30 Tháng Tư: Chuyện Người Nghĩa Quân Thờ H́nh Của Chính Ḿnh Phạm Thành Châu. |
Tết
năm đó tôi về Việt Nam ghé thăm bạn bè.
Đến miền Trung, tôi được một người
bạn rủ thăm mộ một người bạn
khác. Từ một thị trấn miền biển, chúng
tôi ra quốc lộ Một, theo hướng bắc, lên
một đèo nhỏ, đến đỉnh đèo,
thay v́ xuống dốc, bạn tôi cho xe chạy vào
một đường ṃn dọc theo chân núi. Đây
là một vùng hoang vắng, cằn cỗi, toàn đá,
cây lưa thưa, cao không quá đầu người.
Chiếc xe gắn máy cứ nhảy chồm chồm,
như con ngựa trở chứng, mấy lần suưt
ngă xuống vực. Cuối cùng chúng tôi cũng đến
được một nơi, hơi bằng phẳng,
có mười mấy ngôi mộ đất, nằm
rải rác trên một diện tích khoảng một cái
sân lớn. Bạn tôi chỉ một mô đất có
miếng gỗ nhỏ ghi chữ Tư bằng hắc
ín bạc màu. –
Nó nằm đây! Chúng
tôi lấy nhang, đốt lên, đứng trước
mồ bạn, khấn vái mấy câu. Trong giây phút tưởng
niệm, tôi như h́nh dung rơ bạn tôi trong những
ngày cùng ngồi chung lớp, chung trường. Bạn
tôi vui tươi, khỏe mạnh, yêu đời, lúc
nào cũng nói chuyện tếu được,
khiến cho dù ai có chuyện buồn cũng phải
bật cười… Rồi cảm tưởng như
tất cả những người nằm trong các ngôi
mộ rải rác chung quanh đều là bạn thân
thiết, vong linh họ đang đứng bên cạnh,
ṭ ṃ nh́n xem chúng tôi làm ǵ? Ư nghĩ đó khiến
tôi thêm ngậm ngùi, thương cảm. Tôi khấn
lầm thầm. “Chúng tôi rất hănh diện có
được những người bạn đă
chọn một cái chết hào hùng để bảo
vệ tự do, bảo vệ đồng bào. Sự hy
sinh của các bạn càng thêm ư nghĩa sau khi cộng
sản Bắc Việt chiếm đóng Miền Nam. Dân
chủ, tự do không c̣n nữa!” Tôi cũng trấn
an người bạn học quá cố của chúng tôi
khi nói về cuộc sống ổn định của
vợ và các con của bạn “Anh em đồng môn
luôn t́m cách an ủi, giúp đỡ chị và các cháu”.
Khấn xong, chúng tôi đem nhang cắm lên tất
cả các ngôi mộ. –
Chỉ thằng nầy là dân hành chánh, c̣n mấy
cậu nằm chung quanh toàn quân nhân. Nhảy dù
với nghĩa quân. –
Có lẽ phải xây một cái khung cho tất cả các
ngôi mộ nầy, rồi đổ đất lên
mới không bị mồ xiêu mả lạc. –
Lần trước, lên đây, tôi có gặp anh chàng
sống một ḿnh trong mái tranh đằng kia, ḿnh có
thể nhờ anh ta lo vụ nầy…Chắc không
tốn bao nhiêu. Mới
buổi sáng mà nắng đă gay gắt. Tôi đứng
nh́n quanh. Một bên là núi cao, một bên là sườn
núi thoai thoải, chạy đến một rừng cây
xanh có lẽ là điểm nước, thấp thoáng
sau hàng cây là quốc lộ Một, mấy chiếc xe
đang chạy trên một cây cầu nhỏ, bắc
qua một con suối, về mùa hè nên nước
cạn, chỉ thấy lấp loáng ánh nắng qua
những gộp đá nhỏ. Bạn tôi chỉ tay
về hướng bên kia đồi. –
Nhà anh ta dưới tàng cây lớn kia ḱa, nếu
để ư, quá khỏi tàng cây, có cái g̣ cao,
giống h́nh người đang ngồi. Bạn
thấy chưa? Đó là cái g̣ mối, nhưng người
ta đồn đăi là mộ của một cô gái
rất linh thiêng. Bây giờ ḿnh thử đến
đó xem sao. Chúng
tôi đi băng qua đồi. Đường rất
khó đi nên phải đẩy bộ chiếc xe
gắn máy, có khi phải khiêng qua những những
tảng đá lớn chắn lối hay những rănh sâu.
Cuối cùng th́ chúng tôi cũng đến nơi.
Đó là một căn nhà tranh vách ván, nằm dưới
một cây mít có tàng lớn che gần hết mái nhà.
Sau nhà là một khu vườn vuông vức mỗi
cạnh độ vài trăm thước, trồng cây
lưu niên làm hàng rào, trong vườn là những
luống khoai lang, khoai ḿ và bắp, góc vườn có
một giàn bầu hay bí ǵ đấy. Nhà vắng
tanh. Chúng tôi lên tiếng. –
Có ai trong nhà không? Một
người đàn ông từ sau bếp bước ra. –
Có tôi! Anh
ta khoảng trên bốn mươi, người hơi
ốm nhưng rắn rỏi, da sạm nắng, tóc
cắt ngắn, đôi mắt chơn chất sáng lên
niềm vui của kẻ sống cô độc
được có người đến thăm. –
Chào quí anh. Quí anh có chuyện ǵ mà lên chỗ hẻo
lánh nầy? –
Chúng tôi đi thăm mấy cái mộ đằng kia,
nhân tiện ghé thăm anh, định nhờ anh chút
chuyện. Anh
ta cười, đưa hàm răng vàng khè v́ khói
thuốc. –
Lúc mấy anh đi lên, tôi đă thấy rồi.
Vậy chứ mấy anh có thân nhân, bạn bè ǵ
nằm ở đó? –
Có ông bạn học…Lên thăm, và định xây
cho nó cái mộ cho tươm tất, để mộ
đất, lâu ngày, gió mưa trôi hết, sau nầy t́m
không ra. –
Mời hai anh vô nhà ngồi uống nước. Chúng
tôi bước vào. Đó là một ngôi nhà tranh
nhỏ tầm thường. Nhà ba gian, giữa là bàn
thờ, có tấm màn che. Bên trái là chiếc giường
nhỏ, có lẽ là chỗ ngủ của chủ nhà,
bên gối tôi thấy có mấy quyển sách, v́ phép
lịch sự tôi không nh́n kỹ sách ǵ nhưng như
thế chứng tỏ chủ nhà là người có
học và có thú vui đọc sách. Bên phải là
một căn buồng đóng cửa. Trước bàn
thờ là bàn nước bằng gỗ mộc, cũ
kỹ, để một b́nh tích trong trái dừa khô,
giúp cho nước giữ nóng được lâu,
mấy cái ly thủy tinh trên một dĩa lớn. Có
bốn cái ghế dựa để tiếp khách. Anh kéo
ghế mời chúng tôi rồi xuống bếp thổi
lửa nấu nước, pha trà. Chúng tôi ngồi nh́n
quanh, hỏi vọng xuống bếp. -Anh
sống một ḿnh sao? Anh
ta đi lên nhà trên. –
Tôi sống một ḿnh. Cũng hơn mười năm. –
Không buồn à? Kiếm một bà về ở chung
để có người chuyện tṛ, ốm đau c̣n
nương tựa nhau. –
Tôi có vợ rồi, nhưng vợ mất, tôi ở
vậy…thờ vợ. Tôi
pha tṛ. –
Anh có hiếu với vợ dữ! Cô vợ anh
chắc sẽ mỉm cười nơi chín suối
khi có được người chồng chung t́nh như
anh. Anh
ta chỉ cười, xuống bếp lấây ấm nước
lên, mở nắp b́nh tích, bỏ trà, chế nước
sôi vào. –
Sống một ḿnh cũng quen. Xuống phố
thấy xe cộ, người nói, ồn ào, chỉ
muốn về nhà cho yên tĩnh. –
Đất vùng nầy cằn cỗi, sao vườn
anh tươi tốt vậy? -Phải
xuống suối móc śnh lên đắp, mấy đời
như thế nên mới trồng trọt được.
Mấy anh đi thăm mộ ai ở đằng đó? –
Thăm người bạn, tử trận hồi
bảy lăm. Bởi vậy mới định
nhờ anh… Anh
ta ngồi lên giường, gác tréo chân, thong thả
vấn điếu thuốc lá. –
Thỉnh thoảng tôi có ghé thăm chừng, thắp
nhang, dọn cỏ mấy ngôi mộ đó. Mấy anh
định xây cho mộ nào? –
Có ông bạn học nằm đó. Cũng định
xây luôn cái khung chung quanh tất cả các ngôi mộ
rồi đắp thêm đất lên cho mưa lũ
khỏi trôi mất. Anh có thể giúp được
không? –
Có phải mấy anh định xây mộ cho ông phó hành
chánh nằm đó không? –
Sao anh biết? –
Tôi là lính pḥng thủ quận hành chánh. Nghĩa quân
tụi tôi với ông phó thân lắm. Đúng ra th́ ông
phó không có nhiệm vụ tác chiến, thiếu tá
quận trưởng bảo ông đưa gia đ́nh
về Sài g̣n, mục đích để khỏi
phải đánh nhau, nhưng ông phó chỉ gửi
vợ con đi c̣n ông ta th́ ở lại. Ôâng phó
bảo đă tốt nghiệp sĩ quan Thủ Đức
mà lại trốn chui trốn nhủi th́ nhục
lắm. Mời mấy anh dùng trà. Vẻ
dè dặt không c̣n trong cách đối xử của
anh ta. –
Các anh yên tâm. Nếu các anh muốn xây thêm cái
“khuỷnh” cho tất cả các ngôi mộ th́ tôi cũng
xin góp chút công. Tôi chỉ tính vật liệu thôi, không
tính tiền công. Bây giờ tôi đề nghị
thế nầy. Các anh ở lại đây nghỉ trưa,
chúng ta sẽ có th́ giờ bàn lại kỷ hơn
chuyện mồ mả. Tôi xin mời các anh một
bữa trưa. Chỉ kẹt là không có rựợu,
chớ c̣n mồi th́ lúc nào cũng sẵn sàng.
Bắt con gà rồi quơ bậy mớ rau thơm là
có ngay một nồi cháo. Hai anh cứ ngồi chơi,
đợi tôi. Hay là ra sau hè, có gió, mát hơn ở
trong nhà. –
Tụi tôi đâu biết nhậu, có cháo gà mà húp cũng
đủ khoái rồi. Hai
đứa tôi ra sau hè, tôi nằm đong đưa trên
vơng, người bạn ngồi trên cái ghế dài,
tựa vào vách nhà. Gió biển thổi lên mát rượi,
mấy con chim sâu hót trong bụi rậm, tiếng gió ŕ
rào trong cảnh vắng vẻ, tĩnh mịch… Đúng
là cơi thần tiên nơi góc núi. Hai đứa tôi
chuyện tṛ linh tinh một lúc, độ hơn
nửa giờ th́ anh ta bưng nồi cháo ra, đặt
trên một cái bàn nhỏ, thêm mớ chén, đũa,
vậy là chúng tôi vừa ś sụp vừa chuyện
tṛ. –
Bây giờ anh kể vụ bảy lăm, ở đây,
xảy ra những chuyện ǵ? Tụi tôi chỉ nghe
mang máng có đánh nhau dưới cầu kia, anh có tham
dự không? –
Có chứ! Khi có vụ di tản từ Cao Nguyên
xuống th́ ở quận, tụi tôi được
lịnh ứng chiến. Ông phó hành chánh, tức
bạn của hai anh, dẫn trung đội nghĩa quân
tụi tôi lên chốt trên kia. Tụi tôi đóng
ở đó được mấy ngày th́ có một
đại đội dù đến tăng cường.
Ông phó phối hợp với bên dù cho gài ḿn dưới
cầu đằng kia, chờ tụi hắn đến
th́ giật sập cầu và chận đánh. Một
toán nằm dọc bờ suối, phục ở
đó, chờ địch. Tôi và một anh nhảy dù
lo việc giật ḿn. Nhiệm vụ tôi hễ
bấm xong ḿn th́ lên chỗ g̣ kia nằm, theo dơi và
gọi máy báo cáo khi thấy địch xung phong lên núi.
Thế rồi, địch xuất hiện, chạy
một dọc cả chục chiếc xe lớn chở
đầy bộ đội. Tôi bấm ḿn giật
sập cầu, mấy anh nhảy dù thụt M72, cháy
mấy chiếc xe đi đầu, rồi xả súng
như mưa. Từ ngày tôi đi nghĩa quân,
thỉnh thoảng có hành quân lùng sục du kích, nhưng
việt cộng chỉ bắn mấy phát rồi
bỏ chạy, chứ chưa thực sự đụng
độ bao giờ. Đến lúc đó tôi mới
biết thế nào là đánh nhau. Ôi thôi! Súng nổ
khắp nơi, rầm trời, rầm đất. Tôi
ḅ lên chỗ g̣ mối nằm ḍm chừng để
báo cáo t́nh h́nh. Đến chiều th́ xe tăng
tụi nó đến. Đại bác của xe tăng
thụt phe ta chạy tứ tán, phải núp sau mấy
tảng đá, hi vọng tụi nó xung phong theo bờ
suối th́ nhào ra. Vậy mà chúng chỉ bắn
cầm chừng, đến tối, chúng vào giở nhà
dân bắt cầu, suốt đêm, sáng hôm sau chúng
đi mất tiêu. Coi bộ chúng không thiết đánh
nhau, chỉ lo chạy vô phía Nam mà thôi. Sáng đó
tụi tôi cũng thu dọn chiến trường, chôn
mấy người chết, băng bó người
bị thương rồi cũng di chuyển theo
đường núi về hướng Nam. Đến
tháng Năm th́ tan hàng, ai về nhà nấy. Tôi về
tŕnh diện chính quyền cộng sản, đi
học tập, nghĩa là đi nghe chửi, lao động
sản xuất rồi được về nhà. Tôi
về đây phụng dưỡng ông bà già.
Được năm năm hai ông bà qua đời, tôi
vẫn ở đây lo hương khói, chăm nom
mồ mả cha mẹ, vợ con cho đến bây
giờ. Ăn
xong chúng tôi phụ nhau dọn dẹp chén đũa.
Anh đem b́nh trà và ly ra. –
Trưa nào tôi cũng ra đây làm một giấc. Gió
mát lắm! Tôi
nh́n lên đồi, thấy cái g̣ mối giống h́nh
người ngồi xây lưng về phía chúng tôi. –
Tôi có nghe kể về chuyện cô gái chết nhưng
linh thiêng lắm. Anh biết chuyện đó không? –
Chuyện linh thiêng th́ tôi không tin, v́ đôi khi
chỉ là sự trùng hợp t́nh cờ. Nhưng
chuyện về cô gái đó th́ tôi biết rơ. V́ nó
xảy ra cùng lúc với vụ đụng độ mà
tôi vừa kể cho mấy anh nghe đó. –
Anh có thể kể vắn tắt cho tụi nầy
nghe được không? –
Chuyện chẳng có ǵ lạ lùng cả. Lúc đụng
độ th́ cái g̣ mối chưa cao và to như
vậy… Tôi
đoán chừng. –
Sau đó cái g̣ mới nổi lên giống h́nh cô gái
ngồi nên người ta thêu dệt nên một
chuyện linh thiêng, phải không? –
Cũng gần như thế. Trong toán nghĩa quân, có
một anh chàng là chồng của cô gái ở nhà
nầy, nên ông phó giao cho hai vợ chồng cái
chốt đằng kia, canh chừng địch. Coi như
vừa làm việc nhà vừa làm việc nước.
Hai người mới cưới nhau được có
nửa năm. Anh
ta trầm ngâm. –
Cô ta có bầu được ba bốn tháng. Lúc đụng
độ, cô ta không ở trên chốt mà ở nhà,
ở đây. Cô với cha mẹ nấp dưới
hầm nên vẫn b́nh yên. Sáng hôm sau, sau vụ đụng
độ, cả đơn vị, dù và nghĩa quân
theo đường núi vào Nam. Anh chàng nghĩa quân có
hẹn với vợ là sẽ quay lại. Nếu t́nh
h́nh khó khăn, nguy hiểm th́ anh ta sẽ về ban
đêm, điểm hẹn là cái g̣ đó. Thế nên,
khi thành phố bị địch chiếm, làng xă
bị kiểm soát, cô ta không hi vọng gặp
chồng ban ngày nên buổi tối cô ta thường
mang chiếc vơng, mùng mền ra ngoài chốt kia ngủ
để chờ chồng. Thường th́ cô ngủ
lại ở đó đến gần trưa mới vô.
Cha mẹ thấy cô mang bầu, thương con, cứ
để cho cô ngủ, khi nào thức dậy th́ vô nhà.
Bữa đó đến chiều, không thấy cô vào,
bà mẹ mới ra đánh thức con. Không ngờ ra
đến nơi th́ chỗ con gái nằm, mối
đă đùn lên ngập xác cô, như một nấm
mộ. Hai ông bà chưa biết tính sao th́ hôm sau,
mối phủ cao lên nữa, đành để
vậy. Hôm trước đó, cô gái đă than là
trong người khó ở, bị sốt, không chịu
ăn uống. Cha mẹ cản ngăn nhưng cô
vẫn lên chốt ngủ chờ chồng. Có lẽ cô
bị trúng gió hay trở bịnh bất ngờ, không
ai cứu giúp nên phải chết, vừa lúc mối
đùn g̣ ngập luôn xác của cô. –
Nhưng nghe nói cô linh thiêng lắm, anh có biết
tại sao không? –
Số là một năm sau đó, có chuyện xảy
ra dưới quốc lộ, chỗ đường ṃn
mà mấy anh dẫn xe vô lúc năy. Chuyện như
thế nầy. Một buổi tối, trời mưa
to, có chiếc xe khách chạy lên đèo. V́ mưa
quá lớn không thấy đường sá ǵ cả,
anh tài xế phải lái rất cẩn thận. Lúc xe
vừa định quẹo cua, đổ đèo th́
thấy một chị đàn bà, bụng mang bầu,
đi băng qua đường. Anh tài xế hoảng
kinh, vội thắng gấp rồi tḥ đầu ra
cửa xe chửi thề chị đàn bà là đui, là
ngu. Chị ta không nói năng ǵ cả, cứ lẳng
lặng đi qua rồi khuất trong mưa. Chửi
xong anh ta cho xe chạy. Nhưnh chưa kịp sang
số th́ thấy một chiếc xe tải chết máy,
nằm lù lù một đống, không đèn đóm,
không dấu hiệu ǵ cả. Nếu không v́ chị
đàn bà băng qua đường mà phải
thắng gấp, anh ta đă cho xe húc vào đít
chiếc xe tải chết máy nằm đó rồi,
chắc chắn là xe phải rớt xuống đèo.
Thật hú vía! Anh tài xế xuống xe, cứ hướng
chị đàn bà đă đi khuất mà vái lạy
rối rít. Không hiểu nghe ai kể mà anh tài xế,
ít lâu sau, ra kêu người nhờ xây cái miếu
chỗ khúc quanh suưt xảy ra tai nạn. Không may cho anh
ta, mới đổ gạch xuống đó th́ gặp
mấy ông công an xă đi ngang. Họ dừng lại
hỏi lư do xây miếu, hỏi giấy phép. Anh tài
xế kể lại chuyện xảy ra hôm trước,
nhưng chẳng ai tin. Vụ xây miếu bị ngưng.
Mấy ông công an kéo nhau lên chỗ g̣ mối, ông trưởng
công an xă rút súng bắn vào cái mộ để
thị uy “Chết là hết. Không có ma quỉ,
thần thánh ǵ cả. Cái mộ nầy sẽ bị
san bằng nay mai” V́ mấy ông đó đi nhậu
về, say quá nên khi xuống đồi, xe bị
lọt hố, ông trưởng công an xă bị găy tay.
Thế là người ta đồn rầm lên là ông
ta bị “Cô” vật. –
Tôi có đọc một truyện ngắn tương
tự. Có lẽ người ta dựa theo đó, cùng
với ḷng thương cảm cô ta mà thần thánh hóa
câu chuyện để người đời
truyền tụng. Anh
ta như không để ư lời tôi, kể tiếp. –
Ít lâu sau, anh tài xế được nhắn ra, cho phép
tiếp tục xây cái miếu, nhưng không ai dám giúp
v́ sợ bị bắt. Vừa may gặp tôi, tôi
thầu luôn. Xây xong miếu, tôi vào chùa, xin thầy
trụ tŕ viết cho một bài vị bằng chữ
nho. Phần trên để mấy chữ thật
lớn Anh Hùng, Liệt Nữ. Dưới đó là tên
cô gái và tên mấy anh lính chết trận. Tôi đem
đến thợ đá nhờ chạm cho một bia
nhỏ để thờ trong miếu. Thành ra, ngày
rằm, mồng một, xe cộ ngang qua đấy thường
dâng lễ vật, khấn vái, xin “Cô” phù hộ
đi đường b́nh an. –
Bộ anh nhớ hết tên mọi người
chết trên đó sao? –
Nghĩa quân là đồng đội, cùng đơn
vị bao nhiêu năm. Với các anh bên nhảy dù,
sống với nhau hàng tuần lễ, chỉ cần
nghe tiếng nói tôi cũng biết là ai, tên ǵ. Vả
lại phải nhớ tên mấy người đă
chết, để sau nầy thân nhân đi t́m mà
chỉ cho họ. Thấy
trời đă về chiều, tôi bàn đến
chuyện xây mả, anh ta đề nghị. –
Nên xây từ từ, không cho chính quyền biết,
hết tiền tôi sẽ ghé nhà quí anh lấy thêm. –
Anh đừng lo, tôi là Việt kiều, anh cứ tính
công vào cho ṣng phẳng. Chẳng bao nhiêu mà ngại. Tôi
để tiền lại, anh cứ ghé bạn tôi mà
lấy. Tôi
nhờ anh ta đưa chúng tôi ra thăm g̣ mối là
mộ của cô gái. Trông không khác bất cứ g̣
mối nào ở trong rừng, nhưng rất to, kích thước
cũng cỡ một ngôi nhà nhỏ. Đứng
gần th́ không h́nh dung được, nhưng
nếu lùi ra xa, đi ṿng phía bên kia, sẽ thấy
giống h́nh một người đàn bà với mái
tóc dài, ngực lớn, ngồi xây mặt vô núi. Có
một cái nấm nhỏ hơn, giống đứa bé
ngồi tựa vào ḷng mẹ. Tôi hỏi. –
Trông giống Ḥn Vọng Phu, nhưng sao Ḥn Vọng Phu
nầy lại xây mặt vô núi? Anh
ta có vẻ đăm chiêu. –
Hai mẹ con chờ người trong núi ra. Buổi
chiều âm u, cảnh vật im ĺm, tôi cảm thấy
rờn rợn, tưởng chừng cái nấm mộ
vĩ đại giống h́nh người kia cũng có
linh hồn, có cảm giác và đang lắng nghe chúng tôi
chuyện tṛ. Tôi nói. –
Đáng lẽ phải đem nhang ra đây… –
Vô nhà cúng cũng được. Trong đó có
thờ cô ta. Khi
vào nhà, chúng tôi xin được thắp nén nhang,
lễ trước bàn thờ tổ tiên, thân nhân
của chủ nhà. Anh ta vén tấm màn che bàn thờ lên
và lấy nhang, quẹt diêm đốt, trao cho chúng tôi.
Tôi thấy trên bàn thờ có để h́nh hai người
lớn tuổi, có lẽ là cha mẹ anh ta. Phía trước
là h́nh một cô gái, diện mạo b́nh thường,
hơi mập, mặt tṛn, nụ cười hiền lành,
chất phác. Cạnh h́nh cô ta là h́nh một người
thanh niên. –
Có phải h́nh thờ bên cạnh là chồng cô
ta không? -Đúng
rồi! Vợ chồng phải thờ bên nhau cho có
đôi. Tôi
nh́n h́nh người đàn ông, thấy ngờ
ngợ như gặp ở đâu? Nghĩ măi một lúc,
quay nh́n anh ta…hóa ra là h́nh của chính anh. -Ủa,
anh chưa chết mà sao lại thờ, hay là h́nh người
khác? –
H́nh của tôi đó! Cô ta là vợ tôi. Khi cô ấy
mất, tôi về đây phụng dưỡng cha
mẹ vợ. –
Nhưng sao anh lại thờ chính ḿnh? Anh
cười buồn, đôi mắt xa xăm. –
Khi học tập cải tạo, cán bộ bảo
rằng nước Việt Nam Cộng Ḥa không c̣n
nữa. Tối đó, tôi nằm khóc suốt một
đêm. Tôi biết, thế là hết. Đất nước
tôi, quê hương, bản quán của tôi đă
bị người ta chiếm mất rồi! Cán
bộ nói rơ là chúng tôi đáng tội chết, chúng
tôi không c̣n là người dân nước Việt Nam
nữa. Chúng tôi sẽ bị kiểm soát, theo dơi như
những người tù. Bạn
bè, đồng đội, đứa nào cũng
buồn, không muốn gặp mặt nhau! Tôi như người
lính duy nhất c̣n sống sót, lang thang giữa một
vùng quen thuộc nhưng không c̣n nơi để
trở về. Cảm tưởng rơ rệt nhất là
khi tôi đứng trước quận hành chánh nh́n vào.
Quận đường vẫn nguyên vẹn, vọng gác
trước cổng, nơi tôi thường ngồi gác
vẫn c̣n đó, nhưng tôi không c̣n quyền yêu thương
nơi đó nữa. Tôi đă bị xua đuổi
khỏi quê hương tôi. Tôi
sống một ḿnh ở đây nhưng lại
cảm thấy được gần gũi với bao
người thân yêu chung quanh. Thỉnh thoảng tôi ra
ngồi tâm sự với vợ con tôi ở g̣ mả
ngoài kia. Khi th́ tôi qua bên kia đồi, cạnh các ngôi
mộ, chuyện tṛ với đồng đội
nằm dưới đó. Tôi nghe được,
hiểu được những ǵ các bạn nói
với tôi. Tôi nghe cả tiếng cười đùa
của họ, nghe cả tiếng lách cách của súng
đạn va chạm nhau, ngửi được cái mùi
lính, mùi quen thuộc của mồ hôi thấm vào
áo trận. Tôi ngồi đó để cảm
thấy được an toàn đồng đội như
những lúc hành quân, những ngày đóng chốt cũng
như khi đụng độ với giặc. Tôi
ngồi đó để tưởng nhớ nước
Việt Nam Cộng Ḥa thân yêu của tôi. Tôi để h́nh tôi trên bàn thờ là coi như ḿnh đă chết theo với nước Việt Nam Cộng Ḥa của tôi. Tôi chỉ sống lây lất, lo nhang khói cho đồng đội, cho cha mẹï, vợ con. Khi nào thực sự nhắm mắt th́ tôi đă có sẵn cái huyệt mộ, gần vợ con tôi, ngoài kia. Phạm Thành Châu |