Chuyện Đà Nẵng chưa ai kể Vơ Hương An |
Khi
bắt tay viết về lịch sử Đà Nẵng,
tôi thực không ngờ rằng cái vùng đất
nhỏ bé này lại có nhiều chuyện lư thú ,
rất đáng để bỏ công t́m hiểu đến
thế, và do đó , việc này đă để
lại trong tôi nhiều kỷ niệm, nhiều
gắn bó với đất với người
của một miền đất nước đă nuôi
gia đ́nh tôi trong hơn hai mươi năm . . .
Chẳng hạn chuyện Đảo Cô và chuyện
Quan lớn Bảo hộ. . . Đảo
Cô ở đâu? Sau
cuộc nổ súng thị uy của hai tàu Pháp là Gloire
và Victorieuse tại vịnh Đà Nẵng vào ngày
15-4-1847, vua Thiệu Trị ra lệnh tăng cường
pḥng thủ Đà Nẵng bằng bảy pháo đài
xây dựng ở bán đảo Sơn Trà với tên
gọi là Trấn dương Thất bảo. Trong
bảy pháo đài đó, theo Đại Nam Nhất
Thống Chí (quyển Quảng Nam) th́ đảo
thứ hai được đặt trên đảo Cô
với tường cao 4 thước 3 tấc (chừng
hơn 2m) và chu vi 41 trượng (164m). Khi đọc
được những ḍng này, tôi tự nhủ:
Ủa, trong vịnh Đà Nẵng mà cũng có một
ḥn đảo tên là đảo Cô sao?? Sao ḿnh không
thấy mà cũng không nghe ai nói tới? Bèn
vội vă đi t́m bản đồ để xác
định vị trí, nhưng thất vọng v́
chả thấy ǵ cả. Lại đoán già đoán
non rằng hẳn bản đồ ḿnh sử dụng
có tỷ lệ nhỏ (1/100,000) mà ḥn đảo cũng
không lấy ǵ làm lớn nên chẳng có dấu
vết nào, bèn đi kiếm bản đồ có
tỷ lệ lớn hơn (1/25,000) với hy vọng
sẽ t́m ra cái ḥn đảo lần đầu tiên
mới được nghe tên đó. Lại
thất vọng. Từ đó tôi bắt đầu
một cuộc truy tầm bằng mọi phương
cách, vừa t́m tài liệu và bản đồ để
đọc thêm, vừa phỏng vấn những người
lớn tuổi ở địa phương khi có
dịp, với hy vọng nắm bắt được
một manh mối nào đó. Hơn
một năm trời trôi qua trong vô ích. Một hôm,
v́ nhiệm vụ, tôi phải tiếp xúc với hai nhân
chứng, cụ Nguyễn văn Trách và cụ Đỗ
Trọng Khai tự Bút, vốn là hào lăo của làng An
Hải, đều thuộc ḍng dơi đă lập
nghiệp ở địa phương từ trước
đời Gia Long (1802-1820). Xong việc giấy
tờ, tôi cầm hai ông cụ nán lại một chút
và mở cuộc mạn đàm bỏ túi: -Hai
cụ ở đây lâu, vậy có biết trong vịnh
Đà Nẵng có ḥn đảo nào tên là đảo Cô
không? -Biết
chớ. Đảo Cô là cái ḥn đảo nho
nhỏ nằm ở Sơn Trà chớ đâu. Nói
làm sao cho xiết nổi ngạc nhiên và sung sướng
của tôi lúc đó. Tôi thầm đùa với chính ḿnh:
sao mà hên thế, đào đất cầu âu mà
lại trúng ngay mạch vàng. Tôi vội mang
bản đồ Đà Nẵng trải ra bàn, tay
chỉ miệng nói: -Đây
là Đà Nẵng của ḿnh đây. Làng
An Hải của hai cụ đây nè. . . Vịnh Đà
Nẵng là đây. . . Sơn Trà là đây. . . Vậy
chớ cái đảo Cô mà hai cụ nói nằm ở
mô? Cụ
Khai lần ngón tay trên bản đồ rồi
dừng lại ở vị trí Bộ chỉ huy
Hải khu I ( Trại Chương Dương, trước
1975) và nói: "Nó đây nè" và đưa mắt
nh́n cụ Trách như tham khảo ư kiến. Ông này
gật đầu: “Đúng rồi đó” Tôi
buột miệng hỏi: -Đảo
đâu mà đảo, chỗ này nối với đất
liền mà. -Th́
nó nguyên là ḥn đảo nhưng theo ông tôi kể
lại th́ vua Gia Long cho đắp một con đường
nhỏ bằng đá để tiện đi lại
canh pḥng, sau Tây đắp rộng thêm, rồi Mỹ
lấp vịnh thành đất liền, làm sao thấy
ra ḥn đảo nữa. À
ra thế! Từ đầu mối đó, kết
hợp với những tài liệu của Tây, ta, tôi có
thể vẽ ra lư lịch của đảo Cô như
sau: ở phía Tây chân núi Sơn Trà có một mơm
đất nhô ra khá lớn, dân địa phương
gọi là núi Mỏ Diều, Đại Nam Nhất
Thống Chí gọi là đảo Mỏ Diều.
Phía Nam của Mỏ Diều , cách một vịnh
nhỏ, có một ḥn đảo con nằm trơ
trọi một ḿnh, đó là đảo Cô. Từ
đời Gia Long , vua cho đắp một con
đường đá nối đảo Cô với chân
bán đảo Sơn Trà để tiện đi
lại canh pḥng. Đời Thiệu Trị đă xây
một pháo đài trên đó, thuộc hệ thống
Trấn dương Thất bảo. Trong
cuộc xâm lăng Đà Nẵng vào các năm
1858-1860, Pháp đă chiếm đảo này, đặt
tên là l’Îlot de l’ Observatoire (đảo Quan sát), thường
gọi tắt là l’Îlot (xem h́nh). Công binh Pháp
đă cho phá hủy pháo đài của vua Thiệu
Trị và xây một pháo đài khác, đặt tên là
Fort de l’Observatoire (Pháo đài quan sát), đồng
thời họ cũng đắp rộng thêm con
đường đá cũ để tiện đi
lại. Vị trí này, trước 1975, là Bộ Tư
lệnh Hải khu I (Trại Chương Dương).
Năm 1965, công binh Hoa Kỳ đă lấp cái vịnh
nhỏ, nồi liền đảo Cô và núi Mỏ
Diều, thành ra không c̣n dấu vết ǵ để
nhận ra đó là một ḥn đảo nữa.
Quả thật là chuyện vật đổi sao
dời, đời nào cũng có. Chuyện
Quan lớn Bảo hộ
Vụ
giúp xác định đảo Cô là bước
mở đầu mối giao t́nh giữa tôi và các
cụ Trách, cụ Bút nói riêng và làng An
Hải nói chung, từ đó dẫn đến
những khám phá lư thú khác. Sau
lần tiếp xúc với các cụ tại chỗ làm
việc, thời gian sau, cho đến ngày tan hàng ră
đám năm 1975, những lúc rảnh rỗi, từ cư
xá nằm ở ngă tư Độc lập-Thống
nhất, tôi thường thả bộ xuống
bến phà máy Sông Hàn để qua làng An Hải thăm
hỏi, chuyện tṛ cùng các cụ, nhất là cụ
Bút, v́ tôi đoán rằng c̣n có thể học
hỏi nhiều ở các cụ nữa. Ngay
lần viếng thăm đầu tiên, tôi hỏi
cụ Bút: -Làng
An Hải có di tích ǵ cổ xưa không cụ? -Có
chớ. Có lăng Quan lớn Bảo hộ mà làng
thờ làm hậu hiền , hàng năm cúng tế đàng
hoàng v́ ngài rất có công với làng. Tôi
ngạc nhiên: -Ủa,
Quan lớn Bảo hộ là ai? Cụ có biết ngài
húy là chi không? Nếu biết được th́
nói để tôi tra cứu trong sử sách coi sự
nghiệp của ngài ra sao. -Ờ,
tôi vô tâm quá. cứ theo ông bà đời trước
mà gọi, chưa bao giờ hỏi cha tôi hay ông tôi
ngài húy là chi, nhưng theo đời trước
truyền lại th́ ngài làm quan lớn lắm. . . À,
thầy có đọc được chữ
Nho (Hán) không? Trong giấy tờ do ông tôi để
lại, có tờ trát của quan lớn Bảo hộ
gởi cho làng, rồi làng giao cho ông tôi giữ, có
chức tước của ngài nhưng không có húy.
Để tôi lục cho thầy coi, may ra biết ngài là
ai. Tôi
đáp: -Vâng,
thế th́ tốt quá. Chữ Nho tôi chỉ đọc
được lơm bơm nhưng tôi có ông bác thông Nho
lắm, thành ra cụ khỏi lo. Sau
một hồi lục lọi trong chiếc rương
gỗ mộc, cụ Bút lôi ra một tờ giấy
bản sờn rách nhiều chỗ ngoài mép và
đưa cho tôi. Đọc lơm bơm, tôi tạm
hiểu rằng tờ giấy này là một tài
liệu hiếm, có liên quan đến Thoại
Ngọc Hầu. Tôi ngỏ ư xin mượn,
cụ đồng ư ngay. Về
nhà, tôi vội lấy xe đi đến nhà cụ
Nguyễn Văn Luân, Đốc sự thượng
hạng hưu trí, bạn của nhạc gia tôi, mang
theo tài liệu chữ Hán vừa mượn được.
May mắn, ông cụ không đi chơi tài bàn, đang
nằm nhà đọc sách. Ch́a tờ giấy ra, tôi nói: -Nhờ
bác đọc và dịch cho con tài liệu này. Con
cần lắm. Bác đọc từ từ th́ con
ghi chép được. Cụ
Luân cầm tờ giấy liếc qua, đoạn nh́n
tôi rồi hỏi: -Tài
liệu này hiếm lắm đây. anh moi đâu ra
vậy? Sau
khi nghe tôi thuật sơ về xuất xứ, ông già
hắng giọng: -Nghe
đây này: “Khâm
sai Thống chế án thủ Châu Đốc Đồn,
lănh bảo hộ Cao Miên Quốc ấn, kiêm quản Hà
Tiên Trấn biên vụ, gia nhất cấp, kỷ
lục tứ thứ, quan . . . “V́
trát tri sự . . . “ Th́
ra đó là tờ trát của Khâm sai Thống chế
Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn Thoại,
bấy giờ đang trấn thủ Đồn Châu
Đốc, lănh nhiệm vụ bảo hộ nước
Cao Miên (thuộc địa của Việt Nam dưới
triều Minh Mạng) và kiêm luôn chức Trấn
thủ Hà Tiên, gởi cho xă trưởng và hào
mục xă An Hải, bày tỏ sự ủng hộ
nguyện vọng của bảy xă thuộc tả
ngạn sông Hàn ( An Hải, Mỹ Khê, Hóa Khuê, Mỹ
Thị, Phước Trường, Tân An, Nam An) muốn
đoàn kết lập chợ để chống
lại sự cạnh tranh của xă Hải Châu.
Tờ trát đề ngày 20 tháng Tư năm Minh
Mạng thứ 8, nhằm 15-5-1827 (xin xem h́nh).
Ảnh
chụp tờ trát của Thoại Ngọc Hầu gởi
cho hào mục làng An Hải, Đà Năng (Ảnh
của tác giả) Phát
giác này làm tôi ngạc nhiên muốn bật ngửa.
Tôi cảm ơn cụ Luân và chỉ nói “Thật con
không ngờ Thoại Ngọc Hầu lại là người
quê ở An Hải, Đà Nẵng”. Thật
sự th́ tôi rất xúc động điều
vừa khám phá, v́ Thoại Ngọc Hầu Nguyễn Văn
Thoại là một khuôn mặt lớn trong lịch
sử. Ông là một khai quốc công thần của
vua Gia Long, tầm cỡ với Tả quân Lê Văn
Duyệt và Trung quân Nguyễn Văn Thành, được
phong tước Thoại Ngọc Hầu, là người
có công khai phá miền Hậu giang, là người
đă chỉ huy việc đào kinh Vĩnh Tế,
nối liền Hà Tiên và Châu Đốc, một công
tŕnh vĩ đại khiến vua Minh Mạng rất
đẹp ư, nên đă lấy tên vợ Bảo
hộ Thoại (Châu Thị Vĩnh Tế) để
đặt tên cho con kinh, lại cho khắc h́nh kỷ
niệm vào Cao đỉnh, là đỉnh số 1 trong
Cửu đỉnh của Thế miếu. Vĩnh
Long, An Giang, Hà Tiên, Châu Đốc, đâu đâu cũng
có dấu vết của ông. Người ta tôn
thờ và biết ơn ông. Nếu có dịp
đến những nơi này, nhất là Châu Đốc,
bạn sẽ thấy được Quan lớn
Bảo hộ hay Bảo hộ Thoại đă để
lại dấu ấn tại những địa phương
đó như thế nào. Chính
v́ ông đă để lại một huân nghiệp như
thế nên giáo sư Nguyễn Văn Hầu đă
bỏ công trong hai mươi năm sưu tập tài
liệu để viết cuốn "Thoại
Ngọc Hầu và những cuộc khai phá miền
Hậu Giang", một tác phẩm biên khảo công
phu, có giá trị về mặt nhân văn và lịch
sử. Tôi c̣n nhớ (hiện giờ tôi không
có sách đó trong tay) trong chương viết về ḍng
dơi Thoại Ngọc Hầu, khi nói đến quê quán
, tác giả chỉ ghi Nguyễn Văn Thoại là người
tổng An Lưu, huyện Diên Phước, phủ
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, với
lời chú thích, đại khái là mặc dầu đă
bỏ công trong hai mươi năm để sưu
tầm tài liệu (sử sách, gia phả, bi kư,
bằng sắc . . .) nhưng ông cũng không thể xác
định được Nguyễn Văn Thoại là
người thuộc làng nào, xă nào của tỉnh
Quảng Nam. Cái điều giáo sư Nguyễn Văn
Hầu săn t́m trong hai mươi năm mà không
gặp, nay bỗng nhiên lại t́nh cờ ở trong
tay tôi. Vài
hôm sau, được lúc rảnh rỗi, tôi lại
thả bộ qua An Hải gặp lại cụ Bút.
Tôi nhập đề ngay: -Cụ
ơi, tôi biết được húy của ngài
rồi. Quan lớn Bảo hộ của làng An
Hải thật ra lớn lắm , tầm cỡ
quốc gia chứ không phải riêng chi làng An Hải
đâu. . . -Đâu?
Đâu? Chuyện ra răng , thầy làm ơn
kể cho tui nghe coi. Tôi
trả lại tờ trát và kể lại sự tích
Thoại Ngọc Hầu. Có thể từ bao lâu nay làng
An Hải cảm thấy hănh diện về Thoại
Ngọc Hầu như là một thân nhân làm lớn
chứ chưa biết hết cái huân nghiệp của
ông đối với một miền hoang dă nhưng trù
phú của đất nước. Do đó, trong câu
chuyện, tôi nhấn mạnh về điểm này và
ghi nhận ông cụ rất xúc động. Ông
dẫn tôi đi coi đ́nh thờ (thờ chung các
hậu hiền của làng) đang được tu
sửa và than phiền rằng ngân khoản eo hẹp
quá, chỉ làm sơ sơ thôi chứ chưa đúng
mức như ư muốn. Tôi góp ư: -Cụ
à, Quan lớn Bảo hộ không phải là một danh
nhân của riêng chi làng An Hải mà c̣n chung cho cả
Quảng Nam–Đà Nẵng nữa. Tỉnh
Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng phải hănh
diện có một danh nhân như vậy, nên việc tu
sửa này chính quyền cũng phải góp phần giúp
đỡ. Cụ và các cụ hương lăo cùng
ban hội tề nên có kế hoạch quyên góp
mở rộng để có được ngân
khoản dồi dào hơn hầu việc trùng tu
được tới nơi tới chốn. Nếu các
cụ làm th́ tôi xin giúp một tay, chẳng giàu có chi
để giúp tiền giúp bạc, nhưng sẽ
giới thiệu các cụ đến những nơi
hằng tâm hằng sản, những nơi ḿnh có
thể gơ cửa được. Đề
nghị này về sau đă được các cụ
thực hiện và Chương Tŕnh Khuếch Trương
Đà Nẵng và Vùng Phụ Cận, do anh Nguyễn Hà
Hải làm Tổng Giám đốc, là thành phần
chủ lực đă giúp đỡ hoàn thành ngôi đ́nh
khá bề thế. Ngay
từ buổi gặp gỡ đầu tiên các cụ
có đề cập đến lăng Quan lớn
Bảo hộ. Nhờ đọc tác phẩm biên
khảo của học giả Nguyễn Văn Hầu mà
tôi biết rằng không thể có lăng của
Thoại Ngọc Hầu ở An Hải, nhưng để
kiểm chứng đó là lăng của ai th́ măi
về sau mới có dịp. Có
dính một chút vào việc biên khảo nên tôi rất
thông cảm với học giả Nguyễn Văn
Hầu về nỗi buồn khi không t́m được
tài liệu như ư và niềm vui, có khi c̣n sướng
hơn bắt được vàng, khi t́m được
cái muốn t́m hoặc phát hiện ra những tài
liệu chưa hề được công bố. Do
đó, khi nắm trong tay thông tin và tài liệu mới
mẻ về Thoại Ngọc Hầu tôi đă
viết một bài (lâu ngày quên mất nhan đề)
định gởi cho bán nguyệt san Bách Khoa, nhưng
rồi cứ phân vân măi: nên chăng, đăng
báo "lấy tiếng", hay là cung cấp tài
liệu cho giáo sư Nguyễn Văn Hầu để
ông có thể bổ sung tác phẩm được
đầy đủ hơn, như vậy mới là
thực sự cảm thông nghiệp cầm bút, dù chưa
hề quen biết. Một hôm, nhân công tác ở
Huế, nghe nói giáo sư bảo trợ của tôi lúc
đó là giáo sư Nghiêm Thẩm đang có giảng khóa
ở Đại học Văn Khoa Huế, tôi đến
cư xá thăm và hỏi ông: -Em
biết thầy quen ông Nguyễn Văn Hầu.
Vậy thầy có thể vui ḷng cho em xin địa
chỉ của ông ta được không? -Anh
xin địa chỉ của ông Hầu để làm ǵ? Tôi
lược thật câu chuyện và nói muốn liên
lạc để cung cấp cho ông những thông tin
và tài liệu vừa khám phá v́ thấy ông đă
đầu tư quá nhiều công sức vào tác
phẩm mà vẫn chưa vừa ư, nên rất thông
cảm. Giáo sư Thẩm ngẫm nghĩ giây lát
rồi nói: -Theo
tôi, anh nên gởi bài cho Bách Khoa. Trở
lại Đà Nẵng, tôi gởi bài. Tôi c̣n
nhớ trong phần kết thúc có để lời
nhắn đại khái rằng nếu đọc
bài này mà tác giả "Thoại Ngọc
Hầu và những cuộc khai phá miền Hậu
Giang" muốn biết thêm chi tiết th́ xin
liên lạc với tôi theo địa chỉ…, tôi
sẵn sàng trả lời. Bài
gởi đi chừng mươi ngày th́ tôi nhận
được thư, không phải của Bách Khoa mà
là của giáo sư Hầu. Ông cho biết Bách
Khoa đă báo cho ông biết về bài báo và để
cho ông được đọc trước khi
đăng. Nhân câu nhắn tin của tôi, ông yêu
cầu Bách Khoa tạm hoăn để ông liên lạc
với tôi xem sao đă. Ông xin lỗi về việc
đó và ngỏ ư mong muốn được tôi
hợp tác, giúp đỡ, bằng cách cung cấp
những tài liệu và h́nh ảnh đă và sẽ sưu
tập , đồng thời trả lời những câu
hỏi liên quan đến quê hương và thân
quyến Thoại Ngọc Hầu mà ông thấy chưa
được sáng tỏ. Tôi biết ông rất nóng
ḷng trông hồi âm nên vội trả lời vắn
tắt là chấp nhận hết thảy mọi điều
ông yêu cầu trong niềm thông cảm của kẻ
cầm bút; riêng về h́nh ảnh và tài liệu, cùng
là trả lời những câu hỏi do ông nêu ra th́
phải chờ lâu hơn v́ tôi cần thời gian
để thu thập thêm những chứng dẫn
cần thiết, đặc biệt có một số lăng
mộ nằm trong khu quân sự thuộc loại
mật, không dễ chi chụp h́nh ngay được. Thật
vậy, ngoài hai sở lăng nằm trên một
nỗng đất cao cách nhà cụ Bút không xa mà tôi
đă từng được dẫn đi thăm và
biết là lăng của ông bà nội Thoại
Ngọc Hầu, c̣n cái lăng mà các cụ nói là lăng
của Bảo hộ Thoại lại nằm trong khu
vực Tổng kho Đà Nẵng, được canh pḥng
cẩn mật và dĩ nhiên bảng cấm chụp h́nh
yết la liệt. Tôi không quen sĩ quan Chỉ huy
trưởng nên chưa biết làm thế nào để
có thể xâm nhập vùng cấm địa mà
khảo sát đây. Một hôm, nhân đi uống
cà-phê với nhà văn Duy Lam (trung tá Nguyễn Kim
Tuấn, Quân đoàn I) tôi than thở về cái
“kẹt” của ḿnh, và hỏi anh có quen với
trung tá X. Chỉ huy trưởng Tổng kho Đà
Nẵng không? Anh cười thoải mái: -Tay
đó tôi quen thân lắm. Để trong tuần này
hễ ngày nào thư thả, tôi sẽ điện
thoại cho anh biết, chuẩn bị, rồi tôi
chở vào đó, gặp anh ta nói chuyện. Không
có ǵ trở ngại đâu. Quả
như anh Duy Lam dự liệu, tôi đă vào được
khu vực Tổng kho Đà Nẵng, khảo sát ngôi lăng
cổ, ghi chép và chụp h́nh thoải mái nhờ
sự thông cảm bạn bè. Và đúng như tôi
nghĩ, đó không phải là lăng Quan lớn
Bảo hộ mà chính là lăng thân phụ ông ta. Mấy
chục năm đă trôi qua, thật khó mà nhớ
hết những ǵ tôi đă gởi vào Long Xuyên cho giáo
sư Hầu. Dĩ nhiên, ông rất sung sướng và
cảm động về những ǵ tôi đă làm cho
ông và cho biết với những tài liệu đó ông
có thể viết thêm một chương mới để
bổ sung cho tác phẩm khi tái bản. Ngược
lại, tôi cũng cảm thấy hoan hỷ v́ trên
đường đời lại nảy ra một
mối giao t́nh mới. Tôi muốn đứng giữa
làm gạch nối Châu Đốc và Đà Nẵng
để hai bên, những người c̣n mang nặng
ḷng tri ân và tưởng nhớ tới Thoại
Ngọc Hầu, có thể gặp gỡ nhau, mở
rộng t́nh tương thân tương ái giữa hai
quê hương của cùng một danh nhân. Bây
giờ th́ không c̣n nhớ đă đem việc này ra
bàn với các cụ ở An Hải và giáo sư
Hầu chưa, nhưng dù rồi hay chưa th́ mọi
tính toán cũng đều tan theo mây khói trong cơn
lốc mùa Xuân 75. . . Sinh
Nguyễn Tử Trần
Một
buổi chiều, khoảng hai giờ, đang ngồi làm
việc th́ người trực an ninh vào báo có phái
đoàn làng An Hải muốn vào gặp. Tôi nói
xin mời vào, và thoáng một chút ngạc nhiên:
sao không nghe cụ Bút nói ǵ cả? Phái
đoàn gồm có năm vị, trong đó tôi chỉ
c̣n nhớ có hai người là cụ Bút và ông
Trần Văn Mẹo, nghị viên Thành phố Đà
Nẵng. Mục đích của phái đoàn là chính
thức cảm ơn tôi và trao tặng bảng “Công
Đức Vô Lượng” v́ tôi đă có công trong
việc giúp trùng tu đền thờ Thoại Ngọc
Hầu. Thôi th́ không biết nói làm sao, đành
“cung kính bất như tuân mệnh”, xin nhận
lănh và cảm ơn làng vậy. Trong câu
chuyện, tôi lại nhấn mạnh về tầm vóc
của Thoại Ngọc hầu đối với đất
nước và nhân đó xin tặng làng cuốn sách
của giáo sư Nguyễn Văn Hầu viết
về Bảo hộ Thoại để làm kỷ
niệm. Họ đ̣i phải có con dấu
chức vụ và chữ kư của tôi mới chịu
nhận, thôi th́ cũng chiều ḷng. Không biết
cuốn sách đó nay làng có c̣n giữ không. Chúng
tôi chuyện tṛ khá lâu và bỗng một vị trong
phái đoàn vừa cười vừa nói rằng: -Thực
ra, làng chúng tôi có đến hai danh nhân, mà hai danh nhân
này lại đối nghịch nhau. Quan lớn
Bảo hộ là danh nhân thuộc phe chiến thắng,
tiếng tăm lừng lẫy, sử sách ghi chép nên
ai cũng biết; c̣n ông kia là danh tướng
thuộc phe chiến bại, không ai dám nhắc
tới, lâu ngày rồi quên luôn. Tôi
ngạc nhiên quá đổi: -Xin
cho biết là ai vậy? -Là
tướng Tây Sơn Trần Quang Diệu đó.
Ông Trần Quang Diệu cũng là người làng An
Hải chớ đâu, nay con cháu vẫn c̣n. Như
ông nghị viên Trần Văn Mẹo đây là
thuộc ḍng dơi tướng Trấn quang Diệu đó. Tôi
ngạc nhiên thiếu điều bật ngửa.
Ḷng tự nhủ: sao mảnh đất An Hải
nhỏ bé hiền ḥa vậy mà lắm chuyện ly
kỳ đến thế! Thoại Ngọc hầu
Nguyễn Văn Thoại, danh tướng khai quốc công
thần của Nhà Nguyễn người làng An
Hải, mà viên dũng tướng Tây Sơn Trần
Quang Diệu cũng người làng An Hải! Tướng
Trần Quang Diệu cùng vợ là nữ tướng Bùi
Thị Xuân đă từng nhiều phen làm vất
vả điêu đứng quân của Nguyễn Vương
(vua Gia Long sau này), gây cản trở lớn trên bước
đường tiêu diệt Tây Sơn. V́ vậy,
khi bắt được cặp vợ chồng anh hùng
đáng sợ này, nhà vua không những hành h́nh họ
mà c̣n tàn sát thân nhân của họ bằng án tru di
tam tộc. Theo lời kể của ông nghị viên
Trần Văn Mẹo, khi nghe tin dữ ở kinh đô
Huế, có người đă vội vă về ngay làng
An Hải báo tin cho họ Trần biết để t́m
cách lánh nạn trước khi lệnh truy nă đến.
Nhờ hương lư và dân làng đều có cảm
t́nh với họ Trần nên đă giúp một số
gia đ́nh đào thoát khỏi làng, thay tên đổi
họ, đi lánh nạn phương xa. Số c̣n
lại , gồm những người không đi
được hay không muốn đi, đều
cải sang họ Nguyễn. Do đó, khi lệnh
truy nă tới th́ không c̣n ai họ Trần để
bị bắt giết. V́ sự sống mà
phải bất đắc dĩ mang họ Nguyễn, nên
đến khi chết th́ con cháu đều trở
lại họ Trần để không mất gốc,
tạo nên một tập tục mà hết thảy con
cháu đều phải tuân theo , gọi là “Sinh
Nguyễn tử Trần”. Sau khi triều đ́nh
Huế nhường đất Đà Nẵng cho Pháp làm
nhượng địa (1888), quyền lực địa
phương không c̣n ở trong tay Nhà Nguyễn
nữa, không có lư do ǵ để phải sợ hăi
đề pḥng nữa, nên một số đă trở
lại họ Trần (chẳng hạn chi của ông
Trần Văn Mẹo), phục hồi ḍng tộc cũ
của ông cha, số c̣n lại vẫn giữ tục
“Sinh Nguyễn tử Trần”. Khi
nắm được thông tin lư thú này, tôi dự tính
sẽ làm một cuộc sưu khảo về ḍng dơi
Trần Quang Diệu ở An Hải, vừa để
xác minh những điều vừa mới ghi nhận,
vừa hy vọng biết đâu lại t́m ra
được những điều mới mẻ lư thú
khác nữa ở cái vùng đất có bề ngoài
hỏ bé khiêm tốn nhưng lại mang nhiều
chuyện xưa tích cũ bất ngờ này. Nhưng
rồi tháng Ba găy bút. |