Chuyện Buồn Người Vợ Tù Cải Tạo Trần Thanh Minh |
Tôi
trở về nhà với một thân xác ră rời,
một đầu óc rỗng không, biếng ăn,
mất ngủ, chả nói năng ǵ, mắt mở to mà
không nh́n thấy ǵ. Tôi đă phải ra, vào nhà thương
Chợ Quán mấy lần. Rất may cho tôi và các con là
lúc đó tôi có một cô em và một người
bạn lo lắng và chăm sóc mẹ con tôi tận t́nh. Vài
tháng sau, tôi nhận được 2 thùng quà trả
lại với hàng chữ “Người nhận đă
chết. Trại yêu cầu hoàn.” Đến bưu
điện lĩnh 2 gói quà xong, vừa ra đến
cửa tôi lại ngất đi. Rất may có anh
bạn hàng xóm đạp xe xích lô đang chờ
để chở tôi về nhà. Tới bữa ăn,
nh́n bốn đứa con ngồi ăn ngon lành với
tóp mỡ ngào đường và nước mắm,
quà của bố trả lại, nước mắt tôi
lại chảy như mưa. Rồi tới gần
cả năm sau, phường trưởng mới
cử đại diện đến chia buồn và
đưa cho tôi biên bản “phạm nhân chết”. Nhờ
mảnh giấy này mà mẹ con tôi mới được
đi Mỹ theo diện HO. (Tôi vẫn c̣n giữ
mảnh giấy này, xin gửi kèm theo đây để
mọi người biết “tội ác” của
chồng tôi!) Can tội: Giảng viên tâm lư chiến xă
hội học Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà
Lạt. "Án phạt tù: 3 năm"; nhưng khi
chết đă 3 năm 7 tháng. Nếu họ đúng
lời chắc chồng tôi không thể chết. Thế
là xong, là tuyệt vọng cả đời. Lúc đó
tôi sống cũng như chết rồi, nhưng v́
bốn đứa con nhỏ, chúng đâu có tội t́nh
ǵ. Bên nội bên ngoại ai cũng muốn nuôi dùm 1,
2 đứa nhưng tôi không thể nào chịu
được nếu để 1 đứa con xa tôi.
T́nh thương con đă thắng cái “điên”
của tôi để lo lắng cho chúng nhưng với
phường khóm th́ tôi thật là một “mụ
điên dữ dằn”. Tôi không chịu đi họp
tổ, họp phường ǵ cả. Công an khu vực
tới tận nhà bắt đi họp. Tôi nói: “Người
mà các anh thấy có tội là chồng tôi th́ anh đă
chết rồi, tôi và 4 con nhỏ không c̣n ǵ phải
họp với hành nữa”. Lúc
trước ḿnh ngu nên cứ tin là phải họp hành
cho tốt th́ họ xét cho chồng về sớm. Nay tôi
không c̣n ǵ để sợ nữa th́ họ lại
để tôi được yên thân. Tôi
bắt đâu tính chuyện vượt biên, mấy
mẹ con dắt díu nhau đi t́m đất hứa không
biết bao nhiêu lần. Hết đi từ Nhà Bè, Vũng
Tàu, Mỹ Tho đến Rạch Giá, Sóc Trăng nhưng
đều không thoát, ở tù cũng mấy lần.
Xuống ghe ra biển lại thấy hối hận v́
thương con, chưa thấy thoát mà chỉ thấy
chết tới nơi. Bị bắt tù đày th́
lại càng hối hận hơn v́ các con không có
thức ăn, nước uống chỉ có một ca
nhỏ. Trong trại chỉ có 1 cái ao tù, ăn cũng
đó mà tắm giặt cùng nơi. Bẩn thỉu không
thể tả cho nên trẻ con không bị đau
bụng ỉa chảy th́ cũng ghẻ lở ghê
hồn. Tôi sợ quá đến không dám nghĩ đến
đi nữa. Phải cậy nhờ xin đi dạy
lại dù biết là nhà giáo chỉ húp cháo thôi. Nhưng
dù sao đi nữa cũng c̣n có chỗ để mua
“nhu yếu phẩm” và được “thầu”
để bán quà cho học tṛ trong trường. Thời
gian này tạm ổn định, lo cho các con tới trường
cũng phải chạy chọt v́ “nhất thân, nh́
thế” của xă hội lúc bấy giờ. Phận
ḿnh th́ xong rồi, bạn bè tôi c̣n rất nhiều có
chồng đang tù tội. Thỉnh thoảng chúng tôi
họp nhau để “lá rách nát đùm lá tả tơi”
đứa nào có thứ ǵ cho tù ăn được
th́ mang tới gom lại để chia cho những
bạn sắp đi thăm. Trong cái t́nh đó tôi
lại thấy được nhiều sự đau
khổ mà người vợ tù phải chịu đựng
nhục nhằn mà không ai có thể chia xẻ với
họ. Chẳng hạn như một chuyện rất
thật của một người bạn thân của
tôi, chúng tôi đă chia sẻ từng bó rau muống
từng chén nước mắm “muối + nước
màu” cho các con ăn. Từng viên đường
thẻ để mang vào tù cho chồng. Chỗ
chồng bạn tôi ở lại có “nhà hạnh phúc”
và các anh tù phải làm việc thật tốt th́ cán
bộ mới cho phép gặp vợ tại đó.
Lẽ dĩ nhiên chồng bạn tôi làm khổ sai
cật lực để được ân huệ
đó. Chị cũng là một cô giáo, sống
rất đạo dức và thành tín, thương
chồng vô cùng, nhưng khi vào thăm đă thấy
“nhà hạnh phúc” có mấy cái trơng tre và mấy
anh cán bộ ngồi canh. Chị đă không thể
“cho anh” và điều này đă khiến anh nổi
giận nghĩ là chị đă có “ai khác” ngoài
đời. Chị đă bị anh chửi bới tơi
bời c̣n ǵ thê thảm hơn nữa không? Thời
gian đă qua tôi hy vọng anh đă thông cảm
với chị về cái “không thể cho anh” đó.
Mặc dù giờ th́ anh chị cũng đă xa nhau,
thật là một điều rất đáng tiếc. Lại
thêm một cô bạn láng giềng, may mắn có ông
chồng được thả về sau bảy năm
tù tội. Những tháng ngày trong lao tù khiến con người
cũng thay đổi nhiều lắm. Dễ nóng
giận và mặc cảm đầy ḿnh. Một hôm cô
bạn tôi được nhà nước cho mua một
khúc vải may quần với giá rẻ dành cho các công
nhân viên nhà nước. Cô mang về khoe nói là bán
đi sẽ lời được sáu ngàn đồng.
Ông chồng lại muốn may để mặc v́ ông
ta thấy cũng cần phải có một cái quần
mới. Bạn tôi ngần ngại nửa muốn cho
chồng may, nửa muốn bán đi để thêm tư
tiền lo cho gia đ́nh nên nói với chồng: “Khúc
vải này sáu ngàn lận đó anh.” Chưa nói
dứt lời là bạn tôi bị một cái tát tai
choáng váng mặt mày, sự việc xảy ra quá
sức tưởng tượng của mọi người.
Anh chồng rất hối hận về hành động
vũ phu của ḿnh; tuy nhiên anh vẫn đổ
lỗi cho bạn tôi cái tội “coi cái quần hơn
chồng”. Đó lại là một trong muôn ngàn
cảnh ngộ trớ trêu của vợ tù
"cải tạo". Thắm
thoát đă qua 7 năm lúc này cuộc sống mấy
mẹ con tôi đă dễ thở v́ chị em bạn bè
ở ngoại quốc đă bắt đầu gửi
tiền về cứu trợ. Tôi được
mẹ chồng cho theo đi để bốc mộ
Anh. Tâm trạng tôi thật rối bời và lo sợ
liệu bốc lên có phải là Anh không hay lại là
mồ của ai khác?!! Trên đường đi cũng
không kém gian nan cực khổ như khi đi thăm nuôi
tại Kà Tum. Lần
đầu tiên trong cuộc đời, tôi mới
biết bốc mộ là ǵ và nhất là thấu
hiểu được câu nói “cát bụi trở
về với cát bụi”. Thịt da đă tan vào
với cát, chỉ c̣n bộ xương trắng mà các
bạn anh đă từ từ cầm lên từng cái
đầu, xương vai, xương cổ ống
tay ống chân, và ngay cả những đốt xương
nhỏ họ cũng ṃ t́m cho đủ. Một
sợi dây làm bằng giây thép nhỏ, cái mặt làm
bằng kính máy bay có h́nh dáng 2 người đứng
bên nhau đă được anh bạn lấy lên trao
cho tôi và nói chính chồng tôi đă làm để
tặng cho tôi khi nào tôi lên thăm gặp mặt. Anh
đă phải cất giấu bao ngày v́ nếu "cán
bộ" thấy là bị tịch thu ngay. Rất may
là có mẹ tôi và người cháu lo lắng lấy rượu
rửa xương rồi quấn vào vải bỏ vào
trong một cái bị to để chúng tôi mang về .
C̣n tôi ngồi chết cứng với nước
mắt rơi sầu tủi. Xót thương anh! Trên
đường về mới gặp toán người
thăm nuôi. Gặp cô bạn cũng đi với
mẹ già, đang chuyển quà từng khúc một, tôi
chạy lại đỡ một tay. Khi tôi dắt bà
cụ qua một người tù đang cuốc đất
dưới ruộng, ngẩn nh́n và khẽ gọi
mẹ. Tôi quay lại giúp cô bạn c̣n vài giỏ
đồ ăn, chúng tôi vừa đi ngang th́ lại
nghe anh ta gọi “em Liễu”. Cô bạn tôi nghe tên,
ngoảnh mặt lại nh́n và lại bỏ đi luôn.
Chạm mặt nhau rồi mà Liễu vẫn không
nhận ra. Tới khi anh ta quên cả sợ "cán
bộ", chồm lên đường kêu “Liễu.
Anh đây”. Lúc đó bà cụ cũng đă trở
lại và nhận ra con, cụ khóc oà ôm lấy anh tù,
c̣n Liễu cũng khóc nhưng la “Không phải anh mà,
không phải anh đâu”. Người chồng yêu quư
v́ tháng năm đói khổ phải ăn khoai ḿ nên
mặt anh ta biến dạng v́ quai hàm bạnh ra và
nhựa độc của khoai ḿ làm cho tất cả
tù nhân đều có cái mặt vuông gần giống
nhau cả. Tôi cũng không cầm được nước
mắt lại nghĩ rằng chắc chồng tôi c̣n
sống th́ mặt mũi cũng chỉ như vậy
mà thôi. Từ
trại về chỉ có độc nhất một
chiếc xe đ̣, mọi người ngồi chật
cứng trong xe, c̣n có nhiều người phải
đứng bám vào cửa xe rất là nguy hiểm.
Mẹ con tôi về đến ga Vinh là trời đă
tối, lại ôm cồng kềnh một cái bị hài
cốt của chồng tôi. Ngồi sân ga đợi tàu
rất là nguy hiểm v́ mẹ con tôi nhơ ngác
với xứ lạ quê người. Mẹ tôi
phải lấy giây buộc cái bị và cuốn quanh
người. Chỉ sợ lỡ mất đi th́
khổ lắm. Tôi hồi hộp sợ hăi c̣n hơn
khi đi vượt biên nữa. Tôi đánh liều vào
nhà nghỉ mát của nhân viên xe lửa. Sau một lúc
nói chuyện gây cảm t́nh và nhờ có “thủ
tục đầu tiên” (xin trả tiền trước)
nên mẹ con tôi được vào tạm trú qua đêm
yên lành. Sáng hôm sau cũng nhờ có ông "quản lư"
nhà nghỉ đó mà chúng tôi được lên tàu
ở trong toa xe của các nhân viên đi nghỉ mát. Tôi
phải tin tưởng là chúng tôi đă có ơn trên
che chở nên đă mang thoát được bộ xương
của chồng tôi về đến nơi đến
chốn. V́ nếu không được ở trong xe
đó chắc chắn chúng tôi không thể thoát
khỏi xự khám xét trên tàu. Họ phát giác ra là có
xương người là lập tức đuổi
chúng tôi xuống giữa rừng hoặc quăng
bỏ mớ hài cốt đó. Sau đó lại
nằm xuống với nước mắt trào ra không
thể ngăn nổi v́ nhớ thương anh và
tủi phận ḿnh đơn độc. Hiện
tại th́ chồng tôi đă được yên
nghỉ tại nghĩa trang Thiên Chúa Giáo ở B́nh Dương.
Nhưng cũng không biết được bao lâu
nữa v́ họ c̣n tính dẹp cả nghĩa trang
mặc dù đó là đất tư mà gia đ́nh tôi
đă phải mua bằng những cây vàng lúc họ
dẹp nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi ngay trong thành
phố Saigon. Bốn
mẹ con tôi xuống phi trường Dulles vào một
buổi tối mưa tầm tă của tháng 6 năm
1994. Được gia đ́nh cô em ra đón, tôi
mừng quá nhưng vẫn chưa hết lo sợ, không
biết đây là thật hay mơ. Nỗi ám ảnh
bị bốc đi vùng kinh tế mới và sự không
nói có, có nói không của nhà nước công sản
đă khiến tôi mất hết niềm tin. Tôi
chỉ c̣n biết cầu Đức Mẹ ban cho tôi
một phép lạ. Chúng
tôi cố gắng học hỏi để hoà nhập
vào cuộc sống mới ở Mỹ. Nay các con tôi
đă lớn, đă thành đạt và rất
hiếu thảo. Chúng hết ḷng lo lắng, chăm sóc
tôi. Tôi thật măn nguyện, nhưng tôi biết tôi
không thể ôm giữ chúng măi được. Chúng
phải có cuộc sống riêng, hạnh phúc riêng. Dù
biết vậy, nhưng mỗi khi chúng vắng nhà, c̣n
lại một ḿnh tôi, tôi lại thấy sợ hăi.
Những năm tháng khổ cực, hăi hùng của
thời dĩ văng lại kéo đến ám ảnh tôi.
H́nh ảnh chồng tôi lúc oai hùng, mạnh mẽ trong
bộ quân phục, lúc rách nát, tả tơi, thoi thóp
trên chơng tre lại chập chờn quanh tôi. Tôi đă
th́ thầm với anh: “Đợi em đi cùng!” Vâng,
tôi ước mong được sớm ra đi b́nh yên
dể được xum họp với chồng tôi. Chúng
tôi chỉ mới được hưởng hạnh
phúc gia đ́nh có 4 năm 5 tháng. Tôi chắc chồng
tôi cũng nuối tiếc như tôi và đang chờ
tôi đi với anh. Chúng tôi phải nối tiếp
lại những ngày hạnh phúc ngắn ngủi xa xưa.
Tôi không thể sống măi trong cô đơn để
run sợ trước những ám ảnh của dĩ
văng và những nhung nhớ khôn nguôi người
chồng mà tôi măi măi yêu thương như buổi
đầu gặp gỡ! Kính
tặng Giáo Sư Tố Lan, người đă cho tôi
can đảm để thực hiện bài viết này. Trần
Thanh Minh |