| 
       Trợ
      chiến hạm Nơ Thần (Nguyễn Văn Trụ) HQ
      225 Trong
      số những chiến hạm của Hải Quân
      Việt Nam Cộng Ḥa, Trợ Chiến Hạm có
      lẽ là loại chiến hạm có mặt từ ngày
      thành lập HQVNCH và tiếp tục hoạt động
      cho đến ngày VNCH kh6ng c̣n là một quốc gia.
      Trợ Chiến Hạm là tên Việt cho các tàu đổ
      bộ loại LSSL (Landing Ship Support Large) của HQ Hoa
      Kỳ.
 Trong thời kỳ Thế Chiến thứ hai, HQ Hoa
      Kỳ đă sử dụng nhiều loại chiến
      hạm đổ bộ gọi chung là Landing Ship như
      LST (Landing Ship Tank), LCT (Landing Craft Tank), LSD (Landing Ship
      Dock)..sau đó phát triển thêm những loại LCI (L)
      =Landing Craft Infantry (Large)… Những LCI này được
      gắn nhiều loại súng khác nhau từ phóng rocket,
      súng cối, đại liên, đại bác… Và sau cùng
      được bổ sung và phát triển hơn
      nữa thành một loại chiến hạm có cấu
      trúc lớn hơn, trang bị hỏa lực mạnh hơn
      để trở thành đúng nghĩa là một
      chiến hạm LCS (L) với tên phụ là Mighty Midget.
 
 Khi Thế Chiến II chấm dứt 123 chiếc LCS(L)
      ở trong t́nh trạng c̣n hoạt động
      được, sau đó do nhu cầu của cuộc
      Chiến Tranh 'Lạnh' giữa hai khối Tự Do và
      Cộng Sản, các LCS(L) được đưa ra tái
      sử dụng dưới kư danh mới LSSL và Hoa
      Kỳ đă viện trợ những chiến hạm này
      cho các quốc gia đồng minh như Pháp, Ư,
      Nhật, Đài Loan.. qua các chương tŕnh quân viện như
      Mutual Defence Assistance, SecurityAssistance.
 
 Trợ Chiến Hạm trong Hải Quân Pháp
      tại Việt Nam:
 
 Trong chiến tranh VN, Pháp đă nhận được
      quân viện từ Hoa Kỳ và Hải Quân Pháp cũng
      nhận một số chiên hạm để sử
      dụng tại chiến trường Đông Dương.
 
 Ngày 25 tháng7 năm 1950, 6 chiếc LSSL được bàn
      giao cho Pháp tại Puget Sound: đó là những chiếc
      LSSLs 2, 4, 9, 10, 28 và 80. Sau chuyến hải hành vượt
      Thái B́nh Dương, các chiến hạm này cặp
      bến SàiG̣n vào ngày 17 tháng 9. Lúc đầu HQ Pháp
      đánh số các chiến hạm này từ 1 đến
      6, nhưng sau đó (cuối 1951) đổi thành các
      số 9021 đến 9026 và đến 1953 dùng tên các
      vơ khi thời Trung Cổ để đặt cho các
      chiến hạm này. (Trước đó HQ Pháp đă có
      3 chiếc LSSL, với 6 chiếc mới nhận HQ Pháp
      có được 9 LSSL để sử dụng trên
      chiến trường Đông Dương).
 
 Các chiến hạm của HQ Pháp mang những tên:
      Arbalete (9021), Arquebuse (9022), Hallebarde (9023), Javeline (9024),
      Pertuisane (9025), Rapière (9026) và vào 1953 thêm 3 chiếc
      được Hoa Kỳ chuyển cho Pháp là những
      chiếc Etendard, Oriflamme và Framée.
 
 Các LSSL được dùng để yểm trợ cho
      các Dinassault (Hải đoàn xung phong) trong các trận
      đánh chống lại lực lượng Việt
      Minh tại những vùng sông rạch Bắc VN như các
      khu vực Sông Đáy, Sông Hồng. đồg thời
      hoạt động tuần pḥng ven biển từ Trung
      ra Bắc và trên sông Cửu Long tại miền Nam.
 
 Trong thời gian từ 1952-1954, các chiến hạm này
      đă yểm trợ nhiều cuộc hành quân của
      Lực lượng Liên Hiệp Pháp.
 
 Sau khi Hiệp Định Geneve được kư
      kết, phân chia VN thành hai miền, chiến hạm
      Pertuisane đă được dùng để chuyên
      chở người di cư từ Bắc vào Nam.
 
 Trợ Chiến Hạm của Hải Quân VNCH:
 
 - Các Trợ Chiến Hạm do Pháp chuyển giao: Khi vai
      tṛ của Pháp chấm dứt, họ đă chuyển
      một số chiến hạm trong đó có các LSSL cho
      Việt Nam.
 
 Chiếc Arbalète là Trợ Chiến Hạm đầu
      tiên được chuyển giao cho HQVN vào ngày 12 tháng
      10 năm 1954 tại Sài G̣n. HQVN đổi tên chiến
      hạm này thành Nỏ Thần HQ 225. Với giai đoạn
      đầu của tổ chức HQVN chưa đủ
      nhân lực và c̣n thiếu kinh nghiệm để
      điều hành nên tuy được chinh thức xem là
      một chiến hạm của VN nhưng vẫn do sĩ
      quan và thủy thủ đoàn (25 người) Pháp
      kiểm soát và điều hành, thêm vào đó là 30 nhân
      viên HQVN .xem như 'học nghề'. Đến
      khoảng cuối năm 1955, chiến hạm trở thành
      'không thể hải hành' nên được giải ngũ,
      chuyển cho Đài Loan để phế thải,
      lấy những cơ phận c̣n dùng được.
 
 Chiếc Arquebuse được chuyển giao vào năm
      1955 và trở thành Linh Kiếm HQ 226.
 
 Chiếc thứ ba được Pháp chuyển lại
      là chiếc Framée, chuyển vào tháng 3 năm 1956, và
      thay thế cho chiếc Arbalete phế thải, HQVN
      vẫn dùng tên Nỏ Thần HQ 225 đặt cho
      chiếc này.
 
 Trong giai đoạn đầu của cuộc chiến
      tranh chống Cộng, các chiến hạm này theo Đ/Tá
      Đỗ Cẩm ghi lại: 'LSSL là những chiến
      hạm thật sự chiến đấu đầu tiên
      mả HQVN tiếp nhận và là niềm hănh diện
      cho HQVN. Hỏa lực của chiến hạm thật
      ghê gơm nhất là khi yểm trợ cận mục
      tiêu. Chiến hạm gây kinh hoàng cho VC trong những năm
      50-60, và giúp rất nhiều cho các cuộc hành quân
      tại các vùng sông ng̣i khi khả năng của KQVN và
      Pháo binh c̣n giới hạn..'
 
 Các Trợ Chiến Hạm do Mỹ chuyển giao: Ngoài
      3 Trợ Chiến Hạm kể trên, Hoa Kỳ cũng
      chuyển giao cho HQVNCH 4 chiếc nữa để
      tổng số Trợ Chiến Hạm lên đến 7
      chiếc. Từ 1957, HQVNCH đă dùng tên các chiến sĩ
      HQ hy sinh để đặt cho các Trợ Chiến
      Hạm:
 
 HQ 225 Nguyễn văn Trụ
 
 HQ 226 Lê Trọng Đàm
 
 HQ 227 Lê văn B́nh
 
 HQ 228 Đoàn Ngoc Tảng
 
 HQ 229 Lưu Phú Thọ
 
 HQ 230 Nguyễn Ngọc Long
 
 HQ 231 Nguyễn Đức Bổng
 
 
 Đặc tính chung của các Trợ Chiến
      Hạm:
 
 -Trọng tải trung b́nh 250 tân, tối đa 384
      tấn
 
 -Kích thước: dài 158 ft, rộng 23.7 ft
 
 -Vận chuyển: hai máy diesel, mỗi máy 1600 mă
      lực
 
 -Vận tốc trung b́nh 14 hải lư/giờ, tối
      đa 16.5 hải lư/giờ
 
 -Hỏa lực: 1 đại bác 76.2 mm, 4 khẩu 40 mm, 4
      khẩu 20 mm và nhiều đại liên.
 
 -Thủy thủ đoàn: 60-70 người
 
 Vai tṛ và Nhiệm vụ cũa Trợ Chiến
      Hạm:
 
 Trong những năm 1950, các Trợ Chiến Hạm
      thuộc HQ Pháp hoạt động trên chiến trường
      Đông Dương thường được giao
      những nhiệm vụ như tuần pḥng ven
      biển, và do hỏa lực trang bị trên tàu khá
      mạnh nên được dùng vào việc yểm
      trợ cho các cuộc hành quân thủy bộ. Những
      'dinassaut' của Pháp gồm một số chiến
      đỉnh nhỏ như LCT, LCM và LCVP gắn thêm
      nhiều đại liên, súng cối để tăng
      hỏa lực..Khi hành quân thường có thêm một
      LSIL để dùng làm nơi đặt Bộ Chỉ
      Huy, và khi có mặt của Trợ Chiến Hạm th́
      chiếc này sẽ giữ nhiệm vụ đó. Đài
      chỉ huy của Trợ Chiến Hạm khá cao, giúp tăng
      được tầm quan sát nhưng lại trở thành
      mục tiêu bị địch quân nhắm bắn.. Các
      nhân viên quan sát trên pháo tháp dễ bị 'băn
      sẻ'. Các Trợ Chiến Hạm rất hữu
      hiệu trong công Tác bảo vệ các đoàn tàu
      thuyền cần di chuyển trên những ḍng sông
      bị CQ phục kích.. Lực lượng Việt Minh
      trong thời gian này chưa có những vũ khí
      nặng để gây tổn hại cho các đoàn công-voa
      trên sông. Nguy hiểm nhất chỉ là ḿn thả trôi
      hoặc đặt vào tàu để phá hoại.
      Một số cuộc đụng độ giữa
      lực lượng VM và Pháp trên những vùng sông ng̣i
      dều đưa đến những tổn thất
      nặng cho VM như các trận phục kinh trên Sông
      Đáy (11-1952), trận giải vây Mao Khê (23-3-1951),
      chiến dịch Phủ Lư-Ninh B́nh (29-5-1951) giữa các
      SĐ 308 và 304 VM và Dinassaut 3 của Pháp.
 
 Trong những năm 1953-54, các Trợ Chiến Hạm
      Pháp đă đụng độ rất nhiều
      trận với VM.tại những khu vực Phát
      Diệm, Bùi Chu, Thanh Hóa, Hưng Yên và những
      tiền đồn dọc Sông Hồng.
 
 Sau Hiệp định Geneve, HQ VN tiếp nhận hai
      Trợ Chiến Hạm từ người Pháp và
      tiếp tục sử dụng các tàu này theo kiểu HQ
      Pháp, nghĩa là tuần ven biển, sông rạch và
      yểm trợ hành quân thủy bộ.
 
 Từ 5-19 tháng 6, 1955, các giang đoàn xung phong 22, 23 và
      25 được sử dụng trong các cuộc hành quân
      dẹp các lực lượng quân đội Giáo phái
      Ḥa Hảo trong khu vực Cần Thơ, Long Xuyên.
      Bộ Chỉ Huy chiến dịch được đặt
      trên Chiến hạm Nỏ Thần.
 
 Về nhiệm vụ tuần duyên, từ tháng 12-55,
      Nỏ Thần được giao nhiệm vụ
      tuần tra ven biển từ Vũng Tàu đến Mũi
      Băi Bùng.
 
 Vai tṛ yểm trợ hỏa lực và tiếp vận
      cho các tiền đồn xa xôi nơi vùng sông rạch
      giảm dần khi Không Quân VNCH lớn mạnh, các phi
      vụ Skyraider và trực thăng vơ trang được
      sử dụng nhiều hơn.
 
 Trong những tháng đầu năm 1970, các Trợ
      Chiến Hạm trỡ thành lực lượng chính
      bảo vệ các đoàn tàu tiếp tế cho Kampuchea
      trên thủy lộ Pnnompenh-NeakLuong. Chuyến tiếp
      vận sau cùng được thực hiện vào ngày
      30 tháng Giêng 1975.
 
 'Dự án Hải sử' (Vũ Hữu San) đă
      viết về sự hữu hiệu của Trợ
      Chiến Hạm và giang pháo hạm như sau:
 
 ' Trong ṿng 25 năm chiến tranh, loại Trợ
      Chiến Hạm LSSL là loại chiến hạm có
      hỏa lực mạnh nhất trong sông ng̣i VN, kế
      đó là các Giang phao hạm. Khi hành quân phối
      hợp với lực lượng bạn, hai loại tàu
      này thường được dùng như soái hạm
      lưu động cho CHT hành quân. Với hỏa
      lực hùng hậu, chiến hạm yểm trợ
      hải pháo rất đắc lực khi tiến quân.
 
 Tuy vậy đôi khi tại vùng đồng bằng sông
      Cữu Long, các tàu này đă được sử
      dụng vào các công Tác tuần tiễu sông ng̣i. Lâu lâu
      cấp chỉ huy c̣n dùng hai loại tàu này thường
      trực để yểm trợ cho lực lượng
      diện địa ven sông. Trong công Tác này chiến
      hạm thường đơn độc nên dễ dàng
      bị địch phục kích khi giang hành và cả khi
      neo lại nghỉ ngơi.
 
 Hạm đội HQVNCH được tổ chức
      thành 3 Hải Đội (Tuần duyên, Chuyển
      vận và Tuần dương). Giang pháo hạm
      thuộc Hải đội 1, tuần duyên (gồm
      cả các PGM=Tuần duyên hạm và LSIL=Giang pháo
      hạm).
 
 Victor Croizant (Đại Tá TQLC Hoa Kỳ) trong 'The Brown
      Water Navy' đă viết một bài 'tiêu biểu' về
      hoạt động của Giang Đoàn Xung Phong 23 trong
      trận Hàm Luông 4 tháng 10 1965 như sau: 'Chiến
      hạm HQ 226 được giao nhiệm vụ tuần
      giang trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long
      trong các tháng 9 và 10, 1965. Các báo cáo từ Cố
      vấn Mỹ ghi nhận chiến hạm đă yểm
      trợ cho 3 công Tác trục vớt các tiểu đỉnh
      bị ch́m, yểm trợ hải pháo cho 9 cuộc hành
      quân, cho hai chuyến tiếp liệu và tuần tra
      đơn độc 9 chuyến.Hoạt động
      đặc biệt hữu hiệu nhất của HQ 226
      là yẩm trợ cuộc hành quân của Giang đoàn
      23 trong cuộc đổ quân cho TĐ 41 BĐQ tại
      Hàm Luông, Kiến Ḥa ngày 4 và 5 tháng 10. Trong trận này
      21 chiến sĩ BĐQ và HQ hy sinh cùng 57 bị thương..
      Cuộc hành quân bắt đầu từ 7 giờ sáng,
      xuất phát tại Bến Tre. BĐQ dùng tàu xuôi ḍng
      để đổ bộ vào khu vực t́m và
      diệt một lực lượng VC đă bao vây
      tấn công một tiền đồn và xă ấp
      đêm hôm trước. Thời tiết không cho phép dùng
      trực thăng để đổ quân như dự
      trù.Lực lượng giang đoàn tiên công lúc 11
      giờ sáng, hộ tống bởi một phi cơ quan
      sát của LQ HK. Phi cơ không ghi nhận được
      hoạt động của CQ. Lúc 12 giờ , HQ 226
      dẫn đầu khởi pháo vào một mục tiêu
      nghi ngờ, lập tức VC nổ súng dự dội vào
      đoàn tàu từ bờ bên phải và vào HQ 226 từ
      bờ trái.Hai LCM chở quân trúng đạn, một
      ở t́nh trạng gần ch́m phải kéo: cả hai
      ủi băi vào bờ trái, BĐQ đổ bộ và
      tạo một ṿng đai pḥng thủ, các tiểu
      đỉnh tạm rút chỉ HQ 226 trụ lại để
      yẩm trợ cho toán BĐQ và phi cơ được
      gọi đến để oanh kích..Các LCM trở
      lại đổ thêm quân tiếp viện. HQ 226 ở
      lại chiến trường suốt đêm..Sáng 5/10,
      lực lượng VNCH thanh toán chiến trường.
 
 Lược sử và hoạt dộng của các
      Trợ Chiến Hạm:
 
 1) HQ 225 Nguyễn văn Trụ:
 -Chiến
      hạm được khởi đóng ngày 27 tháng Giêng
      1945 tại cơ xưởng Commercial Iron Works, Portland
      (Oregon).-Hạ thủy ngày 7 tháng Hai, 1945.
 -Gia nhập HQHK ngày 5 tháng 3, 1945 và nhận kư hiệu
      USS LCS(L)(3)-105 sử dụng cho Lực lượng
      trừ bị.
 -Danh hiệu đổi thành Landing Ship Support Large USS
      LSSL-105 vào ngày 28 tháng Hai, 1949.
 -Chuyển cho Lực lượng Tuần Duyên Ryukyu ngày
      12-03-1952
 -Chuyển cho HQ Pháp ngày 28 tháng 12, 1953 , được
      đặt tên là RFS Framée.
 -Chuyển cho HQ VNCH năm 1957, cũng đặt tên là
      Nỏ Thần (HQ 225) , sau đó năm 1970 đổi tên
      thành Nguyễn văn Trụ. (HQ Trung Úy Nguyễn văn
      Trụ, Khóa 2 HQ/VN hy sinh trong một trận đánh
      thuộc chiến dịch Nguyễn Huệ tại Long
      xuyên vào tháng 12/1955).
 -Bị đặc công CS đánh ch́m ngày 30 tháng 7 năm
      1970
 
 Vài hoạt động của HQ 225:
 
 (Danh số HQ 225 đă được dùng cho hai
      LSSL,chiếc thứ nhất tiền thân là Arbalète.
      Hoạt động của Nỏ thần (LSSL-2)
      được tóm lược trong phần trên).
 -Từ
      1956-57, HQ 225 thứ nh́ thay cho chiếc thứ nhất
      phế thài, vẫn được đặt tên là
      Nỏ Thần, nhận những nhiệm vụ như
      tuần tra trên sông Cửu Long và dọc duyên hải
      Nam VN từ Vũng Tàu đến Hà Tiên, bảo
      vệ các thuyền đánh cá VN trong khu vực
      Vịnh Thái Lan chống các vi phạm của
      Cambodia.  -
      16 tháng Hai-1969 HQ 225 dùng hải pháo giúp đẩy lui
      cuộc tấn công của VC tại Vĩnh Long và 28 tháng
      11 cũng đẩy lui cuộc phục kích của VC
      tại Tam Giang, Đầm Dơi.-Từ 1970, HQ 225 được đặt dưới
      sự chỉ huy của Hải đội tại Căn
      cứ Năm Căn. Rạng sáng ngày 30 tháng 7 năm
      1970, HQ 225 thả neo, cột giây tại căn cứ Năm
      Căn, nơi cửa sông Bồ Đề, và bị
      đặt ḿn phá hoại, phát nổ lúc 2 giờ sáng.
      Tàu ch́m nhanh xuống đáy nước. Hạm Trưởng
      Nguyễn Ngọc Quyền kể lại: ' Tôi cho
      lệnh đào thoát, bỏ tàu khi nước ngập
      1/3 tàu trong vài phút; một số thủy thủ không
      thoát kịp v́ lo thu nhặt vật dụng cá nhân' . Công
      cuộc tiếp cứu tuy diễn ra nhanh chóng, tuy nhiên
      17 nhân viên thũy thủ đoàn bị mất tích và
      được xem là hy sinh theo tàu.. Do nước
      chảy xiết và khu vực kém an toàn nên việc
      trục vớt chiến hạm không được
      thực hiện. Điều tra sau đó t́m thấy
      những sợi dây nylông dài cột theo dây neo và tàu
      bị ch́m do đặc công 'thủy' VC gài ḿn.
 
 Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng trong 'Năm Căn, vùng
      xôi đậu' đă kể lại vụ ch́m tàu như
      sau: 'Đêm thứ hai của một chuyến nghỉ
      bến sau đó, giữa lúc Hải và Trung sĩ Hoan
      đang đội mưa đi từ câu lạc bộ
      về pḥng, th́ bỗng giật ḿnh v́ hai tiếng
      nổ liên tiếp kinh hồn xen lẫn với
      những tiếng sấm chớp ầm ầm của cơn
      mưa miền nhiệt đới, cả hai chạy
      vội ra cầu tầu. Cảnh náo loạn hăi hùng
      đang diễn ra trước măt mọi người:
      chiếc LSSL, nằm giữa gịng sông, nghiêng hẳn phía
      tả hạm; trên boong chính nhân viên nhôn nháo, cố
      kiếm cách nhảy xuống..Chiếc PCF trực
      ứng chiến rà đến. Hải và Hoan cũng
      vội vă nhảy xuông PCF của ḿnh, gỡ dây,
      nổ máy phóng ra chiến hạm, chỉ đủ th́
      giờ cùng chiếc PCF trực, đón được
      một số nhân viên và vị hạm trưởng
      ..vẫn c̣n ngơ ngác chưa hoàn hồn v́ chấn
      động của tiếng nổ..'
 
 2) HQ 226 Lê Trọng Đàm:
 
 -Khởi đóng ngày 5 tháng 7, 1944 tại George
      Lawley&Sons Corp. Neponset, MA.
 -Hạ thủy: 15 tháng 7, 1944
 -Gia nhập HQHK ngày 11 tháng 8 1944 , nhận kư hiệu
      USS LCS(L)(3)-4
 -Hoạt động trong khu vực Thái b́nh dương
      trong Thế chiến 2
 -Đ́nh động sau thế chiến, lưu giữ
      tại LL Trừ bị (Columbia Reserve Group, Astoria OR
 -Nhận kư hiệu mới USS LSSL-4 ngày 28 tháng Hai, 1949.
 -Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950 đổi thành RFS
      LSSL-2 và sau đó thành RFS Arquebuse (L-9022)
 -Chuyển cho HQVN năm 1955, đổi tên là RVNS Linh
      Kiếm (HQ-226) và sau đó đổi thành Lê Trọng
      Đàm
 -Bị đánh ch́m ngày 3 tháng 10, 1970
 
 Vài hoạt động:
 
 HQ 226 Linh Kiếm được giao nhiệm vụ
      thuộc Hải lực HQVN. Một trong những
      nhiệm vụ của Lực lượng này là
      tuần pḥng trên sông và yểm trợ cho các Giang
      đoàn xung phong trong các cuộc hành quân.
 
 Vai tṛ yểm trợ của Trợ Chiến Hạm
      được chứng minh cụ thể trong trận
      Hàm Luông (4-5 tháng 10, 1965): Trong trận này Giang đoàn
      Xung phong 23 được giao nhiệm vụ đổ
      bộ TĐ 41 BĐQ gần khu vực Bến Tre nơi
      sông Hàm Luông (Kiến Ḥa) để t́m và diệt
      một TĐ Công quân hoạt động tại đây.
      Chiến hạm Linh Kiếm đă được
      sử dụng làm hỏa lực yểm trợ, giúp
      đẩy lui lực lượng Cộng quân đang
      phục kích đoàn tàu từ cả hai ven bờ.
 
 HQ 226 cũng nhận nhiệm vụ tuần tra trên sông
      Sài G̣n bảo vệ tàu thuyền di chuyển qua khu
      vực Rừng Sát.
 
 Trong năm 1968, HQ 226 Linh Kiếm luôn luôn 'bận
      rộn'. Hạm Trưởng Lê văn Rạng điều
      khiển chiến hạm tham dự nhiều cuộc hành
      quân trong khu vực sông Cửu Long, kể cả
      yểm trợ bảo vệ các tỉnh, thị xă
      trong Tết Mậu Thân. Từ 3 đến 5 tháng Hai,
      HQ 226 ngăn chặn các cuộc tấn công của VC vào
      Vĩnh Long từ ngă sông Cổ Chiên. Riêng trong
      thời gian từ cuối tháng Giêng đến đầu
      tháng 3/68, Chiến hạm đă yểm trợ hỏa
      lực trong 36 vụ đụng độ với CQ..
      do những chiến công này Đ/Úy Rạng đă
      được ân thưởng huy chương Bronze
      Star with Combat V của TT HK.
 
 Ngày 6 tháng 5, 1968, HQ 226 bị VC phục kích trên sông
      Cổ Chiên từ cả hai bên bờ. Chiến hạm
      phản kích diệt nhiều VC để chỉ
      bị tổn thất nhẹ với 5 chiến sĩ
      bị thương.
 
 Ngày 3 tháng 10 năm 1970, HQ 226 trong khi đang thả neo
      trên sông Cổ Chiên, đă bị đặc công
      thủy VC bơi lặn, thả trôi xuôi gịng từ
      Cồn Giai, đặt ḿn vào giây neo. Vụ nổ gây
      một lỗ hổng lớn nơi mũi tàu, gây
      tử thương cho hai thủy thủ và làm tảu
      ch́m sâu dưới 8m. Chiến hạm bị hủy
      bỏ và không được trục vớt.
 
 3) HQ 227 Lê văn B́nh:
 
 -Khởi đóng ngày 10 tháng 8, 1944 tại George Lawley
      & Sons Corp, Neponset, MA
 -Hạ thủy: 19 tháng 8, 1944
 -Gia nhập HQ HK ngày 10 -9- 1944, kư hiệu USS LCS(L)(3)-10
      sau đó đưa vào đ́nh động trong Lực
      lượng HQ Trừ Bị thuộc Hạm đội
      Thái B́nh Dương. Kư hiệu được đổi
      thành USS LSSL-10 ngày 28 tháng Hai, 1949.
 -Đưa ra tái hoạt động và chuyển (cho mượn)
      cho HQ Pháp ngày 15 tháng 8 năm 1950, đặt tên là RFS
      Javeline (L-9024)
 -Pháp trả lại HK vào năm 1955
 -HK chuyển cho Nhật ngày 7 tháng 5, 1956, đặt tên
      là JSDFS Hinageshi.
 -Nhật trả lại HK và HK chuyển cho HQVN ngày 15
      tháng 9,1956 và trở thành HQ-227 Lê văn B́nh. (HQ Trung Úy
      Lê văn B́nh, Khóa 10 HQ/Nha trang thuộc GĐ 28 XP,
      tử trận tại Cà Mau năm 1965 khi chiếc LCM 6
      chở Pháo Binh đi hành quân bị trúng ḿn.)
 -Bị ch́m ngày 2 tháng 10, 1966.
 
 Vài hoạt động:
 
 Vào lúc 2 giờ 31 sáng ngày 2 tháng 10, 1966: HQ 227 thả
      neo ở khoảng 800 m trên sông, phia Tây Căn cứ
      Giang đoàn27 ở Mỹ Tho. Chiến hạm đă
      bị đặc công VC (giả dạng binh sĩ Điạ
      Phương Quân đi trên tàu) đặt ḿn phá
      hoại. Hai quả ḿn phát nổ gây tàu ch́m, nhưng
      v́ mực nước không sâu nên phần boong c̣n trên
      mặt nước. Nhân viên cơ khí đă dùng bơm
      để tháo nước, vá tạm lỗ thủng
      để đưa tàu lên mặt nước. HQ Trung
      Tá Trần văn Triết, Tư lệnh GĐ 27 đă
      trực tiếp chỉ huy cuộc trục vớt, sau
      đó HQ 227 được LCM 8 kéo về Sai Gon để
      sửa chữa, nhưng v́ tổn thất quá nặng
      nên đành bị phế thải.
 
 4) HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng:
 
 -Khởi đóng 7-7-1944 tại George Lawley & Sons corp
 -Hạ thủy: 17-8-1944
 -Gia nhập HQ HK 6 tháng 9, 1944. Kư hiệu USS LCS(L)(3)-9
 -Tham dự các cuộc hành quân trong vùng biển Thái b́nh
      Dương, sau đó được đ́nh động
      và tồn trữ trong LL Trừ bị.
 -Kư hiệu đổi thành USS LSSL-9 ngày 28-9-1949
 -Chuyển cho HQ Pháp ngày 15-8-1950, thành RFS Hallebarde (L-9023)
 -Trả lại HK năm 1955
 -HK chuyển cho Nhật (7-5-56) đổi tên thành JFDSF
      Asagao
 -Nhật trả lại HK để HK chuyển cho HQVN
      (15-9-56) để trở thành HQ 228 Đoàn Ngọc
      Tảng
 -Di tản đến Philippines (4-1975), HQ Phi đổi tên
      thành RPS La-Union (LF-50), dùng lấy cơ phận và
      phế thải vào năm 1980.
 
 Vài hoạt động:
 
 - 4 tháng 6-1967, HQ 228 giúp đẩy lui cuộc tấn công
      của một đại đội VC vào đồn
      Đức Mỷ, khoảng 26 km phia Nam Vĩnh Long, và
      ngày 17 tháng 6 , HQ 228 cùng hai PBR giúp giữ vững
      tiền đồn Lo Xe bị hai ĐĐ VC bao vây.
 
 5) HQ 229 Lưu Phú Thọ:
 
 -Khởi đóng ngày 6 tháng Giêng,1945 tại Commercial
      Iron Works, Portland Oregon
 -Hạ thủy 27-1-45
 -Gia nhập HQ HK 13-2-45, kư hiệu USS LCS(L)(3)-101
 -Đ́nh động và tồn trữ trong LL Trừ
      bị Astoria OR
 -Đổi kư hiệu (28-2-49): USS LSSL-101
 -Chuyển cho HQ Nhật (30-4-53) thành JDS Tsutsuji
 -Nhật trả lại HK để chuyển cho HQ VN
      (28-4-56) trở thành HQ 229 Lưu Phú Thọ (Khóa 10 HQ/NT)
 -Di tản sang Philippines (4-75), phế thải để
      lấy cơ phận rời.
 
 Vài hoạt động:
 HQ
      229 ngoài những nhiệm vụ yểm trợ hành quân,
      lịch sử chiến hạm c̣n có thêm một
      'sự kiện' đặc biệt: Tháng 12, 1966 Hạm
      Trưởng HQ 229 nhận được lời yêu
      cầu của một quận trưỏng (bạn thân
      của Hạm Trưởng) chở tiếp liệu
      đến cho một tiền đồn trong vùng xa xôi
      nơi VC bao vây cắt cả đường bộ
      lẫn đường sông. Đây không phải là
      nhiệm vụ của chiến hạm. Trong chuyến
      tiếp tế này tàu c̣n chở thêm 1 ḅ đực và
      4 ḅ cái để binh sĩ tiền đồn nuôi thêm,
      làm thực phẩm dự trữ. Chuyến đi
      gặp trở ngại do sóng gió nên hai con ḅ sút giây,
      chạy loạn trong tầu và bị gẫy chân; tuy
      cả 5 con đều đến được
      tiền đồn nhưng tin bị lộ nên Hạm
      Trưởng bị truy tố ra ṭa án Quân Sự
      về tội danh 'chở súc vật trái phép'. Hạm
      Trưởng sau đó được miễn tố nhưng
      vẫn bị phạt.
 6) HQ 230 Nguyễn ngọc Long:
 
 -Khởi đóng 18-12-44 tại Commercial Iron Works
 -Hạ thủy 6-1- 45
 -Gia nhập HQ HK 24-1-45 kư hiệu USS LCS(L)(3)-96
 -Hoạt động tại vùng Thái B́nh Dương
 -Đ́nh đông và đổi kư hiệu (28-2-49) thành
      USS LSSL-96
 -Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Shobu
 -Trả lại HK để chuyển cho VN ngày 28-4-65
      trở thành HQ 230 Nguyễn ngọc Long
 -Di tản đến Philippines (4-75) HQ Phi đổi thành
      RPS Sulu (LF-49)
 
 7) HQ 231 Nguyễn Đức Bổng:
 
 -Khởi đóng 5-12-44 tại George Lawley & Sons Corp.
 -Hạ thủy 13-12-44
 -Gia nhập HQ HK 31-12-44 kư hiệu USS LCS(L)(3)-129
 -Hoạt động trong khu vực Viễn Đông Thái
      B́nh Dương cho đến đầu năm 1946
      để đ́nh động và xếp vào LL Trừ
      Bị.
 -Đổi kư hiệu thành USS LSSL-129 (28-2-49)
 -Chuyển cho Nhật (30-6-53) thành JDS Botan
 -Trả lại HK 28-4-65 và HK chuyển cho HQVN ngày 19-6-66
      để trở thành HQ 231 Nguyễn Đức
      Bổng. (HQ Trung Úy Nguyễn Đức Bổng, Khóa 10
      HQ/NT hy sinh năm 1965 tại Băi Ngao, Kiến Ḥa).
 -Di tản sang Phi (4-75) trở thành BRF Camarines Sur (LF-48)
 
 Chuyến hải hành sau cùng của các Trợ
      Chiến Hạm:
 
 Trong tổng số 7 Trợ Chiến Hạm của
      HQVNCH, ngoài 3 chiếc bị ch́m do đặc công VC
      đặt ḿn, 4 chiếc c̣n lại đều di
      tản được sang Philippines.
 
 HQ 228:
 
 -Thàng 4-1975: HQ 228 Đoàn Ngọc Tảng do HQ Thiếu
      Tá Nguyễn Hoàng Be làm hạm trưởng được
      điều động về công tác tại Vùng 4 Sông
      ng̣i với nhiệm vụ chính yếu là yểm
      trợ Hạm đội 21. Chiến hạm thường
      xuyên hoạt động tại căn cứ HQ Cần
      Thơ.
 
 -HQ 228 Tách bến Cần Thơ lúc 00 giờ 20 ngày 30
      tháng 4-75 mang theo Phó Đề Đốc Đặng
      Cao Thăng, Tư lệnh Hạm đội 21 cùng
      Bộ Tham mưu, trên chiến hạm c̣n có Chuẩn tướng
      Chương Dzềnh Quay, Tham mưu trưởng Quân
      đoàn 4. Chiến hạm trên đường ra
      biển dù 'trên máy PRC-46 của tàu vẫn phát lời
      kêu gọi cũa Tướng Nguyễn Khoa Nam..các quân
      nhân không được tự ư rời nhiệm
      sở..' Chiến hạm..giữ im lặng vô tuyến
      trên suốt thủy lộ đường ra biển.
      HQ 228 đến điểm tập trung ngoài khơi Côn
      Sơn và theo đoàn chiến hạm HQVN hải hành
      đến Subic Bay.
 -HQ
      228 đến Phi mang theo 149 người trong đó có
      37 nhân viên thủy thủ đoàn..
 HQ 229:
 -HQ
      229 Lưu Phú Thọ do HQ Th/Tá Vương Thế
      Tuấn lảm Hạm trưởng rời VN theo
      Cửa Tiểu đến Subic Bay với 37 người
      gồm 34 thủy thủ và 3 người tị
      nạn (?)
 -HQ 230:
 Trong
      những ngày cuối cùng của VNCH, HQ 230 được
      Bộ tư lệnh Hạm đội biệt phái cho
      Bộ Tư lệnh Vùng 4 Duyên Hải.cùng 3 chiến
      hạm khác là các Giang pháo hạm HQ 330 và 331, Tuần
      duyên hạm HQ 602. Tư
      lệnh V4 Duyên Hải là Đại Tá Nguyễn văn
      Thiện. Hạm trưởng HQ 230 là Thiếu Tá
      Nguyễn Nguyên. Cuộc
      di tản ngày 30 tháng 4 của Vùng 4 Duyên Hải đă
      được ghi nhận với nhiều điểm
      trái ngược của những người trong
      cuộc.
      
       -
      Đại Tá Thiện trong bài hồi kư '4 chiến
      hạm di tản từ đảo Phú Quôc ' (Trang Lưu
      niệm Khóa 7 Đệ Nhất Thiên Xứng) ghi
      lại: Ông đă họp với các Hạm trưởng
      của 4 Chiến hạm để định điểm
      hẹn là ngoải khơi cách Ḥn Thơm chừng
      một hải lư về phía Tây. Ông đă dùng LCM 8
      để cùng gia đ́nh rời Bộ Tư lệnh
      sau khi họp tuyên bố giải tán Vùng 4 Duyên
      Hải, đến HQ 230 và di chuyển ngay về Poulo
      Panjiang. Ông cho biết là 8 giờ sáng ngày 1 tháng 5,
      một số gần 40 PCF từ Hải đội 5
      Duyên Pḥng (Năm Căn) và HĐ 4 DP do ḍ t́m tần
      số trên máy PRC-25 nghe được sự liên
      lạc giựa 4 chiến hạm nên đến với
      đoàn tàu (?) và được vớt lên các
      chiến hạm di tản. Đoàn tảu 4 chiếc do
      HQ 230 dẫn đầu, theo sau là HQ 330 gịng theo HQ 331 (dùng
      làm chiến hạm dự trữ) và sau cùng là HQ 602
      hải hành về hướng Singapore.
 - Trong bài 'Trong cảnh sống c̣n' phổ biến trên
      nhiều website hải ngoại và trong tập sách
      'Một thuở làm trùm' tác giả Nguyễn Tấn Hưng,
      Trưởng Pḥng 2 Bộ Tư lệnh V4 Duyên Hải
      đă ghi lại nhiều điều khác biệt hơn:
      ..' Trợ Chiến Hạm HQ 230 vừa kéo neo, chúng tôi
      chạy ra vừa kịp lúc. Cho ghe rà lại bên hông
      định cặp nhưng bị bắn đuổi. Tôi
      nh́n lên đài chỉ huy thấy ông hạm trưởng
      Nguyễn Nguyên (mới vài ngày qua dă đich thân lên
      xin tôi bản đồ vùng TBD). Tôi tin tưởng
      ở ḿnh, đưa tay vẫy rồi kêu to:
      Commandant..cho tụi tôi lên với.. nhưng bị
      bắn đuổi..'
 -Tác
      giả Nguyễn Hữu Duyệt trên HQ 330 ghi lại
      trong' Vùng 4 DH những ngày cuối' (Lướt sóng 40)
      : 'Sau khi Tách bến HQ 330 chạy ṿng quanh phía Nam Phú
      Quốc để phối trí và đến điểm
      hẹn là Ḥn Khoai, vớt được khoảng 400
      người. HQ 331 bị cháy cả hai máy, bất
      khiển dụng, trên tàu có khoảng 300 người nên
      được HQ 330 kéo theo, dự trù sẽ chuyển
      số người này khi gặp được
      một dương vận hạm. HQ 330 dẫn đầu
      toán. Kéo theo HQ 331, sau đó là HQ 230 và HQ 602 đi
      về Singapore. Sau khi bị Singapore từ chối không
      cho tị nạn, đoàn tầu quyết định
      đi về Úc'.. Ông viết tiếp: ' Tôi nghĩ
      chiếc HQ 230 phải là chiếc dẫn đầu v́
      có vị TL V4 DH trên đó và ông đă hứa là
      sẽ dẫn đoàn tàu đến nơi đến
      chốn với kinh nghiệm của ông..nhưng HQ 330
      vẫn được chỉ định dẫn đầu
      chạy với một chân vịt nhưng lại kéo
      thêm HQ 33, kế đó là HQ 230 và sau cùng là HQ 602.
      
       -
      Theo Đ/Tá Thiện: 'Đoàn tảu chúng tôi rời
      An Thới với 4 chiến hạm và gần 3000 người,
      đến Subic bay với 3 tàu và khoản 2500 người
      tỵ nạn..' Tuy nhiên, trong List of RVNN ships evacuated to
      the Philippines on April 30, 75 (ht*p.Hoangsaparacels.blogspot.com) th́ các
      con số do HK ghi nhận như sau:
      
       -HQ 230: mang theo 145 người gồm 40 thủy thủ
      đoàn và 105 người tị nạn. HQ 330/ 331.. không
      rơ số người nhưng chắc chắn không
      thể có 2500 người trên hai tàu này.
 Con số của Đ/Tá Thiện có lẽ bao gồm
      cả số người trên Tàu Trường Thanh (trên
      tàu có Tướng Lân TQLC cùng bộ tham mưu) cũng
      ghé Singapore xin tị nạn nhưng sau đó tự t́m
      đường đi Philippines (?).
 HQ
      231: Chiến
      hạm HQ 231 Nguyễn Đức Bổng, do HQ Đ/Úy
      Nguyễn văn Phước làm Hạm trưởng,
      trong thời gian tháng 4 năm 1975 được tăng
      phái cho vùng 2 Duyên hải, giữ nhiệm vụ
      hộ tống và bảo vệ các Dương vận
      hạm trong khi làm công tác chuyẻn vận và di
      tản thường dân và các đơn vị quân
      đội thoát khỏi các vùng CQ sắp chiếm.
      Cuối tháng 4, HQ 231 di chuyển về Căn cứ
      Đồng Tâm và sau đó được giao
      nhiệm vụ ngược ḍng Mekong về Cù lao An
      Long (Long Xuyên), biệt phái cho Bộ Chỉ huy Liên
      giang đoàn án ngữ tại Tân Châu. Tối 29-4 ,
      chiến hạm được lệnh về Đồng
      Tâm, Mỹ Tho..Sáu giờ sáng 30, khi đến Đồng
      Tâm, căn cứ đă bị CQ nằm vùng khống
      chế, HQ 231 chạy quanh Mỹ Tho-Đồng Tâm và
      khi có lệnh 'buông súng' của DVM, chiến hạm
      chạy ra biển theo đường Cửa Tiểu,
      rồi đến Côn sơn và sau cùng đi Subic bay. HQ
      231 đến Phi với 126 người gồm 58
      thủy thủ và 64 người tị nạn.
      
       Người
      chuyển: HẢI LƯ |