Đời
Thuỷ-Thủ & Đêm Giang-Hành Lịch-Sử
Bài Viết của: Người Thuỷ-Thủ Già |
Lời
Phi Lộ:
Bài viết nầy không phải là một Hồi
Kư mà chỉ là một bài kể chuyện để
ghi lại nơi đây, kỷ niệm vui buồn
của những người đă hiến dâng, hy sinh
cả cuộc đời ḿnh để bảo vệ
tự-do cho đồng bào và sự vẹn toàn
của đất nước. Hơn 40,000 trai
trẻ đă hăng say t́nh nguyện đầu quân vào
Hải-Quân Việt Nam Cộng-Ḥa. Màu áo trắng
mặc trên người biểu tượng cho
niềm kiêu hănh và tánh cách lăng mạn của người
thủy-thủ. Bài
viết nầy để tưởng niệm HQ Trung Tá
Hà Ngọc Lương, người đă tự sát
với Gia Đ́nh trong ngày thất thủ Nha trang, nơi
đă đào tạo anh trở thành một
thủy-thủ kiêu hùng. Không
hiểu v́ cơ duyên hay định mệnh đă
đưa đẩy tôi từ một thư sinh
trở thành một sỹ quan có tinh thần trách
nhiệm, trung thành tuyệt đối với cấp
chỉ huy. Tôi là người sỹ quan cuối cùng
đứng bên cạnh Tư-Lệnh Hải-Quân trong
giai đoạn hiểm nguy để bảo vệ
an ninh, chia sẻ với ông sự lo âu, cân nhắc khi
quyết định vận mạng và sự vẹn toàn
của quân chủng Hải-Quân Việt Nam Cộng
Ḥa trong giờ phút lịch sử. Bài
viết nầy chỉ ghi lại một sự
thật, mắt thấy, tai nghe, thi hành theo lệnh, xài
“văn tếu” để pha tṛ và bảo đảm
hoàn toàn không có… gia vị. Nếu bài viết có làm“trật
khớp”của một vài tác phẩm (memoire) th́
Thủy-Thủ Già nầy trân trọng nghiêng ḿnh
xin lỗi. Tôi
tạm dùng kinh nghiệm cá nhân để làm cái sườn
ghi lại kinh nghiệm sống mà tất cả sỹ
quan Hải Quân Nha trang phải đương đầu
với tinh thần trách nhiệm, từ ngày đặt
chân vào quân trường cho đến khi thi hành
nhiệm vụ chỉ huy tại các đơn vị
Hải Quân. Bài
viết cũng ghi lại sự sáng suốt, cứng
rắn của các cấp chỉ huy Hải Quân,
đă duy tŕ được an ninh và trật tự, tránh
sự hỗn loạn trong giờ phút nghiêm trọng
cuối cùng. Cũng
cần nói lên sự kiên tŕ và tinh thần kỷ luật
thi hành nhiệm vụ của Quân Cảnh, nhân viên an
ninh của Bộ Tư Lệnh/HQ/Biệt Khu Thủ
Đô, đă vất vả pḥng thủ hai nút chặn
Mê Linh và Cường Để để ngăn
chặn biển người tràn ngập khu vực
Hải Quân. Các
SVSQ Hải Quân, triệt thoái từ Nha trang về, súng
trên vai, di hành trong ṿng trật tự, âm thầm qua
Sở Thú để thiết lập ṿng đai pḥng
thủ trong buổi chiều ngày 29/4 /1975. Thông
cảm với hàng chục ngàn sỹ quan, hạ
sỹ quan, đoàn viên Hải Quân, nhận lệnh
“tháo giây”, lái tàu tách bến Sài g̣n, đă
thổn thức, âm thầm gạt lệ bỏ
lại gia đ́nh, cha mẹ, vợ con để tham
dự chuyến Giang-Hành Lịch-Sử cuối
cùng. Virginia,
Ngày 30 Tháng 4 Năm 2014
NTTG Chương
I. Khởi
Đầu Cuộc Đời Hải-Nghiệp Tôi,
cũng như các thanh niên cùng lứa tuổi, phải
thi hành nghĩa vụ quân sự v́ đất nước
đang có nhu cầu phát triển quân đội. Anh em
chúng tôi, những người chưa từng quen nhau,
nhưng đă t́m được cùng chung một đáp
số. Chúng tôi đă giă từ đời sống dân
sự và chọn hải-nghiệp làm cứu cánh. Chúng
tôi rất lấy làm may mắn và hănh
diện khi được tuyển chọn vào Trường
Sinh Viên Sỹ Quan Hải-Quân Việt Nam Cộng Ḥa.
Tháng
3 năm 1959, tôi vừa đúng 20 tuổi, chúng tôi
mạnh dạn từ giă gia đ́nh “đứng lên
đáp lời sông núi”. Chúng tôi tŕnh diện
Trung-Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha trang bằng hai
nhóm, nhóm lính mới ṭ-te từ Sài g̣n và nhóm “ngoài
nớ” th́ xuất phát từ Huế. Chúng tôi
đều dùng xe lửa , trẩy Bắc xuôi Nam, để
đến Nha trang. Anh
em chúng tôi vẫn biết khi vào Quân Đội th́
phải chấp hành kỷ luật nhưng cũng
không tránh khỏi cái “shock” trong ngày đầu
đặt chân vào “ḷ luyện thép”. Mấy
chiếc GMC vừa đổ chúng tôi xuống kỳ
đài Trung-Tâm Huấn-Luyện th́ từ trong kư túc xá
SVSQ, một đám hải-tặc với gương
mặt “cô hồn” chạy ngược về hướng
chúng tôi, dẫn đầu là SVSQ/K8 Nguyễn Thế
Sinh. Anh em chúng tôi nhận thấy trong đám
nầy có một số bạn ngoài đời, riêng tôi
cũng nhận ra hai nguời bạn cũ, Nguyển
Minh Thơ và Tôn Thất Sanh. Chúng tôi cứ tưởng
bở, giơ tay ngoắc ngoắc miệng la thật
to để bắt bồ: “Hi there, what’s up
m…a…n!”. SVSQ/K8 Nguyễn Thế Sinh
với gương mặt hầm hầm đứng trên
kỳ đài ra lệnh: “Các anh theo lệnh tôi,
Ng.h.i.ê.m! Các anh vác hành lư lên vai và chạy theo tôi”.
Thế
là chúng tôi phải chạy ba ṿng sân vận động.
Mọi nguời thở hồng hộc, ḅ lê ḅ càng.
Chạy cạnh tôi có anh THV, người gốc
Miền Nam hơi cộc, xài ngay một tờ giấy
năm trăm, miệng bô bô chửi thề “.. ..
tụi nó làm tàng quá”. Sau đó không lâu anh Nam
Kỳ nầy được chúng tôi đổi tên
hắn là TH “Bô”. Ngày
đầu của đời lính chúng tôi được
SVSQ/K8 tiếp đón một cách nồng hậu với
màn chạy marathon để mở màn cho “giai đoạn
huấn nhục” mà khóa chúng tôi là vật trắc
nghiệm đầu tiên. Cái màn hạ nhục
nầy, dưới nhiều h́nh thức, vẫn
tiếp tục đều đều để g̣ ép
chúng tôi vào kỷ luật quân đội. Có
một đêm chúng tôi đang ngủ ngon lành th́ có
lệnh tập họp trước pḥng ngủ. SVSQ/K8
Nguyễn Thế Sinh, oai phong ra phết (v́ hắn là
ĐĐT/SVSQ) dơng dạc ra lệnh: “các anh, chia nhau,
“quỳ” hai bên đường, làm hàng rào danh
dự, từ đây đến
cải-hối-thất, c̣n hai anh lực lưỡng
theo tôi”. Hai bạn tôi, từ pḥng ngủ ra,
h́ hục khuân… “vua ba-gai” Trần Nhật Chinh
đi xuống nhà tù ngủ một đêm.
Những sự đày ải, hành hạ triền miên
nầy đă làm cho một anh em trong khóa chúng tôi tên
Cửu phải “drop out” v́ bịnh tâm thần. Sau
màn chạy bộ “dằn mặt” chúng tôi
được đưa vào cư trú ở từng
trệt của dăy lầu 2 tầng nằm sau Bộ
chi huy TTHL. SVSQ Khoá 8 th́ chiếm cứ tầng trên. Ngày
hôm sau là lễ nghỉ cuối tuần, thanks God!
Chúng tôi đuợc nghỉ để “get back to
shape” và có th́ giờ để quan sát địa
thế. TTHL/HQ Nha trang ở một vị trí lư tưởng
như một Trung Tâm Nghỉ Mát, phía trước trường
có băi biển cát trắng trải dài từ Cầu
Đá cho đến thành phố Nha trang. Sau trường
được trấn bởi dăy núi cao ngăn cách
bằng khu Đồng-Ḅ lầy lội, mà sau nầy
hằng đêm chúng tôi đă hướng dẫn
một toán tân binh đi qua Đồng-Ḅ lập
tổ phục kích. Cây
thùy dương cao vút, che phủ khắp khu vực
Trung Tâm Huấn Luyện, reo triền miên trong gió.
Nhiều đêm có gió to, biển động, sóng
vỗ ́ ầm ngoài băi biển, cộng với
tiếng ŕ rào phụ họa của lá thùy dương,
tạo nên một bản nhạc ḥa tấu thiên nhiên……thật
là buồn. Một
tháng qua đi, chương tŕnh huấn nhục
chấm dứt song song với lệnh “cấm
trại” đă được giải tỏa, Anh em
khóa tôi ‘đi bờ’ với cái cầu vai màu đen
(chưa gắn alpha). Chúng tôi đuợc chia thành 3 chi
đội, hai chi đội đi bờ và một chi
đội trực (thủ trại). Ra phố Nha trang
chúng tôi đă t́m được không khí tự-do,
thoải mái sau một tháng bị giam lỏng trong
trại. Sau
thời kỳ huấn nhục chấm dứt, chúng tôi
chú tâm nhiều đến các khóa học chuyên môn
cần thiết cho hải-nghiệp. Sống chung
với nhau trong một tháng th́ mỗi người
trong anh em chúng tôi đều được đặt
cho một cái “nickname” cho hợp với cá tánh
mỗi người. Anh Hà Ngọc Lương người
gốc miền Bắc thích ăn tiết canh, mấy
anh Nam Kỳ cười nhạo, HNL chống chế
“tiết canh giải nhiệt”. Thế là anh em
tặng cho anh ta cái biệt hiệu nầy. Mỗi người
đều có tên mới thay thế cho cái tên cha
mẹ đặt cho, thí dụ: Đằng Ấy,
Cả Đẫn, Perlon, Lotion Kata, TH Bô, v.v. Riêng tôi
cũng không tránh được cái số mạng.
Số là, khi c̣n ngoài đời tôi thấy Nguyễn
Minh Thơ và người bạn tên Hồng tập làm
“lực sĩ đẹp”. Thơ và Hồng có
bộ ngực rất nở nang. Tôi bắt chước
mua sách về ‘kéo tạ” mỗi ngày. Tôi
theo “bí kíp” tự luyện mà không có sư phụ
truyền khẩu quyết nên bị tẩu hỏa
nhập ma, bắp thịt ngực nở ít, bắp
thịt nách nở nhiều nên hai tay tôi không
“xếp” sát vào nguời được. Tôi có tướng
đi “kênh kênh”, ngạo mạn nên được
bạn đặt cho cái tên Thầy Gồng.
Bộ
chỉ huy TTHL/HQ có Thiếu Tá ĐCT làm Chỉ Huy
Trưởng, sau nầy ông đuợc thăng lên
chức Phó Đề Đốc. Ông nầy rất
nghiêm nghị, ít nói nhưng hiền từ. Chúng
tôi ít có dịp “chat” với ông v́ SVSQ nào cũng
muốn né tránh mặt trời. Thời gian sau,
Thiếu tá VHT về trường làm CHT/TTHL, thay
thế Thiếu Tá Th. được bổ nhiệm vào
chức vụ quan trọng khác. Hai mươi chín
(29) năm sau, tôi được gặp lại Phó
Đề Đốc ĐCT ở Orange County, CA khi tham
dự kỷ niệm 30 năm nhập khóa của
K8/SQ/NT. Thiếu
Tá VHT rất b́nh dân, tánh t́nh cởi mở. Thiếu
Tá T. củng tốt nghiệp trường Hải Quân
Pháp. Ông CHT mới nầy thích tiếp xúc với
đám SVSQ, ngược lại SVSQ cũng muốn
“lấy điểm” với ông anh cả nầy.
Mỗi chiều, sau giờ cơm, ông CHT thả bộ
hứng gió gần kỳ đài th́ đám SVSQ bu
lại, chào và gợi chuyện. Ông CHT được
dịp “xổ” bầu tâm sự. V́ ông là gốc
người Huế, phát âm rất nặng, nói
giọng quá thấp (lí nhí trong miệng) mà lại
“nổ” nhanh như trực thăng Cobra tác xạ.
Mỗi cuối câu ông ngừng giọng…hỉ ?..
hỉ? Mấy anh SVSQ ngẩn ngơ trả
lời….dạ, dạ. Tan hàng tôi hỏi ông nói ǵ
vậy? Đám SVSQ, gốc Sài g̣n, lắc đầu
trả lời: “chẳng hiểu cái… chi .
.chi”. Sỹ
quan kế tiếp mà chúng tôi thường có dịp
tiếp xúc đó là Đại Úy Nguyễn Văn
Ánh, giữ chức vụ Giám Đốc Quân
Huấn, sau nầy lên cấp Đại Tá. Đại
Tá Ánh là một trong số người mà tôi kính
mến nhất trong HQVN. Ông có gương mặt
hiền ḥa, ăn nói rất nhỏ nhẹ, và đặc
biệt là có nhiều thiện cảm với SVSQ.
Đời lính của tôi gặp Đại Tá Ánh
chỉ vỏn vẹn 3 lần ngắn ngủi: lần
đầu khi tôi c̣n là một SVSQ, lần thứ hai tôi
đi học Mỹ về, ông giữ chức
vụ TMT/HQ, và lần cuối cùng là trên chiếc PGM
của Đại Úy Trần Minh Chánh vào đêm 29 tháng
4 năm 1975. Ban
giảng huấn nhà trường th́ tôi c̣n nhớ
một số ít như: Trần văn Sơn, Lê
Phụng, Nguyễn tiến Ích, Hồ ngọc Ngà, và
Đặng đ́nh Hiệp. Các vị sỹ quan
nầy đều tốt nghiệp tại trường
Sỹ Quan Hải Quân Pháp. Người
sỹ quan cuối cùng ở trường Sỹ Quan
Hải Quân mà tôi xin tạm gọi là “Vua Kỷ Luật”,
người sỹ quan gương mẫu nầy, mà măi
sau nầy chúng tôi thương, tôn làm sư
phụ. Khi chúng tôi vào trường ông giữ
chức vụ CHT trường SVSQ. Ông nầy
biểu tượng cho kỷ luật, nghiêm
nghị, khô khan t́nh cảm, ít nói, không bao giờ cười.
Hàng tuần ông xuống thanh tra chúng tôi về quân
phục, pḥng ngủ, pḥng vệ sinh, v.v. để
bảo đảm sự sạch sẽ và ngăn
nắp. Hơn
hai năm thụ huấn tại trường SVSQ/HQ,
trong những ngày cuối tuần đi
bờ, đám SVSQ “quậy” nát phố phường
Nha trang, đưa đào đi thăm Tháp Bà cầu
duyên, Ḥn Chồng thề thốt hoặc đi ăn
nem nướng Ninh Ḥa, phở Chụt. Trong khóa tôi có
3 anh (HNL, NĐĐ và MVH), thả neo móc phải
đá ngầm, sau nầy xin về phục vụ
tại quân trường để được
gần…. quê vợ. Trong
khi đám đệ tử dùng chiến thuật đánh
mau đánh mạnh th́ sư phụ rút vào “Tuyệt
T́nh Cốc” ôm con tim giá lạnh nghiền ngẫm bí
kíp Tác Phong, quyết không… bắt chước
“tụi nó” , nếu không tụi nó giỡn mặt,
khó làm việc. Đến khi chúng tôi măn khóa ra
trường th́ sư phụ vẫn tuyệt đối
giữ vững với lời thề……..no
girlfriend! Nghe
thiên hạ đồn rằng, vài năm sau sư
phụ được đổi về Trường Vơ-Bị
Đà-Lạt làm giảng sư. Là tướng
giỏi cần phải biết khai thác thiên thời, địa
lợi, nhân ḥa. Cơ duyên đă tới, sư
phụ liền phất cờ ra quân. Đà
Lạt với khí hậu mát lạnh quanh năm, các
SQHQ đều mặc demi-saison với cấp bậc vàng
chói trên tay áo, cà vạt, casquette trắng có hoa lá cành
(quân phục mùa Đông của HQ). Từ một
sỹ quan khô khan t́nh cảm biến đổi thành
một người hào hoa, phong lưu giống như Richard
Gere trong phim An Officer and a Gentleman. Sư
phụ trở thành cây đinh làm cho
nhiều cô gái để ư. Ngày nghỉ cuối
tuần, xe của sư phụ lúc nào cũng chở vài
ba cô gái, nói năng líu lo, nũng nịu….biết
zồi, khổ lắm, nói măi! Nhưng
có một ngày đẹp trời, trên xe chỉ thấy
có một giai nhân, ông điều chỉnh
hải bàn, ôm tay lái hướng về Hồ Than
Thở. Trước phong cảnh hữu t́nh, ông
trịnh trọng cầm tay ngựi đẹp, nói qua
hơi thở… “would you marry me?”. Người
con gái trẻ đẹp đó hiện đang sống
hạnh phúc với sư phụ ở miền Nam Texas,
USA. Ba
tháng sau ngày nhập quân truờng, cầu vai màu đen
trên áo được tô điểm thêm cái Alpha vàng
ánh. Trường Sinh Viên Sỹ Quan Hải Quân lại
có thêm một khóa mới, Khóa Đệ-Nhất Nhân-Mă gọi
nôm na là Khóa 9 SQHQ/NT. Trong niềm vui rộn ră, anh em chúng
tôi mướn ngay xe đêm về Sài g̣n/Huế
nghỉ phép.
Thời
gian nghỉ phép qua nhanh, chúng tôi lại về quân trường
tiếp tục trau dồi hải nghiệp. Khóa
8/SQHQ làm lễ măn khóa ra trường và riêng chúng
tôi cũng bận rộn chuẩn bị cho kỳ thi
“lên lớp”. Sau một kỳ thi gay go, hồi
hộp, học ngày, học đêm, kết quả
đa số anh em chúng tôi được mang cấp
bậc Chuẩn Úy, chúng tôi cảm thấy hănh
diện, trưởng thành hơn trong vị trí
mới. Có vài anh em thiếu may mắn thi không đủ
điểm, phải “ra trường sớm” với
cấp bậc Trung Sĩ. Chúng
tôi làm lễ “khao lon”, tôi lănh phần trang trí.
Quan khách tham gia đông đảo, anh em mời đào
ngoài phố Nha trang vào dự rất đông, đặc
biệt có ca sĩ Thanh Thúy cùng đến chia vui.
Ca sĩ Thanh Thúy ở sát vách với nhà bác tôi
ở đường Cao Thắng, Sài g̣n, đối
diện với dẫy lầu 5 tầng. Thanh Thúy
dạo đó thường đêm đi hát tại các
vũ trường: Đại Nam, Arc en Ciel,
Ngọc Lan Đ́nh, v.v. Thanh Thúy là thần tượng
của tuổi trẻ thời đó và tôi cũng là
một trong số “fans”. Mỗi lần về phép,
tôi đến vũ trường để nghe nàng hát.
Trong ánh đèn mờ ảo của vũ điệu
“slow”, Thanh Thúy đứng hát trên sân khấu,
áo dài trắng, tóc xơa trên vai, cất tiếng hát
(giọng Huế) trầm buồn trông ….rất liêu
trai. Mùa
Hè năm 1961 là ngày quan trọng nhất trong cuộc
đời binh nghiệp của chúng tôi. Chúng tôi làm
lễ măn khóa dưới sự chủ tọa
của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Thủ khoa
khóa tôi là anh Hà Ngọc Lương. Tổng Thống
Diệm đă tặng cho anh em chúng tôi một “con ḅ”
để ăn mừng nhưng chúng tôi tặng
lại nhà trường để làm phụ trội
ẩm thực cho K10/SVSQ và thủy thủ tân binh.
Ra
trường với cấp bậc Thiếu Uư, tôi
được BTL/HQ thuyên chuyển xuống Hải
Vận Hạm Hát Giang, HQ 402, do Đại Úy Nguyễn
Hữu Chí, K3/SQ/NT, làm Hạm Trưởng, sau nầy
ông được phong chức Phó Đề Đốc.
Đại Uư Chí, cũng là một nhà thơ với bút
hiệu Hữu Phương, tánh t́nh hiền ḥa, lăng
mạn, đa t́nh và đặc biệt là rất
dễ…yêu. Tôi chỉ phục vụ với ông trong
một thời gian quá ngắn, vỏn vẹn chỉ có
3 chuyến công tác, Côn Sơn, Đà Nẵng và Hoàng
Sa. Đại Úy Chí rất có t́nh với tất
cả sỹ quan chiến hạm, ông xem chúng tôi là
những người em, người bạn hơn là
sỹ quan thuộc quyền. Khi ông qua đời
ở Virginia, tôi và Thiếu Tá Phạm văn Lớn
đă đứng canh quan tài cho ông theo lễ nghi quân
cách. Tôi
được đổi về Hải-Đoàn 25 Xung
Phong ở Cần Thơ do Đại Úy Ngô Khắc Luân,
K2/SQ/NT, làm Chỉ Huy Trưởng, sau nầy ông
được phong chức Đại Tá. Trong ngày tŕnh
diện, ông chỉ định tôi làm Sỹ Quan Căn
Cứ. Công việc tương đối nhàn hạ,
thanh tra giang đĩnh, kiểm soát bảo toàn, bổ
xung tiếp liệu. Tôi
cũng được ông CHT giao cho một chiếc
Jeep toàn quyền xử dụng. Ông CHT tôi là người
hiền lành, không kiêu cách, tôi cảm thấy may
mắn v́ một số bạn cùng khóa gặp
phải một vài Đơn Vị Trưởng …..hách
x́ xằng. Tôi
được cư trú tại biệt thự của
Hải Quân ở gần căn cứ. Biệt
thự có ba pḥng ngủ, ở giữa là pḥng khách,
pḥng ăn. Pḥng ngủ bên trái, dành cho CHT
Bộ Chỉ Huy Giang Lực, luôn luôn khóa kín, tôi
chọn pḥng bên phải. Đại Úy CHT cư trú
nhà bên cạnh với gia đ́nh. Thỉnh
thoảng ông CHT chỉ định tôi đi hộ
tống công voa gạo từ Cần Thơ đi
quận Trà-Ôn hoặc tiếp viện cho đoàn công
voa than do Trung Úy Đỗ Quang Khanh, K7/SQ/NT làm trưởng
đoàn, từ Năm Căn về Sài g̣n, bị
phục kích. Ở
đơn vị nầy tôi hưởng đầy
đủ tự do và quyền hạn của
một sỹ quan. Hậu
Giang hiền ḥa, bến Ninh Kiều t́nh tứ, I
wish I could stay here forever. Một
hôm ông CHT giao cho tôi một số công việc v́ ông
phải bay thám sát với Tư Lệnh Sư Đoàn
vào sáng sớm hôm sau. Chiều hôm đó có anh
du-kích xă được Việt Cộng phát cho
một khẩu “oảnh tầm sào” (súng ṇng dài). Anh du-kích mừng húm hẹn hôm sau thực tập
tác xạ. Sáng hôm sau, trực thăng của Tư
Lệnh Sư Đoàn bay ngang vùng anh du-kích, wrong place
at the wrong time, anh du-kích ngắm và “để
nhẹ” vào đít trực thăng một phát,
trực thăng lao chao. Anh du-kích quăng súng la
to… “bull’s eye”! (trúng mục tiêu); trực thăng
rớt. Trời thương, Phật độ, không
có tử thương, riêng ông CHT của tôi lănh
một vết thẹo “vừa đủ” để
được gắn trên ngực một Chiến Thương
Bội Tinh (tương đương Purple Heart
của Mỹ). Tôi
cứ tưởng đời tôi cứ tà tà như
vậy nhưng ông bà ta thường nói: mưu
sự tại nhân, thành sự tại thiên. Có
một hôm, Đại Úy CHT trao cho tôi một công
điện thượng khẩn của Bộ Chỉ Huy
Giang Lực gửi cho HĐ 25 XP, nội dung công
điện: Chỉ thị Thiếu Úy TH về
tŕnh diện Chỉ Huy Trưởng Giang Lực
trong thời gian sớm nhất. Oh,
my …God! Tay chân tôi rụng rời, phen nầy
chết chắc. Nếu ai thường xem phim Chưởng
th́ biết “Giang Nam Thất Quái”, c̣n trong quân
chủng chúng ta có “Hải Quân Tứ Độc”
danh trấn giang hồ (nhứt T., nh́ Q., tam C,
tứ H) mà ông CHT/GL là Đệ Tam Độc
Thủ. Không riêng ǵ tôi mà ông CHT của tôi cũng
rất lo lắng. Cái
ǵ đến phải đến. Tôi về Sài g̣n tŕnh
diện Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy
Giang Lực, Trung Tá Chung Tấn Cang, K1/HQ/NT, ở
trại Cửu Long, Thị Nghè, trong bộ Đại
Lễ thẳng nếp. Tôi lo lắng v́ không biết
sự việc ǵ sẽ xẩy ra? Nhưng với
bản tánh luôn luôn chấp nhận thử thách,
…..que sera… sera. Sau khi xưng tên họ tôi
đứng nghiêm chờ lệnh. Tôi từ từ nh́n
lên, ông CHT/GL một tay cầm “píp”, bập,
bập, một tay lật hồ sơ cá nhân, môi cười
tủm tỉm, nh́n tôi từ đầu đến chân
rồi chậm răi chỉ thị: “Tôi đang thành
lập Hải Đoàn 22 Xung Phong (lưu động),
anh về đây giúp tôi tiếp nhận giang đĩnh,
lănh vũ khí, bổ xung dụng cụ thiết bị
và chu toàn những công việc của một sỹ
quan căn cứ. Báo cáo tôi hàng ngày về tiến
triển công việc, anh có ư kiến ǵ th́ cứ
hỏi”. Tôi mạnh dạn trả lời:
“Dạ không”. Ông ra lệnh “dismiss!”, tôi
chào và đi ra ngoài. Tôi thở dài nhẹ nhơm
…. not too bad! Ngày đầu gặp
gỡ tôi chưa t́m được cái “độc”
nơi ông như lời đồn đăi. Với
sự hưóng dẫn của CHT/GL và sự tận tâm
của tôi, HĐ 22 XP được thành h́nh dưới
sự chỉ huy của Trung Úy Huỳnh Duy
Thiệp, K7/SQ/NT. BCH Hải Đoàn nằm trong
trại Cửu Long, gần BCH/GL và HĐ 24 XP do Đại
Uư Nhan Chấn Toàn làm CHT sau đó Đại Úy
Nguyễn Kim Hương Giang về thay thế Đại
Úy Toàn. Đại Úy NKHG là một sỹ quan
rất thâm niên của Thủy Quân Lục Chiến nhưng
v́ “Conflict of Interest” ǵ đó trong
nội bộ Sư Đoàn nên t́nh nguyện
về với Hải quân. HĐ 22 XP là một
giang đoàn lưu động, thường xuyên
hoạt động ở miền Tây tùy theo nhu cầu
chiến trường. CHT và SQ Hải Đoàn ít
khi có mặt ở hậu cứ. Tôi là sỹ quan
độc nhứt của đơn vị ở
lại lo phần yểm trợ. Các
Hải Đoàn Xung Phong sau nầy được đổi
tên là Giang Đoàn Xung Phong. Trung Úy Huỳnh Duy
Thiệp, trong giai đoạn cuối cùng được
thăng cấp Trung Tá, và giữ chức vụ Giám
đốc Thương Cảng Đà Nẵng. Tôi
phục vụ tại HĐ 22 XP với thời gian 2 năm,
gần gũi vớí CHT/GL hàng ngày tôi chưa từng
thấy ông “hạ độc thủ’ với ai mà
chỉ thấy nơi ông tư cách của người
anh cả, luôn luôn hướng dẫn, bảo vệ
quyền lợi của mọi người dưới
quyền. Tôi c̣n nhớ rơ có 2 sỹ quan làm
việc tại BCH/GL đó là Trung Uư Nguyễn
Thiện Nhựt (Nhựt Noel), K3/SQ/NT và Trung Úy
Trịnh Kim Thanh, K5/SQ/NT. Hai ông nầy được
thăng cấp Đại Úy theo Nghị Định
của Bộ TTM (thời đó thăng cấp Đại
Úy thật là một điều rất khó khăn) nhưng
khi Nghị Định của Bộ TTM về đến
BTL/HQ th́ hai tên Nhựt và Thanh bị gạt bỏ ra
khỏi danh sách thăng cấp, tạo nên một
sự bất ḥa giữa BCH/GL và BTL/HQ. Tôi có
linh cảm là Đại Tá Tư Lệnh và Trung Tá
CHT/GL không được thuận thảo với nhau
trong công vụ. Có
thể nói Ông CHT/GL là sỹ quan cao cấp mà tôi
gần gũi, phục vụ lâu nhất trong cuộc
đời binh nghiệp. Ông có thái độ bao
dung, rộng lượng, bênh vực “đệ
tử” hết ḷng nên ông thu phục được
sự mến mộ, trung thành của nhiều sỹ
quan thuộc cấp. Có thể nói ông đă thu hút
được nhiều sỹ quan “chịu chơi”,
gan dạ, làm chớ không ba hoa chích cḥe đặc
biệt là không ..”get cold feet”. Về sau lại
có thêm một sỹ quan TQLC, Đại Tá Cổ Tấn
Tinh Châu, đem kinh nghiệm Lính Thủy Đánh
Bộ, về đầu phục dưới trướng
của đại nguyên soái CTC, trách nhiệm Đặc
Khu Rừng Sát. Từ sự kính trọng đến
cảm mến là động lực thúc đẩy tôi
có mặt tại BTL/HQ để chia xẻ với Ông
nỗi lo âu trong giờ phút nghiêm trọng.
Lịch Sử Hải
Quân Việt Nam Cộng Ḥa có tất cả 6 sỹ
quan liên tiếp thay nhau làm Tư Lệnh Hải Quân:
Thiêú Tá Lê Quang Mỹ, Đại Tá Hồ
Tấn Quyền, Phó Đô Đốc Chung Tấn
Cang, Đại Tá Trần Văn Phấn, Đề
Đốc Trần Văn Chơn, Đề Đốc
Lâm Ngươn Tánh, và Phó Đô Đốc Chung
Tấn Cang (lần thứ nh́). V́ tôi là sỹ
quan cấp nhỏ nên ít có dịp làm việc gần
gũi với một số các vị nầy. Sau
biến cố lịch sử tháng 11 năm 1963, Đại
Tá Chung Tấn Cang lên làm Tư Lệnh Hải Quân.
Tôi rời HĐ 22 XP để về làm Chỉ Huy
Trưởng Ty Quân Xa. Sỹ quan phụ tá cho tôi
là Thiếu Úy Đinh Tế Vũ, K10/SQ/NT (em ruột
Phó Đề Đốc ĐMH). Tôi
lập gia đ́nh vào đầu năm 1965, vợ
tôi làm việc cho hăng dầu Caltex Petroleum
Corporation, trong sở cũng có người bạn có
chồng Hải Quân đó là bà Alice Gilbert (dân Pháp). Bà
Alice Gilbert là phu nhân Đại Tá Nguyễn Đức
Vân, tốt nghiệp Khoá I trường Hải Quân Pháp.
Đại Tá và bà Nguyễn Đức Vân qua
đời ở Virginia; vợ chồng tôi cũng có
dịp tiễn đưa họ đến nơi an
nghỉ cuối cùng. Tôi
xin ghi lại đây một vài cảm nghĩ đặc
biệt về Đại Tá Nguyễn Đức Vân v́
ông có phần liên hệ đến biến cố
lịch sử trong nội bộ HQVN. Đại Tá
Vân là một người đức độ, nghiêm
trang, khiêm tốn, và điều đặc biệt là
rất tin tưởng …… vào số mạng. Nhớ
lại ngày Phó Đô Đốc CTC rời Hải Quân
v́ lư do chánh trị, Đại Tá Nguyễn Đức
Vân được Bộ TTM chỉ định
về làm Tư Lệnh Hải Quân nhưng ông khước
từ, có lẽ v́…. “số không phát” theo
quẻ Tử Vi. Kết quả của sự
bất tuân thượng lệnh, ông bị Bộ TTM
……phạt 30 ngày trọng cấm. Bà Alice
Gilbert cũng than văn với vợ tôi về quyết
định “thẳng thừng” nầy của Đại
Tá Vân. Tôi
đi du học Hoa Kỳ năm 1966 cùng với
Thiếu Tá Nguyễn Trọng Hiệp, K5/SQ/NT và về
nước năm 1967. Mùa
Hè năm 1967 từ Mỹ trở về, tôi được
thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh Hạm Đội,
dưới quyền chỉ huy của Đại Tá
Nguyễn Thành Châu, sau nầy ông đuợc thăng
cấp Phó Đề Đốc. Đại Tá Châu
là cái “típ” (type) hoạt động (active), sống
ḥa đồng với anh em nhưng có cái tật hay
“lấy le”, đặc biệt là xưng hô mầy/tao với
sỹ quan dưới quyền nên mọi người
đặt cho cái tên là Cao Bồi Châu. Để
có tánh cách “đa dụng” của sỹ quan QLVNCH,
Bộ TTM mở những khóa Dù Đặc Biệt cho
sỹ quan các cấp. Hải Quân cũng có
mấy tay chịu chơi, ghi tên đi thụ huấn
như: Thiếu Tá Hoàng Cơ Minh, Đại Úy
Nguyễn Thiện Lư, K13/SQ/NT, Đại Úy Trần
Đ́nh B́nh, K11/SQNT, và cuối cùng là tôi, K9/SQ/NT,
v́ tôi muốn…in gót giầy vào không gian. Hai
mươi hai (22) năm sau, con trai tôi, khi c̣n đi
học ở Virginia Polytechnic Institute (1989), cũng
nhảy một “saut” sky diving (có instructor) , đem h́nh
về khoe, vợ tôi xanh mặt la rầy, thằng con
tỉnh bơ trả lời “để giống
Ba”. Vợ tôi cụt hứng …no comment! (hết ư
kiến)! Hải quân Trung tá Trần Hương Để
có lư do rút lui trong danh dự, Hoa Kỳ thi hành kế
hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh gọi là Vietnamesation.
Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa nhận thêm
nhiều chiến hạm, lực lượng tuần
thám, thủy bộ, ngăn chặn, do Mỹ chuyển
giao. Hệ thống Tiếp Vận Hải Quân cũng
đuợc tăng cường để thỏa măn
nhu cầu của các lực lượng. BTL/HQ
soạn thảo
một chương tŕnh bành trướng khả năng
Tiếp Vận qua một kế hoạch gọi là
ACTOLOG (Accelerate Turn Over LOGistics) mà Đại Tá
Nguyễn Văn Lịch là Sỹ Quan điều
khiển chương tŕnh (program manager).
BTL/HQ thành
lập nhiều Căn Cứ Yểm Trợ Tiếp
Vận tại 4 Vùng Zuyên Hải và Sông Ng̣i: CCYTTV/Đà
Nẵng, CCYTTV/ Cam Ranh, CCYTTV/Nhà Bè, CCYTTV/Đồng Tâm,
CCYTTV/B́nh Thủy và CCYTTV/An Thới và
CCYTTV/Cát
Lở.
Một số căn
cứ được Hoa Kỳ chuyển giao và một
số thành lập mới. Theo
lời đề nghị của Đại tá
Nguyễn Văn Lịch, tôi được Đề
Đốc Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn
chỉ định thành lập CCYTTV/An Thới - Phú
Quốc, với chức vụ Chỉ Huy Trưởng,
sỹ quan phụ tá cho tôi là một Thiếu tá
của Hải Quân Hoa Kỳ. Trong
thời gian tôi phục vụ tại Phú Quốc,
vợ tôi sanh được một cháu trai tôi đặt
tên cháu là Trần An Quốc (An Thới – Phú
Quốc) để ghi lại một kỷ niệm
đẹp . Tôi nhớ rơ Đại Tá Hồ
Tấn Quyền cũng đặt tên cho người
con là Hồ Tấn Phú Quốc (không hiểu kỷ niệm
….ǵ..ǵ . đây của hai ông bà?). Hết
nhiệm kỳ ở An Thới, tôi được thuyên
chuyển về HQCX dưới quyền chỉ huy
của Đại Tá Đoàn Ngọc Bích. Sau
đó tôi được BTL/HQ tuyển chọn đi
thụ huấn khóa 2/73 Chỉ Huy & Tham Mưu
tại Long B́nh. Ngày
đầu tŕnh diện, tôi gặp 2 người
bạn ngoài Hải Quân: Đại Tá Nguyễn Văn
Tường, CHT Pháo Binh Dù và Trung Tá Trần Văn
Vinh, CHT/TTHL/ND. Đại Tá Tường
thấy tôi có “Bằng Dù” trên túi áo hắn
liền vù tới bắt tay nhận bạn. Cái
bắt tay “làm quen” nầy mà về sau hắn
khỏi phải tŕnh diện trại tù… Suối Máu.
Đó là chuyện về sau. Măn
khóa Chỉ Huy & Tham Mưu tôi được
đổi về Bộ Chỉ Huy Yểm Trợ
Tiếp Vận và sau đó giữ chức vụ
Tham Mưu Trưởng, Đại Tá Ngô Khắc Luân
làm Chỉ Huy Trưỏng. Bộ
Tham Mưu gồm có: Trung Tá Nguyễn Văn Phước,
K8/SQ/NT, pḥng Kế Hoạch, Trung Tá Nguyễn Văn
Quang, K7/SQ/NT, pḥng KT/BT, Thiếu Tá Hứa Hồng Minh,
K11/SQ/NT, pḥng Nhân Viên, Thiếu Tá Phạm Văn
Lớn, pḥng Tiếp Liệu. v. v. Khi
tôi về tŕnh diện BCH/YTTV th́ Đề Đốc
LNT đă hạ san từ vùng đồi núi Đà
Lạt. Tôi biết đại sư phụ khi ông c̣n
làm Giám Đốc HQCX, tới lúc ông đi học
Naval War College ở Newport, Rhode Island, rồi đến
Trường CTCT/Đà Lạt.
Tôi
t́m ṭi, phân tách cái “khó” của vị Tư
Lệnh nầy để t́m thuốc giải. Sau
đó không lâu tôi đă t́m được cái “clue”.
Đại sư phụ là người rất nghiêm
khắc và .. siêu tỉ mỉ. Dưới
cặp mắt ông việc thi hành và hoàn tất
mệnh lệnh là chuyện nhỏ, ông c̣n quan sát
đến quân phục, kỷ luật, tác phong,
giao tế, đường lối hành xử kính trên,
mến dưới. Nếu sỹ quan nào vượt
qua được hết cái chỉ tiêu nầy
th́ Ông coi họ là “valuable assets” (tài sản
hữu dụng) cho Hải Quân. Ông dành riêng cho
họ một t́nh cảm ….sâu đậm, tin cậy,
nâng đỡ.
Cuối
năm 1973 là giai đoạn thắt lưng buộc
bụng của QLVNCH, viện trợ bị cắt
giảm tối đa. Không Quân thiếu bom, Lục Quân
thiếu đạn, Hải Quân thiếu dầu. Ngược
lại khi chúng tôi c̣n là SVSQ, hàng tuần chúng tôi qua
trường Trung Tâm Huấn Luyện Hạ
Sỹ Quan Đồng- Đế học chiến
thuật bộ binh, các huấn luyện viên thường
bị cố vấn Mỹ báo cáo v́ không xài…. .
hết đạn huấn luyện, trớ trêu! Trong
giai đoạn cuối cùng các đơn vị Pháo
Binh chỉ được lệnh bắn yểm
trợ cầm chừng v́ khan hiếm đạn.
Tội nghiệp những sỹ quan bộ binh trẻ
ở các tiền đồn Địa Phương Quân
hẻo lánh, thường xin tàu HQ đạn súng
nhỏ để tăng cường hỏa lực pḥng
thủ đơn vị. Để
đáp ứng với t́nh h́nh, Bộ Tham Mưu BCH/YTTV
soạn thảo kế hoạch “Đ́nh Động”
(De-Activation) một số chiến hạm nhỏ và
chiến đĩnh, hầu giảm thiểu tối
đa nhu cầu mức tiêu thụ nhiên liệu. Song
song với kế hoạch đ́nh động, BCH/ YTTV
cũng thành lập một Trung Tâm Điều Ḥa
Tiếp Vận để có thể tái phối trí nhu
cầu tiếp vận cho các đơn vị. Trong
giai đạn cuối cùng của cuộc chiến, chánh
phủ Việt Nam Cộng Ḥa yêu cầu chánh phủ
Hoa Kỳ viện trợ chỉ mấy trăm
triệu đô-la để tiếp tục chiến
đấu nhưng lời yêu cầu đó không đuợc
Quốc Hội Hoa Kỳ phê chuẩn nên …..cái ǵ
đến phải đến. Chương
II.
Sài G̣n Trong Những Ngày Cuối Cùng Sau
khi các Đơn Vị Hải Quân của Vùng I, Vùng
II Zuyên Hải và TTHL/HQ rút về Sài g̣n, th́ khu
vực Hải Quân trở nên náo nhiệt, từ Cát Lái
cho đến trại Bạch Đằng. Áp
lực của Việt Cộng ở phía Bắc Sài g̣n
càng ngày càng trở nên nặng nề. Phi
cơ phản lực A37 có huy hiệu của Không Quân
VNCH, phát xuất từ Phan Rang, dội bom Dinh Độc
Lập. Phi trường TSN, máy bay Mỹ lên
xuống liên tục để di tản “non-essential
personnel” của ṭa Đại Sứ Mỹ và
của các hăng thầu. Một số đồng
bào Việt Nam “lạnh cẳng” cũng xô đẩy
nhau vào….ăn có. Pháo
binh của Cộng Sản nhả đạn liên
tục “giă nát” phi trường Tân Sơn
Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Dù.
Vài quả rơi vào thành phố Sài g̣n giết
đồng bào một cách vô tội vạ. Có
một quả rơi vào cư xá Hải Quân Lê Thánh Tôn,
làm phu nhân Đại Tá Nguyễn Hiền Năng,
K3/SQNT, bị tử thương. Sợ
đạn pháo kích tiếp tục rơi vào khu
vục Hải Quân gây thiệt hại cho gia đ́nh, tôi
bàn riêng với Phó Đề Đốc TMT/HQ về
việc đưa 2 gia đ́nh chúng tôi đi Phú
Quốc lánh nạn, c̣n chúng tôi ở lại tử
thủ với Đô Đốc Tư Lệnh. Phó
Đề Đốc Thủy đồng ư và t́m cho tôi
16 vé Air Vietnam đi Phú Quốc. Đến ngày lên phi
cơ, th́ phi trường TSN đóng cửa v́ bị
hư hại nặng nề sau trận pháo kích của
Cộng Quân. Trong cái rủi cũng có cái may, nếu 2
gia đ́nh đi Phú Quốc một cách suông sẻ, th́
khi hạm đội rời hải phận Việt
Nam, hai gia đ́nh chúng tôi sẽ bị mất liên
lạc. Trường hợp nầy nếu xẩy ra
chắc tôi phải theo tàu Việt Nam Thương Tín
trở về Việt Nam với Trần Đ́nh
Trụ, K8/SQHQ/NT v́ dường như gia đ́nh
Trần Đ́nh Trụ cũng đang chờ anh ở
Phú Quốc. Các
đơn vị Hải Quân được lịnh
cấm trại 100%. Để giữ vững ḷng
tin và tránh cảnh hỗn loạn có thể xẩy ra
như trường hợp của cuộc tan vỡ của
Quân Đoàn I và Quân Đoàn II, Tư Lệnh HQ nghiêm
khắc chỉ thị: “Hải Quân không có kế
hoạch di tản”. Có một vài anh em không nghiêm
chỉnh thi hành lệnh cấm trại, trốn về
nhà với gia đ́nh, nên khi hạm đội rời
Sài g̣n các anh bị kẹt lại. Sau nầy
gặp lại tôi ở Mỹ, các anh nầy trách
ĐĐ/TL ra đi không cho họ biết,… Oh,
well!! Trong
thời gian đó có một vị Đơn Vị Trưởng
của một đại đơn vị âm
thầm, đơn phương “vẽ” một
kế hoạch (di tản) đưa tàu ra biển
kể cả việc (theo lời đồn)
chỉ thị một Dương Vận Hạm (LST)
neo tại Nhà Bè chờ lệnh. Đặc
biệt kế hoạch nầy sẽ không có
“chỗ trống” cho CNO. Kết quả là
vị Đơn Vị Trưởng nầy bị
giải nhiệm …. . tout suite! (ngay tức
khắc). Các
“cố vấn” Mỹ như Đại Tá Joe Gildea
ra vào BTL/HQ với gương mặt khẩn trương
và tự đặt ḿnh trong t́nh trạng báo động.
Bên người luôn luôn đeo theo một radio transistor
ở vị trí “ON” để chờ nghe bản
nhạc..Ngựa Phi Đường Xa. Việc
pḥng thủ khu vực Hải Quân được chia làm
3 Phân Khu do Đại Tá Bùi Kim Nguyệt, K3/SQNT và Trung
Tá Ṭng, K7/SQNT, chỉ huy. Phân Khu I- công trường Mê
Linh do Trung Tá Xuân, K10/SQNT, đảm trách; Phân Khu II –
HQCX, do Đại Tá Trần Văn Triết, K7/SQNT, trách
nhiệm; Phân Khu III – trại Cửu Long (không nhớ
tên). Trung
Tá Xuân, CHT Tổng Hành Dinh, cũng là một trong
số bạn sinh tử với tôi, mở kho
vũ khí trao cho tôi 2 khẩu M18 để thường
trực trên xe jeep….pḥng thân. Chiều
ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi qua BTL/HQ th́ gặp Phó
Đề Đốc Diệp Quang Thủy, TMT/HQ và ông
cho biết ông vừa đại diện Đô
Đốc Tư Lệnh lên gặp Tổng Thống và
được Tổng Thống Dương Văn Minh
chỉ thị: “Kể từ giờ phút nầy, các
anh được toàn quyền quyết định cho
đơn vị ḿnh”, Đô Đốc Thủy c̣n
nói thêm với tôi “ḿnh sẽ rời Saigon đêm
nay”. Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều ngày 29
tháng 4, năm 1975. Trên
bầu trời Sài g̣n lúc đó tràn ngập trực
thăng loại đổ bộ của US Marine, ồn
ào như đàn ong vỡ tổ cộng với
tiếng gầm như gào thét của phản lực cơ
hộ tống của US Navy, đáp lên, đáp
xuống ở “mấy điểm hẹn”
để rước “American Citizens và American Buddies”
ra hàng không mẫu hạm, ngoài khơi Vũng Tàu.
Trước cảnh hỗn loạn đó làm cho ḷng
tôi cảm thấy bồi hồi, muốn rơi nước
mắt. Tôi hồi tưởng lại vài năm trước,
một kư giả ngoại quốc ôm máy ảnh
ngồi chờ ở nhà hàng Continental để
chụp tấm ảnh đầu tiên khi T54 của
Cộng Sản tiến vào Sài g̣n, tôi cười……no
kidding! Nhưng bây giờ tôi mới
biết ḿnh là thằng khờ. Theo
kế hoạch của Đô Đốc Tư Lệnh,
nếu Saigon thất thủ th́ tất cả hạm
đội và các đơn vị yểm trợ rút ra
ngoài biển, tập trung rồi kéo về miền Tây
cố thủ. Với
một người không có căn bản quân sự th́
việc đưa Hạm Đội ra khỏi Sài g̣n
là một hành động “tháo chạy” nhưng
với cá nhân tôi th́ đó là một quyết định
“di binh chiến lược” để bảo
toàn lực luợng và tiềm năng chiến đấu
của QLVNCH. Đó là quyết định
cuối cùng (không có sự lựa chọn) chỉ cần
chờ giờ ..G ….để xuất phát. Thủy
tŕnh của hạm đội từ Sài g̣n ra biển
phải theo hai thủy lộ: sông Ḷng Tàu và sông Soài
Rạp, nếu đặc công đánh ch́m tàu buôn
để “khóa” hai con sông này th́ Hải Quân ta như
cá nằm trên thớt. Việt Cộng sẽ dùng
hỏa công (trọng pháo) đốt chúng ta không c̣n……..manh
áo va-rơi. Giờ
… .G … đă tới! Tôi
từ giă Đô Đốc TMT về văn pḥng thu
dọn giấy tờ và t́m cách đón gia đ́nh tôi,
ở bên cư xá Văn Thánh, chỉ cách HQCX bằng
một con kinh. Tôi không có dịp từ giă CHT tôi
là Đại Tá Ngô Khắc Luân và sỹ quan trong
bộ tham mưu. Các
nút chặn Mê Linh và Cường Để đă khóa
kín v́ dân chúng ở ngoài quá đông chỉ chờ có
lỗ trống th́ tràn vào. Tôi tự nghĩ, ḿnh
có thể ra, nhưng chưa chắc ḿnh và gia đ́nh
có thể trở vào. Tôi
trở vào HQCX để t́m phương thức khác,
thời may lúc đó có một chiếc LCVP của
TTHL/Bổ Túc đi chợ Thị Nghè, tôi nhờ
mấy anh em thủy thủ đưa qua “kinh Văn
Thánh”, ủi băi cạnh nhà Tr/Tá Ṭng, Tư Lệnh
Phó/BTL/HQ/BKTD. Tôi đứng giữ tàu, tay
thủ khẩu M18 (bây giờ đổi tên là AR 15, weapon
of choice của mấy anh Red Neck), nhờ anh
thủy thủ vào nhà tôi và đón gia đ́nh tôi
xuống tàu. Cùng lúc cũng có gia đ́nh anh Hoàng
Thế Thái, K8/SQNT, cùng tháp tùng qua sông. Trên
bờ, mấy anh lính TQLC cầm súng M16 bắn chỉ
thiên mấy phát, miệng la lớn “tụi nó
chạy rồi tụi bay ơi!”. Tôi sợ mấy
anh nầy mất b́nh tĩnh, chĩa súng về phía chúng
tôi th́ rất nguy hiểm. Tôi cho LCVP rút ra ngay
để về cặp cầu bên HQCX. Khi rời tàu,
chúng tôi và gia đ́nh anh HTT chia tay, tôi phải
đưa gia đ́nh tôi đi “gửi” tạm
một nơi an toàn để tôi có thể trở
lại đón khi cần. Tôi chỉ có đủ th́
giờ đón được vợ và hai con, c̣n cha
mẹ, anh em đều bị kẹt lại v́ không có
chuẩn bị trước. Sau
nầy anh HTT đă tố khổ tôi với một
số bạn bè và nói những điều không
tốt về tôi. Trong t́nh trạng dầu sôi lửa
bỏng đó, mạnh ai nấy tự lo cho ḿnh
chứ không ai có khả năng và phương
tiện để lo cho người khác. Vào phút chót,
chính ông Tư Lệnh HQ, tôi và mấy cận vệ cũng
không biết ḿnh sẽ lên chiến hạm nào
trong khi các chiến hạm lớn đă tháo dây ra lênh
đênh giữa ḍng. Tôi
trở lại BTL/HQ, Trung Tá Nguyễn Tuấn Khanh, Chánh
Văn Pḥng TL/HQ, thấy tôi mừng rỡ và
bỏ nhỏ: “Anh H. ở lại với Tư
Lệnh, tôi c̣n phải về đón gia đ́nh”.
Khanh, K10/SQNT, khoá sau tôi nhưng chúng tôi là bạn
thân, đặc biệt là có chung một lập trường,
nên việc bảo vệ cho Đô Đốc Tư
Lệnh là trách nhiệm chung và ĐĐ Tư
Lệnh tin cậy chúng tôi một cách tuyệt đối.
Trung Tá Khanh rời BTL/HQ và không trở lại
được. Toán bảo vệ an ninh cho Đô
Đốc Tư Lệnh chỉ c̣n tôi và 5 anh Cận
Vệ: Thuận, Thâu, Phúc, Quang, và Vân, các anh em
nầy đều là hạ sỹ quan Hải Quân và
họ đă sống gần gũỉ với Tư
Lệnh nhiều năm. Tôi
đi một ṿng ngoài văn pḥng Tư Lệnh, tôi
thấy có hai người đàn ông mặc thường
phục, mặt rất khẩn trương, tôi chào xă giao
nhưng không gợi chuyện. Về sau tôi mới
biết là người nhà của Tổng Thống Dương
Văn Minh. Tôi
đang sắp đặt công việc với các anh
cận vệ th́ có một anh quân cảnh từ công
trường Mê Linh vào gặp tôi và cho biết: Có
một Đại Tá Dù muốn gặp tôi gấp.
Anh QC liền lái xe đưa tôi ra nút chặn, tôi
thấy Tường, bạn cùng khóa với tôi ở
trường CH&TM Long B́nh, đứng ngăn cách
với tôi bằng 5 lớp hàng rào ‘kẽm gai”.
Tường nh́n tôi mừng rỡ, rơm rớm
nước mắt, nói qua giọng nghẹn ngào: “Căn
Cứ của tao bị pháo cháy hết rồi H. ơi!”.
Tường cho biết anh đă đứng chờ hơn
4 tiếng đồng hồ tại đây nhưng không
thể nào vào đuợc. Trời
xui, đất khiến, click! Một ánh sáng
chớp trong đầu, anh bỗng nhớ tên tôi, nên
nhắn tin cầu cứu. Tôi nh́n kỹ thấy
Tường và gia đ́nh đứng lố nhố bên
cạnh chiếc jeep. Tôi nhờ các anh quân cảnh kéo
mấy “con ngựa kẽm gai” cho gia đ́nh Tường
đi qua. Cũng như gia đ́nh anh HTT, tôi để
Tường và gia đ́nh tự t́m phương
tiện ra biển v́ tôi c̣n phải trở lại
với Tư lệnh. Tường
và tôi mất liên lạc kể từ chiều hôm
đó, cho đến đúng 39 năm sau (29 Tháng 4 Năm
2014) Tường và tôi mừng rỡ “gặp
nhau” qua điện thoại. Tường cho biết
hắn và gia đ́nh, đêm đó ra khơi bằng
HQ 502. Và hắn cũng không quên kể cho tôi sự
gian truân khi t́m nhảy một “sô (saut) bồi dưỡng”
cuối cùng bằng tàu thủy. Tường cũng
báo cho tôi tin buồn là Tr/Tá Trần Văn Vinh,
CHT/TTHL/ND, cùng học khóa CH&TM với chúng tôi đă
qua đời trong trại tù cải tạo. Khi
Trung Tá Khanh rời BTL/HQ, không có trao cho tôi kế
hoạch di-tản, tôi cũng không nhận được
khẩu lệnh của Đô Đốc nên tôi tự
hoạch định, sắp xếp cho cuộc ra đi
được an toàn và suông sẻ. Vào
lúc 6 giờ 30 tối, tôi chỉ thị một anh
cận vệ về tư dinh Đô Đốc để
đón gia đ́nh Đô Đốc Tư Lệnh và
gia đ́nh tôi. Vào
lúc đúng 7 giờ (1900H) trời vừa sập
tối, tôi thấy những chiến hạm lớn
đậu ở cầu B và các cầu tàu trong HQCX
đă tháo giây ra giữa ḍng. Tôi mời
Đô Đốc Tư Lệnh lên đuờng.
Tôi dẫn đầu với một thủy thủ tên
Tiếng (nhân viên theo tôi trong những ngày cuối cùng),
hướng dẫn Đô Đốc Tư Lệnh và
gia đ́nh theo sau, 5 anh em cận vệ chia nhau bảo
vệ hai bên sườn và đoạn hậu. Tất
cả chúng tôi đều trang bị M18 (7 khẩu)
cho gọn gàng, riêng tôi c̣n có thêm một khẩu
“rouleau” nhỏ ngắn ṇng, bên hông. Đoàn người
rời văn pḥng Tư Lệnh và đi về hướng
cầu A v́ nơi đây c̣n có 2 chiếc PGM, mũi
hạ gịng, chưa vào nhiệm sở vận
chuyển. Quăng
đường tuy ngắn nhưng tôi cảm
thấy…quá dài và rất nguy hiểm, tinh thần chúng
tôi căng thẳng và cảnh giác v́ sự bất
trắc có thể xẩy ra trong chớp mắt. Đoàn
người lầm lũi đi trong bóng đêm. Công
trường Mê Linh súng nổ liên hồi, anh em quân
cảnh bắn dọa chỉ thiên để chặn
sự hỗn loạn và đập phá chướng
ngại vật. Ngoài phố dân chúng chạy ngược
chạy xuôi mặt mày hơ hăi. Trên sông Sài g̣n, PCF và
PBR đảo tới, đảo lui …at full speed,
quậy sóng cuồn cuộn. Khi
đoàn “công voa” đến cây cầu nhỏ,
nối liền Bến Bạch Đằng và cầu A,
th́ một số thủy thủ bỏ tàu đi ngược
về phía chúng tôi. Chúng tôi xuống chiếc PGM đầu
tiên, cặp ở vị trí trong cùng, không thấy
sỹ quan hiện diện mà chỉ có một số
ít thủy thủ đứng trên boong tàu, trạng
thái hỗn xược, miệng la to “tàu không
đi, tàu không đi”. Chúng
tôi trèo qua chiếc PGM ngoài cùng th́ gặp Đại
Úy Trần Minh Chánh (con trai Đề Đốc
Trần Văn Chơn) và Đại Tá Nguyễn Văn
Ánh, c̣n những vị khác hiện diện trên tàu,
trong giai đoạn khẩn trương nầy, tôi không
để ư. Tôi yêu cầu Đại Úy Chánh
đưa chúng tôi rời khỏi Sài g̣n. Đại
Úy Chánh, Hạm Trưởng PGM, ngần ngừ
một chút rồi trả lời: “tàu vừa
đi công tác về và vừa lấy dầu xong, chúng
tôi không có ư định rời Việt Nam v́ ba tôi (ĐĐ
Chơn) và gia đ́nh c̣n ở lại, và kể
cả gia đ́nh của thủy thủ đoàn”.
Nhưng sau một phút suy nghĩ, Đại Úy Chánh
lại nói với tôi: “Tôi đưa quư vị
ra đến biển rồi chúng tôi sẽ quay
trở về”. Hạm
Trưởng Trần Minh Chánh liền ra lệnh tháo giây,
HQ 601 từ từ tách bến, khởi đầu cho Đêm
Giang-Hành Lịch-Sử. HQ
601 rời Sài g̣n, không đèn hải hành, âm thầm
di chuyển trong đêm. PCF và PBR vẫn ngược
xuôi quậy sóng bao quanh các chiến hạm như
để hộ tống, luyến tiếc tiễn
đưa những người bạn, đă một
thời chiến đấu bên nhau, ra khơi lần
cuối. Kho
đạn Thành Tuy Hạ bị pháo kích bốc cháy sáng
rực một góc trời, bom, đạn nổ ầm
ầm liên tục. Hạm đội từ
chiếc, từ chiếc, nối đuôi nhau vận hành
ra biển. Thành phố Sài g̣n về đêm đang
hấp hối trong ánh đèn không đủ sáng. Đô
Đốc Tư Lệnh ngồi ở ghế hạm
trưởng, gương mặt khẩn trương.
Tôi đứng bên cạnh, tôi đặt một tay vào
tay ông, tôi cảm thấy tay ông run run xúc động.
Trách nhiệm của ông quá lớn, liên quan đến
Hạm Đội và hơn 40,000 binh sĩ dưới
quyền. Những ǵ sẽ xẩy ra trong
những ngày sắp tới? Tàu
rời bến Nhà Rồng, rồi qua Nhà Bè và dưới
sự chỉ huy khéo léo và kinh nghiệm của
Hạm Trưởng Trần M Chánh HQ 601 đă ra
đến biển một cách b́nh an. Riêng HQ 1
bị mắc cạn và HQ 502 bị Việt Cộng
“pháo” trực xạ tại cửa Cần
Giờ lúc 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Chúng
tôi lên HQ 3 do Trung Tá Nguyễn Kim Triệu, K7/SQNT, làm
Hạm Trưởng. Tôi nhận thấy sự có
mặt của Phó Đề Đốc Diệp Quang
Thủy, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Phó
Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng và Đại
Úy Armitage (Phú). Trong lúc rời HQ 601 một cách
vội vă, tôi không kịp bắt tay từ giă Đại
Úy Chánh và nói tiếng cám ơn, thật là một
điều sơ xuất. HQ 601 hoàn tất
nhiệm vụ và quay trở về Sài g̣n. HQ
3 trở thành soái hạm của Hạm Đội di
tản. Đô Đốc Tư Lệnh, qua máy
truyền tin, chỉ thị tất cả chiến
hạm tập trung tại Côn Sơn chờ lệnh. Trưa
ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên máy phóng thanh, Tổng
Thống Dương Văn Minh chỉ thị tất
cả đơn vị c̣n đang chiến đấu
“buông súng đầu hàng” để bảo vệ
sanh mạng, xương máu của lính và dân. Từ
trong Côn Đảo, anh em Địa Phương Quân và
giới chức quản lư nhà tù bơi xuồng túa ra
xin được theo tàu Hải Quân rời đảo.
Nhân viên chiến hạm yêu cầu họ thả
súng xuống biển trước khi lên tàu. Chánh
phủ Việt Nam Cộng Ḥa bị bức tử.
Nước mất, nhà tan, chúng ta, những người
Chống Cộng bảo vệ Tự Do, bỗng
trở thành những người Vô Tổ Quốc. Lá
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn tung bay trên các
kỳ đài chiến hạm đang hải hành ngoài
hải phận quốc tế nhưng đối
với thế giới th́ ngọn cờ nầy không c̣n
tồn tại. Chương
III.
Vượt Đại Dương T́m
Tự Do Quyết
định cuối cùng của Tư Lệnh Hải Quân,
qua sự trung gian của Đại Úy Phú (Armitage),
Sỹ Quan Liên Lạc của Đệ 7 Hạm đội,
chỉ thị Hạm Đội Việt Nam, rời Côn
Sơn, tháp tùng Đệ Thất Hạm Đội
Hoa Kỳ, trực chỉ Subic Bay, Phi Luật Tân. Sự
hiện diện của Armitage trên HQ 3 là có một
sự “sắp đặt” chớ không phải là
ngẫu nhiên. Ngày xưa anh ta có mặt thường
trực ở BTL/HQ (không biết anh làm việc pḥng nào)
anh nói tiếng Việt như người Việt và
tự giới thiệu với mọi người là
Đại Uư Phú (tên Việt). Trong thời gian nầy
anh thường đi nhậu với đám hạ
sỹ quan và theo lời đồn, between you and me,
anh là CIA agent. Trong số HSQ bạn nhậu th́ Hai
Cheo (heo chai) là bạn rất thân với Đại Úy
Phú. Hai
Cheo tên thật là Trần Văn Hai, một HSQ cuả
Hải Đoàn 24 Xung Phong vào năm 1962-63. Trần Văn Hai
có vóc người to lớn nên bạn bè đặt
cho biệt hiệu Hai Cheo. Armitage là đảng viên
của Đảng Cộng Ḥa, sau nầy làm Thứ trưởng
Quốc Pḥng, rồi sau đó làm Thứ Trưởng
Ngoại Giao dưới thời Ngoại Trưởng
Collin Powell. Trong thời gian Armitage ở Bộ Quốc
Pḥng, Hai Cheo thường vào thăm Armitage và
được tiếp đăi như VIP. Trước
khi rời Côn Sơn, Hạm Đội của Hải
Quân Việt Nam cần chỉnh đốn hàng ngũ.
Nhửng tàu có khả năng đi biển nhưng
t́nh trạng kỹ thuật không được
bảo đảm hay tàu nhỏ không có khả năng
vượt đại dương th́ bị đánh ch́m
sau khi chuyển nhân viên qua tàu khác. Hoặc có
một số anh em Hải Quân muốn trở về
với gia đ́nh th́ xuống tàu nhỏ và tự lái
tàu trở về Sài g̣n. Hạm
Đội Hải Quân Việt Nam, dưới sự
yểm trợ của Đệ 7 Hạm Đội Hoa
Kỳ, di chuyển về Phi luật Tân. Cờ
Việt Nam Cộng Ḥa vẫn ngạo nghễ tung
bay trên các chiến hạm đang di chuyển theo đội
h́nh. Gần
40,000 quân nhân và đồng bào tháp tùng trên các
chiến hạm, sự yểm trợ tiếp liệu
như thức ăn, nước uống, thuốc men
được xếp lên hàng đầu, c̣n quan
trọng hơn cả vấn đề an ninh. Đô
Đốc Tư Lệnh chỉ thị tôi phối
hợp với Armitage để tiếp nhận
thực phẩm tiếp tế từ “supply ship”
của Hoa Kỳ, sau đó phân phối lại cho tàu
Việt Nam trong đoàn. Trước khi thi hành
nhiệm vụ, tôi không quên “nháy mắt” với
mấy cận vệ, keep an eye, cho ông Tư
lệnh. Để
có chỗ trống làm “supply depot”, tôi yêu
cầu đồng bào nhường phần boong tàu sau
lái để làm chỗ tiếp nhận và phân
phối thực phẩm. Tôi khám phá một
điều là những người ở khu nầy là
những người có kinh nghiệm di cư từ năm
1954, đàn ông th́ được ngụy trang bằng
một áo hay quần xanh màu thủy thủ để
dể dàng trà trộn khi lên tàu. Đàn bà mặc áo
ngắn khi ngồi xuống th́ thấy “băng đạn
M16” (vàng lá) nặng trĩu đai chặt ngang lưng.
Sau nầy tôi t́m hiểu th́ mấy người
nầy là “họ hàng” của một đại sư
phụ hiện diện trên tàu. Đoàn
tàu tiếp tục cuộc hành tŕnh để t́m vùng
đất mới. HQ 3 bị hỏng máy Hải Quân
Hoa Kỳ gửi đến một tàu kéo (tug boat) giúp
HQ 3 tiếp tục cuộc hành tŕnh. HQ 502 cũng
“đi cà nhắc”, được một tàu Mỹ
kè bên hông tiếp sức. Đoàn tàu khập
khễnh tiếp tục cuộc hành tŕnh, giống như
đám thương binh lẫn lộn trong đoàn quân
bại trận trên đường lui binh. Một
ngày đẹp trời ngoài hải phận Phi Luật
Tân, qua loa phóng thanh, yêu cầu tất cả quân nhân
lên boong tàu để làm lễ hạ kỳ.
Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ được hạ
xuống và thay thế bằng cờ Hoa Kỳ.
Lá Cờ Việt Nam Cộng Ḥa kể từ giờ phút
nầy trở thành Lá Cờ của Lịch Sử. Lính
khóc, quan khóc, đồng bào khóc, cả hạm
đội cùng khóc……… những giọt lệ
nầy dành cho quê hương. HQ
3 cặp cầu Subic Bay, mọi người rời tàu
để qua tàu hàng (cargo ship) đi Guam. Cuối
hạm kiều một anh lính TQLC Hoa Kỳ nghiêm
chỉnh giơ tay chào tôi đúng theo lễ nghi quân
cách. Đó là cái chào cuối cùng mà tôi hănh
diện đón nhận v́ tôi đă hoàn thành bổn
phận và trách nhiệm của một chiến-sĩ
Cộng-Ḥa. |