| Đời
      Thuỷ-Thủ & Đêm Giang-Hành Lịch-Sử          
       Bài Viết của: Người Thuỷ-Thủ Già | 
| Lời
      Phi Lộ:
       Bài viết nầy không phải là một Hồi
      Kư mà chỉ là một bài kể chuyện để
      ghi lại nơi đây, kỷ niệm vui buồn
      của những người đă hiến dâng, hy sinh
      cả cuộc đời ḿnh để bảo vệ
      tự-do cho đồng bào và sự vẹn toàn
      của đất nước. Hơn 40,000 trai
      trẻ đă hăng say t́nh nguyện đầu quân vào
      Hải-Quân Việt Nam Cộng-Ḥa. Màu áo trắng
      mặc trên người biểu tượng cho
      niềm kiêu hănh và tánh cách lăng mạn của người
      thủy-thủ.          Bài
      viết nầy để tưởng niệm HQ Trung Tá
      Hà Ngọc Lương, người đă tự sát
      với Gia Đ́nh trong ngày thất thủ Nha trang, nơi
      đă đào tạo anh trở thành một
      thủy-thủ kiêu hùng. Không
      hiểu v́ cơ duyên hay định mệnh đă
      đưa đẩy tôi từ một thư sinh
      trở thành một sỹ quan có tinh thần trách
      nhiệm, trung thành tuyệt đối với cấp
      chỉ huy. Tôi là người sỹ quan cuối cùng
      đứng bên cạnh Tư-Lệnh Hải-Quân trong
      giai đoạn hiểm nguy để bảo vệ
      an ninh, chia sẻ với ông sự lo âu, cân nhắc khi
      quyết định vận mạng và sự vẹn toàn
      của quân chủng Hải-Quân Việt Nam Cộng
      Ḥa trong giờ phút lịch sử. Bài
      viết nầy chỉ ghi lại một sự
      thật, mắt thấy, tai nghe, thi hành theo lệnh, xài
      “văn tếu” để pha tṛ và bảo đảm
      hoàn toàn không có… gia vị. Nếu bài viết có làm“trật
      khớp”của một vài tác phẩm (memoire) th́
      Thủy-Thủ Già nầy trân trọng nghiêng ḿnh
      xin lỗi.  Tôi
      tạm dùng kinh nghiệm cá nhân để làm cái sườn
      ghi lại kinh nghiệm sống mà tất cả  sỹ
      quan Hải Quân Nha trang phải đương đầu
      với tinh thần trách nhiệm, từ ngày đặt
      chân vào quân trường cho đến khi thi hành
      nhiệm vụ chỉ huy tại các đơn vị
      Hải Quân.  Bài
      viết cũng ghi lại sự sáng suốt, cứng
      rắn của các cấp chỉ huy Hải Quân,
      đă duy tŕ được an ninh và trật tự, tránh
      sự hỗn loạn trong giờ phút nghiêm trọng
      cuối cùng. Cũng
      cần nói lên sự kiên tŕ và tinh thần kỷ luật
      thi hành nhiệm vụ của Quân Cảnh, nhân viên an
      ninh của Bộ Tư Lệnh/HQ/Biệt Khu Thủ
      Đô, đă vất vả pḥng thủ hai nút chặn
      Mê Linh và Cường Để để ngăn
      chặn biển người tràn ngập khu vực
      Hải Quân.  Các
      SVSQ Hải Quân, triệt thoái từ Nha trang về, súng
      trên vai, di hành trong ṿng trật tự, âm thầm qua
      Sở Thú để thiết lập ṿng đai pḥng
      thủ trong buổi chiều ngày 29/4 /1975.         Thông
      cảm với hàng chục ngàn sỹ quan, hạ
      sỹ quan, đoàn viên Hải Quân, nhận lệnh
      “tháo giây”, lái tàu tách bến Sài g̣n, đă
      thổn thức, âm thầm gạt lệ bỏ
      lại gia đ́nh, cha mẹ, vợ con để tham
      dự chuyến Giang-Hành Lịch-Sử cuối
      cùng.                                                 Virginia,
      Ngày 30 Tháng 4 Năm 2014                                                                    
      NTTG Chương
      I.  Khởi
      Đầu Cuộc Đời Hải-Nghiệp         Tôi,
      cũng như các thanh niên cùng lứa tuổi, phải
      thi hành nghĩa vụ quân sự v́ đất nước
      đang có nhu cầu phát triển quân đội. Anh em
      chúng tôi, những người chưa từng quen nhau,
      nhưng đă t́m được cùng chung một đáp
      số. Chúng tôi đă giă từ đời sống dân
      sự và chọn hải-nghiệp làm cứu cánh. Chúng
      tôi rất lấy làm may mắn và hănh
      diện khi được tuyển chọn vào Trường
      Sinh Viên Sỹ Quan Hải-Quân Việt Nam Cộng Ḥa.  
               Tháng
      3 năm 1959, tôi vừa đúng 20 tuổi, chúng tôi
      mạnh dạn từ giă gia đ́nh “đứng lên
      đáp lời sông núi”.  Chúng tôi tŕnh diện
      Trung-Tâm Huấn Luyện Hải-Quân Nha trang bằng hai
      nhóm, nhóm lính mới ṭ-te từ Sài g̣n và nhóm “ngoài
      nớ” th́ xuất phát từ Huế.  Chúng tôi
      đều dùng xe lửa , trẩy Bắc xuôi Nam, để
      đến Nha trang.          Anh
      em chúng tôi vẫn biết khi vào Quân Đội th́
      phải chấp hành kỷ luật nhưng cũng
      không tránh khỏi cái “shock” trong ngày đầu
      đặt chân vào “ḷ luyện thép”.  Mấy
      chiếc GMC vừa đổ chúng tôi xuống kỳ
      đài Trung-Tâm Huấn-Luyện th́ từ trong kư túc xá
      SVSQ, một đám hải-tặc với gương
      mặt “cô hồn” chạy ngược về hướng
      chúng tôi, dẫn đầu là SVSQ/K8 Nguyễn Thế
      Sinh. Anh em chúng tôi nhận thấy trong đám
      nầy có một số bạn ngoài đời, riêng tôi
      cũng nhận ra hai nguời bạn cũ, Nguyển
      Minh Thơ và Tôn Thất Sanh. Chúng tôi cứ tưởng
      bở, giơ tay ngoắc ngoắc miệng la thật
      to để bắt bồ:  “Hi there, what’s up
       m…a…n!”.  SVSQ/K8 Nguyễn Thế Sinh
      với gương mặt hầm hầm đứng trên
      kỳ đài ra lệnh:  “Các anh theo lệnh tôi,
      Ng.h.i.ê.m! Các anh vác hành lư lên vai và chạy theo tôi”.
               Thế
      là chúng tôi phải chạy ba ṿng sân vận động.
       Mọi nguời thở hồng hộc, ḅ lê ḅ càng.
      Chạy cạnh tôi có anh THV, người gốc
      Miền Nam hơi cộc, xài ngay một tờ giấy
      năm trăm, miệng bô bô chửi thề “.. ..
      tụi nó làm tàng quá”. Sau đó không lâu anh Nam
      Kỳ nầy được chúng tôi đổi tên
      hắn là TH “Bô”.         Ngày
      đầu của đời lính chúng tôi được
      SVSQ/K8 tiếp đón một cách nồng hậu  với
      màn chạy marathon để mở màn cho “giai đoạn
      huấn nhục” mà khóa chúng tôi là vật trắc
      nghiệm đầu tiên. Cái màn hạ nhục
      nầy, dưới nhiều h́nh thức, vẫn
      tiếp tục đều đều để g̣ ép
      chúng tôi vào kỷ luật quân đội. Có
      một đêm chúng tôi đang ngủ ngon lành th́ có
      lệnh tập họp trước pḥng ngủ.  SVSQ/K8
      Nguyễn Thế Sinh, oai phong ra phết (v́ hắn là
      ĐĐT/SVSQ) dơng dạc ra lệnh: “các anh, chia nhau,
      “quỳ” hai bên đường, làm hàng rào danh
      dự, từ đây đến
      cải-hối-thất, c̣n hai anh lực lưỡng
      theo tôi”.  Hai bạn tôi, từ pḥng ngủ ra,
      h́ hục khuân… “vua ba-gai” Trần Nhật Chinh
      đi xuống nhà tù ngủ một đêm.
      Những sự đày ải, hành hạ triền miên
      nầy đă làm cho một anh em trong khóa chúng tôi tên
      Cửu phải “drop out” v́ bịnh tâm thần.         Sau
      màn chạy bộ “dằn mặt” chúng tôi
      được đưa vào cư trú ở từng
      trệt của dăy lầu 2 tầng nằm sau Bộ
      chi huy TTHL. SVSQ Khoá 8 th́ chiếm cứ tầng trên. Ngày
      hôm sau là lễ nghỉ cuối tuần, thanks God!
      Chúng tôi đuợc nghỉ để “get back to
      shape” và có th́ giờ để quan sát địa
      thế. TTHL/HQ Nha trang ở một vị trí lư tưởng
      như một Trung Tâm Nghỉ Mát, phía trước trường
      có băi biển cát trắng trải dài từ Cầu
      Đá cho đến thành phố Nha trang. Sau trường
      được trấn bởi dăy núi cao ngăn cách
      bằng khu Đồng-Ḅ lầy lội, mà sau nầy
      hằng đêm chúng tôi đă hướng dẫn
      một toán tân binh đi qua Đồng-Ḅ lập
      tổ phục kích.           Cây
      thùy dương cao vút, che phủ khắp khu vực
      Trung Tâm Huấn Luyện, reo triền miên trong gió.
       Nhiều đêm có gió to, biển động, sóng
      vỗ ́ ầm ngoài băi biển, cộng với
      tiếng ŕ rào phụ họa của lá thùy dương,
      tạo nên một bản nhạc ḥa tấu thiên nhiên……thật
      là buồn.          Một
      tháng qua đi, chương tŕnh huấn nhục
      chấm dứt song song với  lệnh “cấm
      trại” đă được giải tỏa, Anh em
      khóa tôi ‘đi bờ’ với cái cầu vai màu đen
      (chưa gắn alpha). Chúng tôi đuợc chia thành 3 chi
      đội, hai chi đội đi bờ và một chi
      đội trực (thủ trại). Ra phố Nha trang
      chúng tôi đă t́m được không khí tự-do,
      thoải mái sau một tháng bị giam lỏng trong
      trại.                 Sau
      thời kỳ huấn nhục chấm dứt, chúng tôi
      chú tâm nhiều đến các khóa học chuyên môn
      cần thiết cho hải-nghiệp. Sống chung
      với nhau trong một tháng th́ mỗi người
      trong anh em chúng tôi đều được đặt
      cho một cái “nickname” cho hợp với cá tánh
      mỗi người. Anh Hà Ngọc Lương người
      gốc miền Bắc thích ăn tiết canh, mấy
      anh Nam Kỳ cười nhạo, HNL chống chế
      “tiết canh giải nhiệt”. Thế là anh em
      tặng cho anh ta cái biệt hiệu nầy. Mỗi người
      đều có tên mới thay thế cho cái tên cha
      mẹ đặt cho, thí dụ: Đằng Ấy,
      Cả Đẫn, Perlon, Lotion Kata, TH Bô, v.v. Riêng tôi
      cũng không tránh được cái số mạng.
      Số là, khi c̣n ngoài đời tôi thấy Nguyễn
      Minh Thơ và người bạn tên Hồng tập làm
      “lực sĩ đẹp”. Thơ và Hồng có
      bộ ngực rất nở nang. Tôi bắt chước
      mua  sách về ‘kéo tạ” mỗi ngày.  Tôi
      theo “bí kíp” tự luyện mà không có sư phụ
      truyền khẩu quyết nên bị tẩu hỏa
      nhập ma, bắp thịt ngực nở ít, bắp
      thịt nách nở nhiều nên hai tay tôi không
      “xếp” sát vào nguời được. Tôi có tướng
      đi “kênh kênh”, ngạo mạn nên được
      bạn đặt cho cái tên Thầy Gồng.
                Bộ
      chỉ huy TTHL/HQ có Thiếu Tá ĐCT làm Chỉ Huy
      Trưởng, sau nầy ông đuợc thăng lên
      chức Phó Đề Đốc. Ông nầy rất
      nghiêm nghị, ít nói nhưng hiền từ.  Chúng
      tôi ít có dịp “chat” với ông v́ SVSQ nào cũng
      muốn né tránh mặt trời. Thời gian sau,
      Thiếu tá VHT về trường làm CHT/TTHL, thay
      thế Thiếu Tá Th. được bổ nhiệm vào
      chức vụ quan trọng khác.  Hai mươi chín
      (29) năm sau, tôi được gặp lại Phó
      Đề Đốc ĐCT ở Orange County, CA khi tham
      dự kỷ niệm 30 năm nhập khóa của
      K8/SQ/NT.         Thiếu
      Tá VHT rất b́nh dân, tánh t́nh cởi mở. Thiếu
      Tá T. củng tốt nghiệp trường Hải Quân
      Pháp.  Ông CHT mới nầy thích tiếp xúc với
      đám SVSQ, ngược lại SVSQ cũng muốn
      “lấy điểm” với ông anh cả nầy.
       Mỗi chiều, sau giờ cơm, ông CHT thả bộ
      hứng gió gần kỳ đài th́ đám SVSQ bu
      lại, chào và gợi chuyện. Ông CHT được
      dịp “xổ” bầu tâm sự. V́ ông là gốc
      người Huế, phát âm rất nặng, nói
      giọng quá thấp (lí nhí trong miệng) mà lại
      “nổ” nhanh như trực thăng Cobra tác xạ.
      Mỗi cuối câu ông ngừng giọng…hỉ ?..
      hỉ?  Mấy anh SVSQ ngẩn ngơ trả
      lời….dạ, dạ. Tan hàng tôi hỏi ông nói ǵ
      vậy?  Đám SVSQ, gốc Sài g̣n, lắc đầu
      trả lời:  “chẳng hiểu cái… chi .
      .chi”.         Sỹ
      quan kế tiếp mà chúng tôi thường có dịp
      tiếp xúc đó là Đại Úy Nguyễn  Văn
      Ánh, giữ chức vụ Giám Đốc Quân
      Huấn, sau nầy lên cấp Đại Tá. Đại
      Tá Ánh là một trong số người mà tôi kính
      mến nhất trong HQVN. Ông có gương mặt
      hiền ḥa, ăn nói rất nhỏ nhẹ, và đặc
      biệt là có nhiều thiện cảm với SVSQ.
      Đời lính của tôi gặp Đại Tá Ánh
      chỉ vỏn vẹn 3 lần ngắn ngủi: lần
      đầu khi tôi c̣n là một SVSQ, lần thứ hai tôi
      đi học Mỹ về, ông giữ chức
      vụ TMT/HQ, và lần cuối cùng là trên chiếc PGM
      của Đại Úy Trần Minh Chánh vào đêm 29 tháng
      4 năm 1975.         Ban
      giảng huấn nhà trường th́ tôi c̣n nhớ
      một số ít như: Trần văn Sơn, Lê
      Phụng, Nguyễn tiến Ích, Hồ ngọc Ngà, và
      Đặng đ́nh Hiệp. Các vị sỹ quan
      nầy đều tốt nghiệp tại trường
      Sỹ Quan Hải Quân Pháp.          Người
      sỹ quan cuối cùng ở trường Sỹ Quan
      Hải Quân mà tôi xin tạm gọi là “Vua Kỷ Luật”,
      người sỹ quan gương mẫu nầy, mà măi
      sau nầy chúng tôi thương, tôn làm sư
      phụ. Khi chúng tôi vào trường ông giữ
      chức vụ CHT trường SVSQ.  Ông nầy
      biểu tượng cho kỷ luật, nghiêm
      nghị, khô khan t́nh cảm, ít nói, không bao giờ cười.
      Hàng tuần ông xuống thanh tra chúng tôi về quân
      phục, pḥng ngủ, pḥng vệ sinh, v.v. để
      bảo đảm sự sạch sẽ và ngăn
      nắp.          Hơn
      hai năm thụ huấn tại trường SVSQ/HQ,
      trong những ngày cuối tuần đi
      bờ, đám SVSQ “quậy” nát phố phường
      Nha trang, đưa đào đi thăm Tháp Bà cầu
      duyên, Ḥn Chồng thề thốt hoặc đi ăn
      nem nướng Ninh Ḥa, phở Chụt. Trong khóa tôi có
      3 anh (HNL, NĐĐ và MVH), thả neo móc phải
      đá ngầm, sau nầy xin về phục vụ
      tại quân trường để được
      gần…. quê vợ.           Trong
      khi đám đệ tử dùng chiến thuật đánh
      mau đánh mạnh th́ sư phụ rút vào “Tuyệt
      T́nh Cốc” ôm con tim giá lạnh nghiền ngẫm bí
      kíp Tác Phong, quyết không… bắt chước
      “tụi nó” , nếu không tụi nó giỡn mặt,
      khó làm việc.  Đến khi chúng tôi măn khóa ra
      trường th́ sư phụ vẫn tuyệt đối
      giữ vững với lời thề……..no
      girlfriend!          Nghe
      thiên hạ đồn rằng, vài năm sau sư
      phụ được đổi về Trường Vơ-Bị  
      Đà-Lạt làm giảng sư. Là tướng
      giỏi cần phải biết khai thác thiên thời, địa
      lợi, nhân ḥa. Cơ duyên đă tới, sư
      phụ liền phất cờ ra quân. Đà
      Lạt với khí hậu mát lạnh quanh năm, các
      SQHQ đều mặc demi-saison với cấp bậc vàng
      chói trên tay áo, cà vạt, casquette trắng có hoa lá cành
      (quân phục mùa Đông của HQ). Từ một
      sỹ quan khô khan t́nh cảm biến đổi thành
      một người hào hoa, phong lưu giống như Richard
      Gere trong phim An Officer and a Gentleman. Sư
      phụ trở thành cây đinh làm cho
      nhiều cô gái để ư.  Ngày nghỉ cuối
      tuần, xe của sư phụ lúc nào cũng chở vài
      ba cô gái, nói năng líu lo, nũng nịu….biết
      zồi, khổ lắm, nói măi!          Nhưng
      có một ngày đẹp trời, trên xe chỉ thấy
      có một giai nhân, ông điều chỉnh
      hải bàn, ôm tay lái hướng về Hồ Than
      Thở.  Trước phong cảnh hữu t́nh, ông
      trịnh trọng cầm tay ngựi đẹp, nói qua
      hơi thở… “would you marry me?”. Người
      con gái trẻ đẹp đó hiện đang sống
      hạnh phúc với sư phụ ở miền Nam Texas,
      USA.          Ba
      tháng sau ngày nhập quân truờng, cầu vai màu đen
      trên áo được tô điểm thêm cái Alpha vàng
      ánh. Trường Sinh Viên Sỹ Quan Hải Quân lại
      có thêm một khóa mới, Khóa Đệ-Nhất Nhân-Mă gọi
      nôm na là Khóa 9 SQHQ/NT. Trong niềm vui rộn ră, anh em chúng
      tôi mướn ngay xe đêm về Sài g̣n/Huế
      nghỉ phép.  
         Thời
      gian nghỉ phép qua nhanh, chúng tôi lại về quân trường
      tiếp tục trau dồi  hải nghiệp. Khóa
      8/SQHQ làm lễ măn khóa ra trường và riêng chúng
      tôi cũng bận rộn chuẩn bị cho kỳ thi
      “lên lớp”.  Sau một kỳ thi gay go, hồi
      hộp, học ngày, học đêm, kết quả
      đa số anh em chúng tôi được mang cấp
      bậc Chuẩn Úy, chúng tôi cảm thấy hănh
      diện, trưởng thành hơn trong vị trí
      mới. Có vài anh em thiếu may mắn thi không đủ
      điểm, phải “ra trường sớm” với
      cấp bậc Trung Sĩ.          Chúng
      tôi làm lễ “khao lon”, tôi lănh phần trang trí.
      Quan khách tham gia đông đảo, anh em mời đào
      ngoài phố Nha trang vào dự rất đông, đặc
      biệt có ca sĩ Thanh Thúy cùng đến chia vui.
      Ca sĩ Thanh Thúy ở sát vách với nhà bác tôi
      ở đường Cao Thắng, Sài g̣n, đối
      diện với dẫy lầu 5 tầng. Thanh Thúy
      dạo đó thường đêm đi hát tại các
      vũ trường: Đại Nam, Arc en Ciel,
      Ngọc Lan Đ́nh, v.v. Thanh Thúy là thần tượng
      của tuổi trẻ thời đó và tôi cũng là
      một trong số “fans”.  Mỗi lần về phép,
      tôi đến vũ trường để nghe nàng hát.
      Trong ánh đèn mờ ảo của vũ điệu
      “slow”, Thanh Thúy đứng hát trên sân khấu,
      áo dài trắng, tóc xơa trên vai, cất tiếng hát
      (giọng Huế) trầm buồn trông ….rất liêu
      trai.         Mùa
      Hè năm 1961 là ngày quan trọng nhất trong cuộc
      đời binh nghiệp của chúng tôi. Chúng tôi làm
      lễ măn khóa dưới sự chủ tọa
      của Tổng Thống Ngô Đ́nh Diệm. Thủ khoa
      khóa tôi là anh Hà Ngọc Lương. Tổng Thống
      Diệm đă tặng cho anh em chúng tôi một “con ḅ”
      để ăn mừng nhưng chúng tôi tặng
      lại nhà trường để làm phụ trội
      ẩm thực cho K10/SVSQ và thủy thủ tân binh. 
         Ra
      trường với cấp bậc Thiếu Uư, tôi
      được BTL/HQ thuyên chuyển xuống Hải
      Vận Hạm Hát Giang, HQ 402, do Đại Úy Nguyễn
      Hữu Chí, K3/SQ/NT, làm Hạm Trưởng, sau nầy
      ông được phong chức Phó Đề Đốc.
      Đại Uư Chí, cũng là một nhà thơ với bút
      hiệu Hữu Phương, tánh t́nh hiền ḥa, lăng
      mạn, đa t́nh và đặc biệt là rất
      dễ…yêu. Tôi chỉ phục vụ với ông trong
      một thời gian quá ngắn, vỏn vẹn chỉ có
      3 chuyến công tác, Côn Sơn, Đà Nẵng và Hoàng
      Sa. Đại Úy Chí rất có t́nh với tất
      cả sỹ quan chiến hạm, ông xem chúng tôi là
      những người em, người bạn hơn là
      sỹ quan thuộc quyền. Khi ông qua đời
      ở Virginia, tôi và Thiếu Tá Phạm văn Lớn
      đă đứng canh quan tài cho ông theo lễ nghi quân
      cách.         Tôi
      được đổi về Hải-Đoàn 25 Xung
      Phong ở Cần Thơ do Đại Úy Ngô Khắc Luân,
      K2/SQ/NT, làm Chỉ Huy Trưởng, sau nầy ông
      được phong chức Đại Tá. Trong ngày tŕnh
      diện, ông chỉ định tôi làm Sỹ Quan Căn
      Cứ. Công việc tương đối nhàn hạ,
      thanh tra giang đĩnh, kiểm soát bảo toàn, bổ
      xung tiếp liệu.  Tôi
      cũng được ông CHT giao cho một chiếc
      Jeep toàn quyền xử dụng.  Ông CHT tôi là người
      hiền lành, không kiêu cách, tôi cảm thấy may
      mắn v́ một số bạn cùng khóa gặp
      phải một vài Đơn Vị Trưởng …..hách
      x́ xằng. Tôi
      được cư trú tại biệt thự của
      Hải Quân ở gần căn cứ. Biệt
      thự có ba pḥng ngủ, ở giữa là pḥng khách,
      pḥng ăn.  Pḥng ngủ bên trái, dành cho CHT
      Bộ Chỉ Huy Giang Lực, luôn luôn khóa kín, tôi
      chọn pḥng bên phải.  Đại Úy CHT cư trú
      nhà bên cạnh với gia đ́nh.           Thỉnh
      thoảng ông CHT chỉ định tôi đi hộ
      tống công voa gạo từ Cần Thơ đi
      quận Trà-Ôn hoặc tiếp viện cho đoàn công
      voa than do Trung Úy Đỗ Quang Khanh, K7/SQ/NT làm trưởng
      đoàn,  từ Năm Căn về Sài g̣n, bị
      phục kích.           Ở
      đơn vị nầy tôi hưởng đầy
      đủ tự do và quyền hạn của
      một sỹ quan.           Hậu
      Giang hiền ḥa, bến Ninh Kiều t́nh tứ,  I
      wish I could stay here forever.         Một
      hôm ông CHT giao cho tôi một số công việc v́ ông
      phải bay thám sát với Tư Lệnh Sư Đoàn
      vào sáng sớm hôm sau. Chiều hôm đó có anh
      du-kích xă được Việt Cộng phát cho
      một khẩu “oảnh tầm sào” (súng ṇng dài). Anh du-kích mừng húm hẹn hôm sau thực tập
      tác xạ. Sáng hôm sau, trực thăng của Tư
      Lệnh Sư Đoàn bay ngang vùng anh du-kích, wrong place
      at the wrong time, anh du-kích ngắm và “để
      nhẹ” vào đít trực thăng một phát,
      trực thăng lao chao. Anh du-kích quăng súng la
      to… “bull’s eye”! (trúng mục tiêu); trực thăng
      rớt.  Trời thương, Phật độ, không
      có tử thương, riêng ông CHT của tôi lănh
      một vết thẹo “vừa đủ” để
      được gắn trên ngực một Chiến Thương
      Bội Tinh (tương đương Purple Heart
      của Mỹ).          Tôi
      cứ tưởng đời tôi cứ tà tà như
      vậy nhưng ông bà ta thường nói: mưu
      sự tại nhân, thành sự tại thiên.  Có
      một hôm,  Đại Úy CHT trao cho tôi một công
      điện thượng khẩn của Bộ Chỉ Huy
      Giang Lực gửi cho HĐ 25 XP,  nội dung công
      điện: Chỉ thị Thiếu Úy TH về
      tŕnh diện Chỉ Huy Trưởng Giang Lực
      trong thời gian sớm nhất.          Oh,
       my …God!  Tay chân tôi rụng rời, phen nầy
      chết chắc.  Nếu ai thường xem phim Chưởng
      th́ biết “Giang Nam Thất Quái”, c̣n trong quân
      chủng chúng ta có “Hải Quân Tứ Độc”
      danh trấn giang hồ (nhứt T., nh́ Q., tam C,
      tứ H) mà ông CHT/GL là Đệ Tam Độc
      Thủ.  Không riêng ǵ tôi mà ông CHT của tôi cũng
      rất lo lắng.         Cái
      ǵ đến phải đến. Tôi về Sài g̣n tŕnh
      diện Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy
      Giang Lực, Trung Tá Chung Tấn Cang, K1/HQ/NT, ở
      trại Cửu Long, Thị Nghè, trong bộ Đại
      Lễ thẳng nếp. Tôi lo lắng v́ không biết
      sự việc ǵ sẽ xẩy ra? Nhưng với
       bản tánh luôn luôn chấp nhận thử thách,
      …..que sera… sera.  Sau khi xưng tên họ tôi
      đứng nghiêm chờ lệnh. Tôi từ từ nh́n
      lên, ông CHT/GL một tay cầm “píp”, bập,
      bập, một tay lật hồ sơ cá nhân, môi cười
      tủm tỉm, nh́n tôi từ đầu đến chân
      rồi chậm răi chỉ thị: “Tôi đang thành
      lập Hải Đoàn 22 Xung Phong (lưu động),
      anh về đây giúp tôi tiếp nhận giang đĩnh,
      lănh vũ khí, bổ xung dụng cụ thiết bị
      và chu toàn những công việc của một sỹ
      quan căn cứ. Báo cáo tôi hàng ngày về tiến
      triển công việc, anh có ư kiến ǵ th́ cứ
      hỏi”.  Tôi mạnh dạn trả lời:
      “Dạ không”.  Ông ra lệnh “dismiss!”, tôi
      chào và đi ra ngoài.  Tôi thở dài nhẹ nhơm
      ….  not too bad!  Ngày đầu gặp
      gỡ tôi chưa t́m được cái “độc”
      nơi ông như lời đồn đăi.           Với
      sự hưóng dẫn của CHT/GL và sự tận tâm
      của tôi, HĐ 22 XP được thành h́nh dưới
      sự chỉ huy của Trung Úy Huỳnh Duy
      Thiệp, K7/SQ/NT.  BCH Hải Đoàn nằm trong
      trại Cửu Long, gần BCH/GL và HĐ 24 XP do Đại
      Uư Nhan Chấn Toàn làm CHT sau đó Đại Úy
      Nguyễn Kim Hương Giang về thay thế Đại
      Úy Toàn.  Đại Úy NKHG là một sỹ quan
      rất thâm niên của Thủy Quân Lục Chiến nhưng
      v́ “Conflict of Interest” ǵ đó trong
      nội bộ Sư Đoàn nên t́nh nguyện
      về với Hải quân.  HĐ 22 XP là một
      giang đoàn lưu động, thường xuyên
      hoạt động ở miền Tây tùy theo nhu cầu
      chiến trường.  CHT và SQ Hải Đoàn ít
      khi có mặt ở hậu cứ.  Tôi là sỹ quan
      độc nhứt của đơn vị ở
      lại lo phần yểm trợ.           Các
      Hải Đoàn Xung Phong sau nầy được đổi
      tên là Giang Đoàn Xung Phong.  Trung Úy Huỳnh Duy
      Thiệp, trong giai đoạn cuối cùng được
      thăng cấp Trung Tá, và giữ chức vụ Giám
      đốc Thương Cảng Đà Nẵng.          Tôi
      phục vụ tại HĐ 22 XP với thời gian 2 năm,
      gần gũi vớí CHT/GL hàng ngày tôi chưa từng
      thấy ông “hạ độc thủ’ với ai mà
      chỉ thấy nơi ông tư cách của người
      anh cả, luôn luôn hướng dẫn, bảo vệ
      quyền lợi của mọi người dưới
      quyền. Tôi c̣n nhớ rơ có 2 sỹ quan làm
      việc tại BCH/GL đó là Trung Uư Nguyễn
      Thiện Nhựt (Nhựt Noel), K3/SQ/NT và Trung Úy
      Trịnh Kim Thanh, K5/SQ/NT.  Hai ông nầy được
      thăng cấp Đại Úy theo Nghị Định
      của Bộ TTM (thời đó thăng cấp Đại
      Úy thật là một điều rất khó khăn) nhưng
      khi Nghị Định của Bộ TTM về đến
      BTL/HQ th́ hai tên Nhựt và Thanh bị gạt bỏ ra
      khỏi danh sách thăng cấp, tạo nên một
      sự bất ḥa giữa BCH/GL và  BTL/HQ.  Tôi có
      linh cảm là Đại Tá Tư Lệnh và Trung Tá
      CHT/GL không được thuận thảo với nhau
      trong công vụ.           Có
      thể nói Ông CHT/GL là sỹ quan cao cấp mà tôi
      gần gũi, phục vụ lâu nhất trong cuộc
      đời binh nghiệp.  Ông có thái độ bao
      dung, rộng lượng, bênh vực “đệ
      tử” hết ḷng nên ông thu phục được
      sự mến mộ, trung thành của nhiều sỹ
      quan thuộc cấp.  Có thể nói ông đă thu hút
      được nhiều sỹ quan “chịu chơi”,
      gan dạ, làm chớ không ba hoa chích cḥe đặc
      biệt là không ..”get cold feet”. Về sau lại
      có thêm một sỹ quan TQLC, Đại Tá Cổ Tấn
      Tinh Châu, đem kinh nghiệm Lính Thủy Đánh
      Bộ, về đầu phục dưới trướng
      của đại nguyên soái CTC, trách nhiệm Đặc
      Khu Rừng Sát. Từ sự kính trọng đến
      cảm mến là động lực thúc đẩy tôi
      có mặt tại BTL/HQ để chia xẻ với Ông
      nỗi lo âu trong giờ phút nghiêm trọng.   
              Lịch Sử Hải
      Quân Việt Nam Cộng Ḥa có tất cả 6 sỹ
      quan liên tiếp thay nhau làm Tư Lệnh Hải Quân:
       Thiêú Tá Lê Quang Mỹ, Đại Tá Hồ
      Tấn Quyền,  Phó Đô Đốc Chung Tấn
      Cang, Đại Tá Trần Văn Phấn, Đề
      Đốc Trần Văn Chơn, Đề Đốc
      Lâm Ngươn Tánh, và Phó Đô Đốc Chung
      Tấn Cang (lần thứ  nh́). V́ tôi là sỹ
      quan cấp nhỏ nên ít có dịp làm việc gần
      gũi với một số các vị nầy.         Sau
      biến cố lịch sử tháng 11 năm 1963,  Đại
      Tá Chung Tấn Cang lên làm Tư Lệnh Hải Quân.
       Tôi rời HĐ 22 XP để về làm Chỉ Huy
      Trưởng Ty Quân Xa.  Sỹ quan phụ tá cho tôi
      là Thiếu Úy Đinh Tế Vũ, K10/SQ/NT (em ruột
      Phó Đề Đốc ĐMH).          Tôi
      lập gia đ́nh vào đầu năm 1965, vợ
       tôi làm việc cho hăng dầu Caltex Petroleum
      Corporation, trong sở cũng có người bạn có
      chồng Hải Quân đó là bà Alice Gilbert (dân Pháp). Bà
      Alice Gilbert là phu nhân Đại Tá Nguyễn Đức
      Vân, tốt nghiệp Khoá I trường Hải Quân Pháp.
       Đại Tá và bà Nguyễn Đức Vân qua
      đời ở Virginia; vợ chồng tôi cũng có
      dịp tiễn đưa họ đến nơi an
      nghỉ cuối cùng.           Tôi
      xin ghi lại đây một vài cảm nghĩ đặc
      biệt về Đại Tá Nguyễn Đức Vân v́
      ông có phần liên hệ đến biến cố
      lịch sử trong nội bộ HQVN. Đại Tá
      Vân là một người đức độ, nghiêm
      trang, khiêm tốn, và điều đặc biệt là
      rất tin tưởng …… vào số mạng.  Nhớ
      lại ngày Phó Đô Đốc CTC rời Hải Quân
      v́ lư do chánh trị, Đại Tá Nguyễn Đức
      Vân được Bộ TTM chỉ định
      về làm Tư Lệnh Hải Quân nhưng ông khước
      từ, có lẽ v́….  “số không phát” theo
      quẻ Tử Vi.   Kết quả của sự
      bất tuân thượng lệnh, ông bị Bộ TTM
      ……phạt 30 ngày trọng cấm.  Bà Alice
      Gilbert cũng than văn với vợ tôi về quyết
      định “thẳng thừng” nầy của Đại
      Tá Vân.         Tôi
      đi du học Hoa Kỳ năm 1966 cùng với
      Thiếu Tá Nguyễn Trọng Hiệp, K5/SQ/NT và về
      nước năm 1967.         Mùa
      Hè năm 1967 từ Mỹ trở về, tôi được
      thuyên chuyển về Bộ Tư Lệnh Hạm Đội,
      dưới quyền chỉ huy của Đại Tá
      Nguyễn Thành Châu, sau nầy ông đuợc thăng
      cấp Phó Đề Đốc.  Đại Tá Châu
      là cái “típ” (type) hoạt động (active), sống
      ḥa đồng với anh em nhưng có cái tật hay
      “lấy le”, đặc biệt là xưng hô mầy/tao với
      sỹ quan dưới quyền nên mọi người
      đặt cho cái tên là Cao Bồi Châu.           Để
      có tánh cách “đa dụng” của sỹ quan QLVNCH,
      Bộ TTM mở những khóa Dù Đặc Biệt cho
      sỹ quan các cấp.  Hải Quân cũng có
      mấy tay chịu chơi, ghi tên đi thụ huấn
      như: Thiếu Tá Hoàng Cơ Minh, Đại Úy
      Nguyễn Thiện Lư, K13/SQ/NT, Đại Úy Trần
      Đ́nh B́nh, K11/SQNT, và cuối cùng là tôi, K9/SQ/NT,
      v́ tôi muốn…in gót giầy vào không gian.  Hai
      mươi hai (22) năm sau, con trai tôi, khi c̣n đi
      học ở Virginia Polytechnic Institute (1989), cũng
      nhảy một “saut” sky diving (có instructor) , đem h́nh
      về khoe, vợ tôi xanh mặt la rầy, thằng con
      tỉnh bơ trả lời “để giống
      Ba”. Vợ tôi cụt hứng …no comment! (hết ư
      kiến)!  
 Hải quân Trung tá Trần Hương         Để
      có lư do rút lui trong danh dự, Hoa Kỳ thi hành kế
      hoạch Việt Nam Hóa chiến tranh gọi là Vietnamesation.
       Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa nhận thêm
      nhiều chiến hạm, lực lượng tuần
      thám, thủy bộ, ngăn chặn, do Mỹ chuyển
      giao. Hệ thống Tiếp Vận Hải Quân cũng
      đuợc tăng cường để thỏa măn
      nhu cầu của các lực lượng. BTL/HQ
      soạn thảo
      một chương tŕnh bành trướng khả năng
      Tiếp Vận qua một kế hoạch gọi là
      ACTOLOG (Accelerate Turn Over LOGistics) mà Đại Tá
      Nguyễn Văn Lịch là Sỹ Quan điều
      khiển chương tŕnh (program manager).
       BTL/HQ thành
      lập nhiều Căn Cứ Yểm Trợ Tiếp
      Vận tại 4 Vùng Zuyên Hải và Sông Ng̣i:  CCYTTV/Đà
      Nẵng, CCYTTV/ Cam Ranh, CCYTTV/Nhà Bè, CCYTTV/Đồng Tâm,
      CCYTTV/B́nh Thủy và CCYTTV/An Thới và
      
      CCYTTV/Cát
      Lở.
       Một số căn
      cứ được Hoa Kỳ chuyển giao và một
      số thành lập mới.         Theo
      lời đề nghị của Đại tá
      Nguyễn Văn Lịch, tôi được Đề
      Đốc Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn
      chỉ định thành lập CCYTTV/An Thới - Phú
      Quốc, với chức vụ Chỉ Huy Trưởng,
      sỹ quan phụ tá cho tôi là một Thiếu tá
      của Hải Quân Hoa Kỳ.            Trong
      thời gian tôi phục vụ tại Phú Quốc,
      vợ tôi sanh được một cháu trai tôi đặt
      tên cháu là Trần An Quốc (An Thới – Phú
      Quốc) để ghi lại một kỷ niệm
      đẹp . Tôi nhớ rơ Đại Tá Hồ
      Tấn Quyền cũng đặt tên cho người
      con là Hồ Tấn Phú Quốc (không hiểu kỷ niệm
      ….ǵ..ǵ . đây của hai ông bà?).          Hết
      nhiệm kỳ ở An Thới, tôi được thuyên
      chuyển về HQCX dưới quyền chỉ huy
      của  Đại Tá Đoàn Ngọc Bích.  Sau
      đó tôi được BTL/HQ tuyển chọn đi
      thụ huấn khóa 2/73 Chỉ Huy & Tham Mưu
      tại Long B́nh.                  Ngày
      đầu tŕnh diện, tôi gặp 2 người
      bạn ngoài Hải Quân: Đại Tá Nguyễn Văn
      Tường, CHT Pháo Binh Dù và Trung Tá Trần Văn
      Vinh,  CHT/TTHL/ND.  Đại Tá Tường
      thấy tôi có “Bằng Dù” trên túi áo hắn
      liền vù tới bắt tay nhận bạn. Cái
      bắt tay “làm quen” nầy mà về sau hắn
      khỏi phải tŕnh diện trại tù… Suối Máu.
      Đó là chuyện về sau.         Măn
      khóa Chỉ Huy & Tham Mưu tôi được
      đổi về Bộ Chỉ Huy Yểm Trợ
      Tiếp Vận và sau đó giữ chức vụ
      Tham Mưu Trưởng, Đại Tá Ngô Khắc Luân
      làm Chỉ Huy Trưỏng.           Bộ
      Tham Mưu gồm có: Trung Tá Nguyễn Văn  Phước,
      K8/SQ/NT, pḥng Kế Hoạch, Trung Tá Nguyễn Văn
      Quang, K7/SQ/NT, pḥng KT/BT, Thiếu Tá Hứa Hồng Minh,
      K11/SQ/NT, pḥng Nhân Viên, Thiếu Tá Phạm Văn
      Lớn, pḥng Tiếp Liệu. v. v.         Khi
      tôi về tŕnh diện BCH/YTTV th́ Đề Đốc
      LNT đă hạ san từ vùng đồi núi Đà
      Lạt. Tôi biết đại sư phụ khi ông c̣n
      làm Giám Đốc HQCX, tới lúc ông đi học
      Naval War College ở Newport, Rhode Island, rồi đến
      Trường CTCT/Đà Lạt.              
      Tôi
      t́m ṭi, phân tách cái “khó” của vị Tư
      Lệnh nầy để t́m thuốc giải.  Sau
      đó không lâu tôi đă t́m được cái “clue”.
       Đại sư phụ là người rất nghiêm
      khắc và .. siêu tỉ mỉ. Dưới
      cặp mắt ông việc thi hành và hoàn tất
      mệnh lệnh là chuyện nhỏ, ông c̣n quan sát
      đến quân phục, kỷ luật, tác phong,
      giao tế, đường lối hành xử kính trên,
      mến dưới.  Nếu sỹ quan nào vượt
      qua được hết cái chỉ tiêu nầy
      th́ Ông coi họ là “valuable assets” (tài sản
      hữu dụng) cho Hải Quân.  Ông dành riêng cho
      họ một t́nh cảm ….sâu đậm, tin cậy,
      nâng đỡ.                
                Cuối
      năm 1973 là giai đoạn thắt lưng buộc
      bụng của QLVNCH, viện trợ bị cắt
      giảm tối đa. Không Quân thiếu bom, Lục Quân
      thiếu đạn, Hải Quân thiếu dầu. Ngược
      lại khi chúng tôi c̣n là SVSQ, hàng tuần chúng tôi qua
      trường Trung Tâm Huấn Luyện  Hạ
      Sỹ Quan Đồng- Đế học chiến
      thuật bộ binh, các huấn luyện viên thường
      bị cố vấn Mỹ báo cáo v́ không xài…. .
      hết đạn huấn luyện, trớ trêu!          Trong
      giai đoạn cuối cùng các đơn vị Pháo
      Binh chỉ được lệnh bắn yểm
      trợ cầm chừng v́ khan hiếm đạn.
      Tội nghiệp những sỹ quan bộ binh trẻ
      ở các tiền đồn Địa Phương Quân
      hẻo lánh,  thường xin tàu HQ đạn súng
      nhỏ để tăng cường hỏa lực pḥng
      thủ đơn vị.         Để
      đáp ứng với t́nh h́nh, Bộ Tham Mưu BCH/YTTV
      soạn thảo kế hoạch “Đ́nh Động”
      (De-Activation) một số chiến hạm nhỏ và
      chiến đĩnh, hầu giảm thiểu tối
      đa nhu cầu mức tiêu thụ nhiên liệu.  Song
      song với kế hoạch đ́nh động, BCH/ YTTV
      cũng thành lập một Trung Tâm Điều Ḥa
      Tiếp Vận để có thể tái phối trí nhu
      cầu tiếp vận cho các đơn vị.         Trong
      giai đạn cuối cùng của cuộc chiến, chánh
      phủ Việt Nam Cộng Ḥa yêu cầu chánh phủ
      Hoa Kỳ viện trợ chỉ mấy trăm
      triệu đô-la để tiếp tục chiến
      đấu nhưng lời yêu cầu đó không đuợc
      Quốc Hội Hoa Kỳ phê chuẩn nên …..cái ǵ
      đến phải đến.  Chương
      II.
      Sài G̣n Trong Những Ngày Cuối Cùng                 Sau
      khi các Đơn Vị Hải Quân của Vùng I, Vùng
      II Zuyên Hải và TTHL/HQ rút về Sài g̣n, th́ khu
      vực Hải Quân trở nên náo nhiệt, từ Cát Lái
      cho đến trại Bạch Đằng.  Áp
      lực của Việt Cộng ở phía Bắc Sài g̣n
      càng ngày càng trở nên nặng nề.          Phi
      cơ phản lực A37 có huy hiệu của Không Quân
      VNCH, phát xuất từ Phan Rang, dội bom Dinh Độc
      Lập.  Phi trường TSN, máy bay Mỹ lên
      xuống liên tục để di tản “non-essential
      personnel”  của ṭa Đại Sứ Mỹ và
      của các hăng thầu.  Một số đồng
      bào Việt Nam “lạnh cẳng” cũng xô đẩy
      nhau vào….ăn có.         Pháo
      binh của Cộng Sản nhả đạn liên
      tục “giă nát” phi trường Tân Sơn
      Nhất và trại Hoàng Hoa Thám của Sư Đoàn Dù.
       Vài quả rơi vào thành phố Sài g̣n giết
      đồng bào một cách vô tội vạ.  Có
      một quả rơi vào cư xá Hải Quân Lê Thánh Tôn,
      làm phu nhân Đại Tá Nguyễn Hiền Năng,
      K3/SQNT, bị tử thương.         Sợ
      đạn pháo kích tiếp tục rơi vào khu
      vục Hải Quân gây thiệt hại cho gia đ́nh, tôi
      bàn riêng với Phó Đề Đốc TMT/HQ về
      việc đưa 2 gia đ́nh chúng tôi đi Phú
      Quốc lánh nạn, c̣n chúng tôi ở lại tử
      thủ với Đô Đốc Tư Lệnh.  Phó
      Đề Đốc Thủy đồng ư và t́m cho tôi
      16 vé Air Vietnam đi Phú Quốc. Đến ngày lên phi
      cơ, th́ phi trường TSN đóng cửa v́ bị
      hư hại nặng nề sau trận pháo kích của
      Cộng Quân. Trong cái rủi cũng có cái may, nếu 2
      gia đ́nh đi Phú Quốc một cách suông sẻ, th́
      khi hạm đội rời hải phận Việt
      Nam, hai gia đ́nh chúng tôi sẽ bị mất liên
      lạc. Trường hợp nầy nếu xẩy ra
      chắc tôi phải theo tàu Việt Nam Thương Tín
      trở về Việt Nam với Trần Đ́nh
      Trụ, K8/SQHQ/NT v́ dường như gia đ́nh
      Trần Đ́nh Trụ cũng đang chờ anh ở
      Phú Quốc.         Các
      đơn vị Hải Quân được lịnh
      cấm trại 100%.  Để giữ vững ḷng
      tin và tránh cảnh hỗn loạn có thể xẩy ra
      như trường hợp của cuộc tan vỡ của
      Quân Đoàn I và Quân Đoàn II, Tư Lệnh HQ nghiêm
      khắc chỉ thị: “Hải Quân không có kế
      hoạch di tản”.  Có một vài anh em không nghiêm
      chỉnh thi hành lệnh cấm trại, trốn về
      nhà với gia đ́nh, nên khi hạm đội rời
      Sài g̣n các anh bị kẹt lại.  Sau nầy
      gặp lại tôi ở Mỹ, các anh nầy trách
      ĐĐ/TL ra đi không cho họ biết,… Oh,
      well!!         Trong
      thời gian đó có một vị Đơn Vị Trưởng
      của một đại đơn vị  âm
      thầm, đơn phương “vẽ” một
      kế hoạch (di tản) đưa tàu ra biển
      kể cả việc (theo lời đồn)
      chỉ thị một Dương Vận Hạm (LST)
      neo tại Nhà Bè chờ lệnh.  Đặc
      biệt kế hoạch nầy sẽ không có
      “chỗ trống” cho CNO. Kết quả là
      vị Đơn Vị Trưởng nầy bị
      giải nhiệm …. . tout suite! (ngay tức
      khắc).          Các
      “cố vấn” Mỹ như Đại Tá Joe Gildea
      ra vào BTL/HQ với gương mặt khẩn trương
      và tự đặt ḿnh trong t́nh trạng báo động.
      Bên người luôn luôn đeo theo một radio transistor
      ở vị trí “ON” để chờ nghe bản
      nhạc..Ngựa Phi Đường Xa.          Việc
      pḥng thủ khu vực Hải Quân được chia làm
      3 Phân Khu do Đại Tá Bùi Kim Nguyệt, K3/SQNT và Trung
      Tá Ṭng, K7/SQNT, chỉ huy. Phân Khu I- công trường Mê
      Linh do Trung Tá Xuân, K10/SQNT, đảm trách; Phân Khu II –
      HQCX, do Đại Tá Trần Văn Triết, K7/SQNT, trách
      nhiệm; Phân Khu III – trại Cửu Long (không nhớ
      tên).         Trung
      Tá Xuân, CHT Tổng Hành Dinh, cũng là một trong
      số bạn sinh tử với tôi, mở kho
      vũ khí trao cho tôi 2 khẩu M18 để thường
      trực trên xe jeep….pḥng thân.         Chiều
      ngày 29 tháng 4 năm 1975, tôi qua BTL/HQ th́ gặp Phó
      Đề Đốc Diệp Quang Thủy, TMT/HQ và ông
      cho biết ông vừa đại diện Đô
      Đốc Tư Lệnh lên gặp Tổng Thống và
      được Tổng Thống Dương Văn Minh
      chỉ thị: “Kể từ giờ phút nầy, các
      anh được toàn quyền quyết định cho
      đơn vị ḿnh”, Đô Đốc Thủy c̣n
      nói thêm với tôi “ḿnh sẽ rời Saigon đêm
      nay”. Lúc đó vào khoảng 2 giờ chiều ngày 29
      tháng 4, năm 1975.          Trên
      bầu trời Sài g̣n lúc đó tràn ngập trực
      thăng loại đổ bộ của US Marine, ồn
      ào như đàn ong vỡ tổ cộng với
      tiếng gầm như gào thét của phản lực cơ
      hộ tống của US Navy, đáp lên, đáp
      xuống ở “mấy điểm hẹn”
      để rước “American Citizens và American Buddies”
      ra hàng không mẫu hạm, ngoài khơi Vũng Tàu.
       Trước cảnh hỗn loạn đó làm cho ḷng
      tôi cảm thấy bồi hồi, muốn rơi nước
      mắt. Tôi hồi tưởng lại vài năm trước,
      một kư giả ngoại quốc ôm máy ảnh
      ngồi chờ ở nhà hàng Continental để
      chụp tấm ảnh đầu tiên khi T54 của
      Cộng Sản tiến vào Sài g̣n, tôi cười……no
      kidding!  Nhưng bây giờ tôi mới
      biết ḿnh là thằng khờ.          Theo
      kế hoạch của Đô Đốc Tư Lệnh,
      nếu Saigon thất thủ th́ tất cả hạm
      đội và các đơn vị yểm trợ rút ra
      ngoài biển, tập trung rồi kéo về miền Tây
      cố thủ.         Với
      một người không có căn bản quân sự th́
      việc đưa Hạm Đội ra khỏi Sài g̣n
      là một hành động  “tháo chạy” nhưng
      với cá nhân tôi th́ đó là một quyết định
      “di binh chiến lược” để bảo
      toàn lực luợng và tiềm năng chiến đấu
      của QLVNCH.  Đó là quyết định
      cuối cùng (không có sự lựa chọn) chỉ cần
      chờ giờ ..G ….để xuất phát.         Thủy
      tŕnh của hạm đội từ Sài g̣n ra biển
      phải theo hai thủy lộ: sông Ḷng Tàu và sông Soài
      Rạp, nếu đặc công đánh ch́m tàu buôn
      để “khóa” hai con sông này th́ Hải Quân ta như
      cá nằm trên thớt.  Việt Cộng sẽ dùng
      hỏa công (trọng pháo) đốt chúng ta không c̣n……..manh
      áo va-rơi.          Giờ
      … .G …  đă tới!         Tôi
      từ giă Đô Đốc TMT về văn pḥng thu
      dọn giấy tờ và t́m cách đón gia đ́nh tôi,
      ở bên cư xá Văn Thánh, chỉ cách HQCX bằng
      một con kinh. Tôi không có dịp từ giă CHT tôi
      là Đại Tá Ngô Khắc Luân và sỹ quan trong
      bộ tham mưu.           Các
      nút chặn Mê Linh và Cường Để đă khóa
      kín v́ dân chúng ở ngoài quá đông chỉ chờ có
      lỗ trống th́ tràn vào. Tôi tự nghĩ, ḿnh
      có thể ra, nhưng chưa chắc ḿnh và gia đ́nh
      có thể trở vào.          Tôi
      trở vào HQCX để t́m phương thức khác,
      thời may lúc đó có một chiếc LCVP của
      TTHL/Bổ Túc đi chợ Thị Nghè, tôi nhờ
      mấy anh em thủy thủ đưa qua “kinh Văn
      Thánh”, ủi băi cạnh nhà Tr/Tá Ṭng, Tư Lệnh
      Phó/BTL/HQ/BKTD.  Tôi đứng giữ tàu, tay
      thủ khẩu M18 (bây giờ đổi tên là AR 15, weapon
      of choice của mấy anh Red Neck), nhờ anh
      thủy thủ vào nhà tôi và đón gia đ́nh tôi
      xuống tàu. Cùng lúc cũng có gia đ́nh anh Hoàng
      Thế Thái, K8/SQNT, cùng tháp tùng qua sông.  Trên
      bờ, mấy anh lính TQLC cầm súng M16 bắn chỉ
      thiên mấy phát, miệng la lớn “tụi nó
      chạy rồi tụi bay ơi!”. Tôi sợ mấy
      anh nầy mất b́nh tĩnh, chĩa súng về phía chúng
      tôi th́ rất nguy hiểm.  Tôi cho LCVP rút ra ngay
      để về cặp cầu bên HQCX. Khi rời tàu,
      chúng tôi và gia đ́nh anh HTT chia tay, tôi phải
      đưa gia đ́nh tôi đi “gửi” tạm
      một nơi an toàn để tôi có thể trở
      lại đón khi cần. Tôi chỉ có đủ th́
      giờ đón được vợ và hai con, c̣n cha
      mẹ, anh em đều bị kẹt lại v́ không có
      chuẩn bị trước.           Sau
      nầy anh HTT đă tố khổ tôi với một
      số bạn bè và nói những điều không
      tốt về tôi. Trong t́nh trạng dầu sôi lửa
      bỏng đó, mạnh ai nấy tự lo cho ḿnh
      chứ không ai có khả năng và phương
      tiện để lo cho người khác. Vào phút chót,
      chính ông Tư Lệnh HQ, tôi và mấy cận vệ cũng
      không biết ḿnh sẽ lên chiến hạm nào
      trong khi các chiến hạm lớn đă tháo dây ra lênh
      đênh giữa ḍng.            Tôi
      trở lại BTL/HQ, Trung Tá Nguyễn Tuấn Khanh, Chánh
      Văn Pḥng TL/HQ, thấy tôi mừng rỡ và
      bỏ nhỏ: “Anh H. ở lại với Tư
      Lệnh, tôi c̣n phải về đón gia đ́nh”.
       Khanh, K10/SQNT, khoá sau tôi nhưng chúng tôi là bạn
      thân, đặc biệt là có chung một lập trường,
      nên việc bảo vệ cho Đô Đốc Tư
      Lệnh là trách nhiệm chung và  ĐĐ Tư
      Lệnh tin cậy chúng tôi một cách tuyệt đối.
       Trung Tá Khanh rời BTL/HQ và không trở lại
      được.  Toán bảo vệ an ninh cho Đô
      Đốc Tư Lệnh chỉ c̣n tôi và 5 anh Cận
      Vệ: Thuận, Thâu, Phúc, Quang, và Vân, các anh em
      nầy đều là hạ sỹ quan Hải Quân và
      họ đă sống gần gũỉ với Tư
      Lệnh nhiều năm.         Tôi
      đi một ṿng ngoài văn pḥng Tư Lệnh, tôi
      thấy có hai người đàn ông mặc thường
      phục, mặt rất khẩn trương, tôi chào xă giao
      nhưng không gợi chuyện. Về sau tôi mới
      biết là người nhà của Tổng Thống Dương
      Văn Minh.         Tôi
      đang sắp đặt công việc với các anh
      cận vệ th́ có một anh quân cảnh từ công
      trường Mê Linh vào gặp tôi và cho biết: Có
      một Đại Tá Dù muốn gặp tôi gấp.
       Anh QC liền lái xe đưa tôi ra nút chặn, tôi
      thấy Tường, bạn cùng khóa với tôi ở
      trường CH&TM Long B́nh, đứng ngăn cách
      với tôi bằng 5 lớp hàng rào ‘kẽm gai”.
       Tường nh́n tôi mừng rỡ, rơm rớm
      nước mắt, nói qua giọng nghẹn ngào: “Căn
      Cứ của tao bị pháo cháy hết rồi H. ơi!”.
      Tường cho biết anh đă đứng chờ hơn
      4 tiếng đồng hồ tại đây nhưng không
      thể nào vào đuợc.           Trời
      xui, đất khiến, click! Một ánh sáng
      chớp trong đầu, anh bỗng nhớ tên tôi, nên
      nhắn tin cầu cứu. Tôi nh́n kỹ thấy
      Tường và gia đ́nh đứng lố nhố bên
      cạnh chiếc jeep. Tôi nhờ các anh quân cảnh kéo
      mấy “con ngựa kẽm gai” cho gia đ́nh Tường
      đi qua.  Cũng như gia đ́nh anh HTT, tôi để
      Tường và gia đ́nh tự t́m phương
      tiện ra biển v́ tôi c̣n phải trở lại
      với Tư lệnh.          Tường
      và tôi mất liên lạc kể từ chiều hôm
      đó, cho đến đúng 39 năm sau (29 Tháng 4 Năm
      2014) Tường và tôi mừng rỡ “gặp
      nhau” qua điện thoại. Tường cho biết
      hắn và gia đ́nh, đêm đó ra khơi bằng
      HQ 502. Và hắn cũng không quên kể cho tôi sự
      gian truân khi t́m nhảy một “sô (saut) bồi dưỡng”
      cuối cùng bằng tàu thủy.  Tường cũng
      báo cho tôi tin buồn là Tr/Tá Trần Văn Vinh,
      CHT/TTHL/ND, cùng học khóa CH&TM với chúng tôi đă
      qua đời trong trại tù cải tạo.                 Khi
      Trung Tá Khanh rời BTL/HQ, không có trao cho tôi kế
      hoạch di-tản, tôi cũng không nhận được
      khẩu lệnh của Đô Đốc nên tôi tự
      hoạch định, sắp xếp cho cuộc ra đi
      được an toàn và suông sẻ.           Vào
      lúc 6 giờ 30 tối, tôi chỉ thị một anh
      cận vệ về tư dinh Đô Đốc để
      đón gia đ́nh Đô Đốc Tư Lệnh và
      gia đ́nh tôi.          Vào
      lúc đúng 7 giờ (1900H)  trời vừa sập
      tối, tôi thấy những chiến hạm lớn
      đậu ở cầu B và các cầu tàu trong HQCX
       đă tháo giây ra giữa ḍng.  Tôi mời
      Đô Đốc Tư Lệnh lên đuờng.                
      Tôi dẫn đầu với một thủy thủ tên
      Tiếng (nhân viên theo tôi trong những ngày cuối cùng),
      hướng dẫn Đô Đốc Tư Lệnh và
      gia đ́nh theo sau, 5 anh em cận vệ chia nhau bảo
      vệ hai bên sườn và đoạn hậu. Tất
      cả chúng tôi đều trang bị M18 (7 khẩu)
      cho gọn gàng, riêng tôi c̣n có thêm một khẩu
      “rouleau” nhỏ ngắn ṇng, bên hông.  Đoàn người
      rời văn pḥng Tư Lệnh và đi về hướng
      cầu A v́ nơi đây c̣n có 2 chiếc PGM, mũi
      hạ gịng, chưa vào nhiệm sở vận
      chuyển.          Quăng
      đường tuy ngắn nhưng tôi cảm
      thấy…quá dài và rất nguy hiểm, tinh thần chúng
      tôi căng thẳng và cảnh giác v́ sự bất
      trắc có thể xẩy ra trong chớp mắt.           Đoàn
      người lầm lũi đi trong bóng đêm. Công
      trường Mê Linh súng nổ liên hồi, anh em quân
      cảnh bắn dọa chỉ thiên để chặn
      sự hỗn loạn và đập phá chướng
      ngại vật.  Ngoài phố dân chúng chạy ngược
      chạy xuôi mặt mày hơ hăi. Trên sông Sài g̣n, PCF và
      PBR đảo tới, đảo lui …at full speed,
      quậy sóng cuồn cuộn.           Khi
      đoàn “công voa” đến cây cầu nhỏ,
      nối liền Bến Bạch Đằng và cầu A,
      th́ một số thủy thủ bỏ tàu đi ngược
      về phía chúng tôi. Chúng tôi xuống chiếc PGM đầu
      tiên, cặp ở vị trí trong cùng, không thấy
      sỹ quan hiện diện mà chỉ có một số
      ít thủy thủ đứng trên boong tàu, trạng
      thái hỗn xược, miệng la to “tàu không
      đi, tàu không đi”.           Chúng
      tôi trèo qua chiếc PGM ngoài cùng th́ gặp Đại
      Úy Trần Minh Chánh (con trai Đề Đốc
      Trần Văn Chơn) và Đại Tá Nguyễn Văn
      Ánh, c̣n những vị khác hiện diện trên tàu,
      trong giai đoạn khẩn trương nầy, tôi không
      để ư. Tôi yêu cầu Đại Úy Chánh
      đưa chúng tôi rời khỏi Sài g̣n.  Đại
      Úy Chánh, Hạm Trưởng PGM, ngần ngừ
      một chút rồi trả lời: “tàu vừa
      đi công tác về và vừa lấy dầu xong, chúng
      tôi không có ư định rời Việt Nam v́ ba tôi (ĐĐ
      Chơn) và gia đ́nh c̣n ở lại, và kể
      cả gia đ́nh của thủy thủ đoàn”. 
      Nhưng sau một phút suy nghĩ, Đại Úy Chánh
      lại nói với tôi:  “Tôi đưa quư vị
      ra đến biển rồi chúng tôi sẽ quay
      trở về”.           Hạm
      Trưởng Trần Minh Chánh liền ra lệnh tháo giây,
      HQ 601 từ từ tách bến, khởi đầu cho Đêm
      Giang-Hành Lịch-Sử.         HQ
      601 rời Sài g̣n, không đèn hải hành, âm thầm
      di chuyển trong đêm. PCF và  PBR vẫn ngược
      xuôi quậy sóng bao quanh các chiến hạm như
      để hộ tống, luyến tiếc tiễn
      đưa những người bạn, đă một
      thời chiến đấu bên nhau, ra khơi lần
      cuối.          Kho
      đạn Thành Tuy Hạ bị pháo kích bốc cháy sáng
      rực một góc trời, bom, đạn nổ ầm
      ầm liên tục.  Hạm đội từ
      chiếc, từ chiếc, nối đuôi nhau vận hành
      ra biển.  Thành phố Sài g̣n về đêm đang
      hấp hối trong ánh đèn không đủ sáng.         Đô
      Đốc Tư Lệnh ngồi ở ghế hạm
      trưởng, gương mặt khẩn trương.
      Tôi đứng bên cạnh, tôi đặt một tay vào
      tay ông, tôi cảm thấy tay ông run run xúc động.
       Trách nhiệm của ông quá lớn, liên quan đến
      Hạm Đội và hơn 40,000 binh sĩ dưới
      quyền.  Những ǵ sẽ xẩy ra trong
      những ngày sắp tới?          Tàu
      rời bến Nhà Rồng, rồi qua Nhà Bè và dưới
      sự chỉ huy khéo léo và kinh nghiệm của
      Hạm Trưởng Trần M Chánh  HQ 601 đă ra
      đến biển một cách b́nh an. Riêng  HQ 1
      bị mắc cạn và HQ 502 bị Việt Cộng
      “pháo” trực xạ tại cửa  Cần
      Giờ lúc 3 giờ sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975.         Chúng
      tôi lên HQ 3 do Trung Tá Nguyễn Kim Triệu, K7/SQNT, làm
      Hạm Trưởng.  Tôi nhận thấy sự có
      mặt của Phó Đề Đốc Diệp Quang
      Thủy, Phó Đề Đốc Hoàng Cơ Minh, Phó
      Đề Đốc Đinh Mạnh Hùng và Đại
      Úy Armitage (Phú).  Trong lúc rời HQ 601 một cách
      vội vă, tôi không kịp bắt tay từ giă Đại
      Úy Chánh và nói tiếng cám ơn, thật là một
      điều sơ xuất.  HQ 601 hoàn tất
      nhiệm vụ và quay trở về Sài g̣n.         HQ
      3 trở thành soái hạm của Hạm Đội di
      tản.  Đô Đốc Tư Lệnh, qua máy
      truyền tin, chỉ thị tất cả chiến
      hạm tập trung tại Côn Sơn chờ lệnh.         Trưa
      ngày 30 tháng 4 năm 1975, trên máy phóng thanh, Tổng
      Thống Dương Văn Minh chỉ thị tất
      cả đơn vị c̣n đang chiến đấu
      “buông súng đầu hàng” để bảo vệ
      sanh mạng, xương máu của lính và dân.          Từ
      trong Côn Đảo, anh em Địa Phương Quân và
      giới chức quản lư nhà tù bơi xuồng túa ra
      xin được theo tàu Hải Quân rời đảo.
       Nhân viên chiến hạm yêu cầu họ thả
      súng xuống biển trước khi lên tàu.           Chánh
      phủ Việt Nam Cộng Ḥa bị bức tử.
      Nước mất, nhà tan, chúng ta, những người
      Chống Cộng bảo vệ Tự Do, bỗng
      trở thành những người Vô Tổ Quốc.         Lá
      Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ vẫn tung bay trên các
      kỳ đài chiến hạm đang hải hành ngoài
      hải phận quốc tế nhưng đối
      với thế giới th́ ngọn cờ nầy không c̣n
      tồn tại. Chương
      III.
       Vượt  Đại Dương T́m
      Tự Do         Quyết
      định cuối cùng của Tư Lệnh Hải Quân,
      qua sự trung gian của Đại Úy Phú (Armitage),
      Sỹ Quan Liên Lạc của Đệ 7 Hạm đội,
      chỉ thị Hạm Đội Việt Nam, rời Côn
      Sơn, tháp tùng Đệ Thất Hạm Đội
      Hoa Kỳ, trực chỉ Subic Bay, Phi Luật Tân.         Sự
      hiện diện của Armitage trên HQ 3 là có một
      sự “sắp đặt” chớ không phải là
      ngẫu nhiên.  Ngày xưa anh ta có mặt thường
      trực ở BTL/HQ (không biết anh làm việc pḥng nào)
      anh nói tiếng Việt như người Việt và
      tự giới thiệu với mọi người là
      Đại Uư Phú (tên Việt). Trong thời gian nầy
      anh thường đi nhậu với đám hạ
      sỹ quan và theo lời đồn, between you and me,
      anh là CIA agent.  Trong số HSQ bạn nhậu th́ Hai
      Cheo (heo chai) là bạn rất thân với Đại Úy
      Phú.         Hai
      Cheo tên thật là Trần Văn Hai, một HSQ cuả
      Hải Đoàn 24 Xung Phong vào năm 1962-63. Trần Văn Hai
      có vóc người to lớn nên bạn bè đặt
      cho biệt hiệu Hai Cheo.  Armitage là đảng viên
      của Đảng Cộng Ḥa, sau nầy làm Thứ trưởng
      Quốc Pḥng, rồi sau đó làm Thứ Trưởng
      Ngoại Giao dưới thời Ngoại Trưởng
      Collin Powell. Trong thời gian Armitage ở Bộ Quốc
      Pḥng, Hai Cheo thường vào thăm Armitage và
      được tiếp đăi như VIP.         Trước
      khi rời Côn Sơn, Hạm Đội của Hải
      Quân Việt Nam cần chỉnh đốn hàng ngũ.
       Nhửng tàu có khả năng đi biển nhưng
      t́nh trạng kỹ thuật không được
      bảo đảm hay tàu nhỏ không có khả năng
      vượt đại dương th́ bị đánh ch́m
      sau khi chuyển nhân viên qua tàu khác.  Hoặc có
      một số anh em Hải Quân muốn trở về
      với gia đ́nh th́ xuống tàu nhỏ và tự lái
      tàu trở về Sài g̣n.           Hạm
      Đội Hải Quân Việt Nam, dưới sự
      yểm trợ của Đệ 7 Hạm Đội Hoa
      Kỳ, di chuyển về Phi luật Tân.  Cờ
      Việt Nam Cộng Ḥa vẫn ngạo nghễ tung
      bay trên các chiến hạm đang di chuyển theo đội
      h́nh.         Gần
      40,000 quân nhân và đồng bào tháp tùng trên các
      chiến hạm, sự yểm trợ tiếp liệu
      như thức ăn, nước uống, thuốc men
      được xếp lên hàng đầu, c̣n quan
      trọng hơn cả vấn đề an ninh.  Đô
      Đốc Tư Lệnh chỉ thị tôi phối
      hợp với Armitage để tiếp nhận
      thực phẩm tiếp tế từ “supply ship”
      của Hoa Kỳ, sau đó phân phối lại cho tàu
      Việt Nam trong đoàn.  Trước khi thi hành
      nhiệm vụ, tôi không quên “nháy mắt” với
      mấy cận vệ, keep an eye, cho ông Tư
      lệnh.          Để
      có chỗ trống làm “supply depot”, tôi yêu
      cầu đồng bào nhường phần boong tàu sau
      lái để làm chỗ tiếp nhận và phân
      phối thực phẩm.   Tôi khám phá một
      điều là những người ở khu nầy là
      những người có kinh nghiệm di cư từ năm
      1954, đàn ông th́ được ngụy trang bằng
      một áo hay quần xanh màu thủy thủ để
      dể dàng trà trộn khi lên tàu. Đàn bà mặc áo
      ngắn khi ngồi xuống th́ thấy “băng đạn
      M16” (vàng lá) nặng trĩu đai chặt ngang lưng.
      Sau nầy tôi t́m hiểu th́ mấy người
      nầy là “họ hàng” của một đại sư
      phụ hiện diện trên tàu.         Đoàn
      tàu tiếp tục cuộc hành tŕnh để t́m vùng
      đất mới.  HQ 3 bị hỏng máy Hải Quân
      Hoa Kỳ gửi đến một tàu kéo (tug boat) giúp
      HQ 3 tiếp tục cuộc hành tŕnh.   HQ 502 cũng
      “đi cà nhắc”, được một tàu Mỹ
      kè bên hông tiếp sức.  Đoàn tàu khập
      khễnh tiếp tục cuộc hành tŕnh, giống như
      đám thương binh lẫn lộn trong đoàn quân
      bại trận trên đường lui binh.         Một
      ngày đẹp trời ngoài hải phận Phi Luật
      Tân, qua loa phóng thanh, yêu cầu tất cả quân nhân
      lên boong tàu để làm lễ hạ kỳ.
      Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ được hạ
      xuống và thay thế bằng cờ Hoa Kỳ.  
      Lá Cờ Việt Nam Cộng Ḥa kể từ giờ phút
      nầy trở thành Lá Cờ của Lịch Sử.         Lính
      khóc, quan khóc, đồng bào khóc, cả hạm
      đội cùng khóc……… những giọt lệ
      nầy dành cho quê hương.         HQ
      3 cặp cầu Subic Bay, mọi người rời tàu
      để qua tàu hàng (cargo ship) đi Guam.  Cuối
      hạm kiều một anh lính TQLC Hoa Kỳ nghiêm
      chỉnh giơ tay chào tôi đúng theo lễ nghi quân
      cách.  Đó là cái chào cuối cùng mà tôi hănh
      diện đón nhận v́ tôi đă hoàn thành bổn
      phận và trách nhiệm của một chiến-sĩ
      Cộng-Ḥa. |