tôi mang theo xách
tay, trong đó có 2 khẩu súng ( 1 Ru lô và 1 Colt 45 ). Theo
xe tôi có Hạ Sĩ Thành, anh là trọng pháo nhưng luôn
luôn sát cạnh để lo ăn uống và giúp đở
cho tôi khi cần. Vừa ra khỏi HQCX tôi quẹo
phải đường Cường Để. Trước
hết tôi thấy bao nổi kinh hoàng c̣n ghi dấu hai bên
đường. Nào là các xe hơi, xe JEEP, xe HONDA
nằm đầy la liệt với hàng đống Vali
và xách tay cùng hàng đống h́nh ảnh và Búp Bê rơi
tung toé. Đến đường Hiền Vương tôi
quẹo trái, gần ngang cổng Nha Hàng Không Dân Sự
th́ gặp phải 1 chiếc T 54 của Cộng Sản
đang tiến nhanh ngược chiều về phía tôi,
tôi nép qua phải, chút nữa là tôi bị cán nát. Đây
là lần đầu tiên tôi thấy tận mắt T 54.
Về
đến nhà, tôi thấy vợ con tôi và một
số bà con đang ngồi bẹp dưới sàn nhà. Có
lẽ moị người cũng như tôi đă
chờ đợi suốt đêm qua, nhưng mỗi người
chờ đợi mỗi cách. Gia đ́nh và bè bạn
th́ chờ tôi về để đưa đi. C̣n tôi
và toàn thể nhân viên trên chiến hạm th́ chờ
đợi những giờ phút cuối cùng của
lịch sử trong đời quân ngủ. Một lúc sau
chẳng ai nói với ai một điều ǵ, mọi người
tự giải tán trong nặng nề và u uất. Tôi
đưa cho HS Thành khẩu COLT 45 và một ít tiền
để anh vể xe, anh ở tận Cần Thơ.
Từ đó tôi chẳng bao giờ gặp lại
mặt anh. Những
ngày đầu tháng 5 này, Sàig̣n như lên cơn
sốt bệnh tật. Nhà nhà đóng cữa, ngoài
đường xe cộ chạy loạn xạ, một
chiếc đâm vào nhà tôi làm sập cánh cữa
sắt, mặc dầu nhà tôi ở trong hẽm nhỏ.
Người lái xe chẳng ai xa lạ, mà là một
cậu X́ Ke nhà đầu xóm. Cậu ta vừa mới
vớ được chiếc xe Jeep của ai mới
bỏ sáng nay nên lái chạy chơi, có người c̣n
cầm súng bắn lên trời mừng chiến
thắng. Sực nhớ c̣n khẩu Ru Lô trong túi xách, tôi
bảo vợ tôi lấy tờ báo gói lại rồi
đem ném vào đống rác ở chợ Bàn Cờ.
Vợ tôi lặng lẽ ra đi một lát sau bà về
bảo đă làm xong nhiệm vụ. Tôi tự nhủ
thầm, hôm nay tôi mới thực sự từ giả vũ
khí. Ngày
02.05.1975, tôi đứng dậy sau một ngày nằm dài
như người mê man. Tôi cố đi 1 ṿng quanh khu Bàn
Cờ chổ tôi ở. Hai bên đường cờ
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam treo đầy, các
Bộ Đội Giải Phóng hồ hởi phấn
khởi mặc đồ đen, đồ xanh, có người
quấn khăn rằng, có người đội nón
tai bèo. Họ vừa chạy xe Honda vừa bóp c̣i inh
ỏi. Một tuần sau tôi lại đi lần
nữa để xem có ǵ khác lạ không, khi đi ngang
qua rạp hát Văn Hoa trên đường Điện Biên
Phủ gần Ngả Bảy, tôi thấy Bộ Đội
Miền Bắc đóng đầy trong đó, ngoài
cổng có hai tên đầu đội nón cối, chân
đi dép râu, tay cầm AK báng đỏ đứng gác.
Nh́n chung quanh đường tôi chẳng c̣n thấy bóng
dáng cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đâu
cả mà thỉnh thoảng có vài lá cờ đỏ
sao vàng bay trên nóc các cao ốc. Tôi nghỉ bụng,
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam chỉ chiến
thắng có vài ngày thôi, họ hy sinh nhiều nhất mà
thua cũng mau nhất. Vài
ngày sau tôi đạp xe chạy xuống bến Bạch
Đằng. Hôm đó trời mưa lất phất,
dẫn xe đạp qua gần cầu B, tôi thấy vài
chiến hạm c̣n đậu ngoài phao, nh́n về phiá
HQCX tôi thấy mủi tàu HQ 09. Tôi im lặng với bao
niềm thương nổi nhớ. Vĩnh biệt HQ 09!
Tôi
đạp xe về nhà mà ḷng tái tê. Hoàng Đ́nh Báu
|