HQ
14 và Những Tháng Cuối Của Cuộc Chiến
- Phạm Thành |
||||
LGT:
Thân chuyển đến quư anh chị em một bài
hồi kư vừa đăng trên mạng của một
vị hạm trưởng cuối cùng của Hộ
Tống Hạm HQ-14 nhân Tháng Tư Đen lần thứ
42 đang đến với chúng ta "Năm
năm cứ đến mùa oan trái, đốt nén hương
ḷng để nhớ thương". Đó
là cựu Hải Quân Thiếu Tá PHẠM THÀNH tốt
nghiệp Khóa 13 Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang, hiện
định cư tại tiều bang Maryland. Bài
hồi kư với rất nhiều chi tiết xác thực
nhờ tác giả đă tham chiếu "Nhật Kư
hải Hành". "Nhật Kư Hành Quân" của
chiến hạm trong hành trang di tản cùng những
lời tâm sự tràn đầy xúc cảm khi kể
lại những biến cố đau thương 42 năm
về trước. Có
thể nói những t́nh tiết trên đây khá chính xác,
đúng tới 85%, tuy nhiên có một số sự
kiện tác giả nhầm lẫn, thí dụ như
kể một sự kiện HQ.14 rời vùng biển Tiên
Sa, Đà Nẵng chiều ngày 30-03-1975 để nhổ
neo di tản về đến Vũng Tàu chiều ngày
31-03-1975. Hộ Tống Hạm HQ.14 dù cho t́nh trạng
kỹ thuật tốt, hải hành với hai máy
tiến full, vận tốc 14 hải lư/giờ th́ không
thể đến Vũng Tàu trong 24 giờ được. Trân
trọng Châu Đ́nh Lợi HQ-11
HQ
14 và Những Tháng Cuối Của Cuộc Chiến - Phạm
Thành
1.
Lời Tựa Sau
khi chuyển giao Hộ Tống Hạm Vạn Kiếp II
(HQ 14) cho Hải Quân Hoa Kỳ tại Subic Bay năm 1975,
gia đ́nh chúng tôi nhập trại tỵ nạn
tại Goam và sau đó được đưa qua
lục địa Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1975 để
nhập trại tỵ nạn Indian Town Gap, Pennsylvania.
Đến tháng mười 1975, chúng tôi được
xuất trại, về định cư tại thành
phố nhỏ Wilkes Barre thuộc tiểu bang Pennsylvania.
Sau đó, theo công việc làm, chúng tôi dời lên Long
Island, New York; và cuối cùng, chuyển về Annapolis,
Maryland. Tôi đă về hưu cách đây ba năm lúc
71 tuổi, hiện sống với vợ tại Annapolis.
Hai con gái của chúng tôi đă lập gia đ́nh. Chúng
tôi có 2 cháu ngoại. Từ
khi đến Hoa Kỳ, nhiều lần nhớ đến
anh em cùng chiến hạm, tôi muốn viết lại vài
ḍng để làm mối dây liên lạc và cùng ôn
lại quá khứ. Nhưng v́ bận bịu với gia
đ́nh, học hành, và việc làm, nên tôi cứ
hẹn rày hẹn mai măi. Cho đến tuần trước,
khi nói chuyện với anh Trần Thanh T, bạn cùng khóa
13 Hài Quân Nha Trang với tôi, T khuyên tôi nên viết
lại một bài ngắn gởi đăng trên Đặc
San của Đại Hội Hải Quân VNCH Toàn Cầu
2017, để chia sẻ với các chiến hữu
Hải Quân VNCH, tôi mới quyết định viết
bài này, với mong ước được ôn lại
kỷ niệm cũ và liên lạc với anh em thuộc
HQ 14, những chiến hữu đă cùng tôi chiến
đấu bảo vệ tự do, chia sẻ vui buồn,
hiểm nguy, nhọc nhằn gian khổ, nhất là trong
những tháng cuối của cuộc chiến. Tôi xin
cầu mong cho anh em và gia đ́nh ở ngoại quốc
và trong nước luôn được mọi sự b́nh
an. V́
tôi c̣n giữ được quyển nhật kư riêng tôi
viết trong thời gian ấy, nên ngày tháng và các chi
tiết quan trọng trong bài này đều chính xác.
Ngoại trừ một số ít chi tiết dựa trên
trí nhớ, có thể sai lạc chút ít. Mong anh em HQ 14
đính chính giùm. Tôi rất mong được liên
lạc và tiếp nhận ư kiến xây dựng của
anh em. Email của tôi: thanh.pham.navy@gmail.com
HQ
14 trong ngày Lễ Quốc Khánh tại Thương
Cảng Saigon 2.
HQ 14 vào sửa chữa Tiểu Kỳ Sau
chuyến công tác dài trên ba tháng đầy sóng gió, HQ
14 trở về Saigon ngày 13 tháng 3 để vào Tiểu
Kỳ, Thủy thủ đoàn ai cũng vui mừng v́
được gần nhà hơn một tháng. Riêng tôi,
đây cũng là dịp được gần vợ
con. Chúng tôi cưới nhau đầu nằm 1973. Đến
nay, con gái đầu ḷng của chúng tôi đă sắp
tṛn một năm. Tôi cần thời gian để làm
quen với nó. Hồi nó mới sanh ra, tôi c̣n làm
hạm trưởng HQ 404, sau đó được thuyên
chuyển qua HQ 14. Từ đó đến nay, chiến
hạm tôi đă hải hành dài hạn liên miên, cứ
mỗi lân về bến, nó lại đứng xa xa nh́n
tôi như người xa lạ. Tôi cảm thấy
thấm thía với cuộc đời Hải Quân và cũng
thông cảm hơn với nhân viên của tôi. Sau
khi sửa chữa Tiểu Kỳ hoàn tất vào ngày 24
tháng 2, Trường Chiến Hạm bắt đầu
chương tŕnh Huấn Luyện HQ 14 tại bến, và
sau đó, tại Vũng Tàu, cho đến ngày 8 tháng 3. 3.
Chuyến Công Tác Vùng I Duyên Hải Sáng
ngày 21 tháng 3, chỉ vài ngày sau khi Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh Triệt Thoái Quân
Đội khỏi Vùng Cao Nguyên, tôi lên BTL/HQ/P3 nhận
lệnh công tác đi bảo vệ dàn khoan Ocean
Prospector, cách Côn Sơn 188 hải lư về phía đông
nam. Nhưng sau đó, trên đường đi, vào lúc
3 giờ 30 chiều, tôi lại nhận được
lệnh đổi hướng đi công tác V1ZH.
Biển tương đối êm và chúng tôi có một
chuyến hải hành thoải mái. Ngồi trên đài
chỉ huy, ngắm sao trời và những ngọn đèn
le lói từ các ghe đánh cá nhấp nhô trên sóng nước,
tôi lại suy nghĩ miên man đến cuộc
chiến, không biết mai đây số phận của
Miền Nam sẽ đi về đâu. Tôi tự nhủ,
dù sao tôi và thủy thủ đoàn vẫn phải
giữ vững tinh thần chiến đấu cho đến
phút cuối cùng. Chúng tôi vẫn c̣n hy vọng! Măi
đến 6 giờ chiều ngày 23, HQ 14 mới đến
BTL/V1ZH. Tôi cặp cầu Tiên Sa và lên tŕnh diện
TL/V1ZH, Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ
Thoại. Tôi được lệnh khởi hành ngay
trong đêm đến khu vực hành quân 1B1, ngoài
cửa Thuận An, để yểm trợ Bộ Binh rút
quân về nam, qua đường biển. Đô Đốc
Thoại có hỏi tôi: “Hạm Phó của anh có đủ
khả năng chỉ huy chiến hạm khi có bất
trắc ǵ xảy ra cho anh không?”. Tôi mạnh dạn
trả lời: “Thưa Đô Đốc, tôi đă
huấn luyện Hạm Phó đầy đủ”.
Đô Đốc Thoại nói thêm: “Khi ra đến vùng
hoạt động, anh chờ khi có lệnh của tôi
th́ tách ra, thành lập một phân đội riêng, và
tiến ra gần vĩ tuyến 17. Phân đội
của anh có nhiệm vụ ngăn chặn và tiêu
diệt các chiến hạm, chiến đỉnh Bắc
Việt khi chúng tiến vào Nam”. Tôi chào Đô Đốc
Thoại và về chiến hạm ngay. Biết rằng t́nh
thế đă đến giai đoạn nguy ngập. 3.1.
HQ14 bị Không Quân VNCH bắn HQ
14 đến vùng hành quân ngoài cửa Thuận An lúc 2
giờ sáng ngày 24. Đến 9 giờ sáng, tôi bắt
đầu cho chiến hạm đi theo đội h́nh dưới
sự điều khiển của HQ 07. HQ 08 cũng đă
đến vùng và nhập đội h́nh. Khoảng trưa,
tôi quan sát thấy Bộ Binh hành quân bên trong, chắc cũng
để yểm trợ rút quân. Tôi không có tần
số để liên lạc với Bộ Binh. Lúc này HQ
709 đă được lịnh rời vùng hành quân,
trở về Tiên Sa. Như vậy, trong vùng chỉ c̣n
HQ 07, HQ 8, HQ 609, và HQ 14. Vào
khoảng sau 4 giờ chiều, tôi được
lệnh tách ra khỏi đội h́nh để thành
lập phân đội riêng, và tiến ra vĩ tuyến
17. Tôi lên đài chỉ huy để đích thân điều
khiển chiến hạm. Nhưng trước khi tôi có
th́ giờ thành lập phân đội gồm HQ 14 và HQ
609, tôi nghe hai tiếng nổ thật chát chúa như
tiếng bom. Nước tung tóe gần trước mũi
chiến hạm. Nh́n lên bầu trời trắng đục,
đầy mây trắng bao phủ, tôi thấy hai
chiếc máy bay A 37 mà tôi biết chắc là của Không
Quân VNCH, v́ sáng nay có vài máy bay loại này bay lượn
bên trong, yểm trợ hành quân của bộ binh. Sau này,
khi có dịp gặp lại vài nhân viên của HQ 07
tại Pennsylvania năm 2016, họ cũng xác
nhận với tôi như thế . Hai chiếc máy bay này
lợi dụng thời tiết, bay cao trên mây để
tránh bị phát giác và bất thần nhào xuống,
thả 2 quả bom, nhắm chiến hạm tôi nhưng
trật. Chúng bay vút đi. Chiến hạm không hư
hại. V́
t́nh trạng an ninh trong vùng hành quân này không mấy
khẩn trương, tôi chỉ cho 1/3 nhân viên ứng
chiến. Tôi cho gọi nhiệm sở tác chiến
100/100 và không ra lịnh bắn trả, v́ tôi ước
lượng, nếu bắn hạ được
một hay cả 2 chiếc A 37 này th́ chắc chắn
bộ chỉ huy Không Quân từ Đà Nẵng sẽ
nghĩ HQ 14 chắc chắn là chiến hạm địch
và sẽ gởi ra một phi đội phản lực
F5 để bắn ch́m HQ 14. Tôi cho chiến hạm
chạy zic-zac và ra lịnh thay lá cờ nhỏ trên
cột cờ chính bằng lá cờ lớn nhất cho
dễ thấy từ xa. Nhưng bất thần, chỉ
vài phút sau, một lần nữa, hai chiếc máy bay này
ṿng trở lại, ném thêm 2 quả bom nữa. Lần này,
các quả bom cũng không trúng chiến hạm, chỉ
rơi trên biển, bên hữu hạm gần pḥng ăn
của đoàn viên. Nhưng các mảnh bom bay tung tóe,
đâm thủng rất nhiểu lỗ bên hữu
hạm. Rủi thay, đúng lúc này, nhân viên đang
chạy lên nhiệm sở tác chiến, ngang pḥng ăn,
v́ vậy tổng số nhân viên bị thương lên
thật cao. Thêm vào đó, 4 nhân viên ở các nhiệm
sở 40 ly, 20 ly, và hầm máy bị tử trận. Sau
đây là tổng kết tổn thất của
chiến hạm: Tử
trận (5): TSI/VC Bùi Đức Hùng (40 ly), TS/CK Trần Văn
Trung (hầm máy), HSI/VC Đặng Hữu Thành (20 ly),
TT/TS Lưu Chảy (40 ly), HIS/QK Lê Văn Quí. Theo nhật
kư, tôi ghi 4 tử trận, nhưng lại liệt kê tên
5 người. Điều này cần kiểm chứng. Bị
thương nặng (10): TT/TS Nguyễn Hữu Trí, TT/TS
Nguyễn Văn Hinh, HS/QK Nguyễn Xuân Quí, HS1/KT
Nguyễn Văn Ḥa, HS1/GL Cao Ngọc Bé, HS1/PT Hồ Thanh
Siêng, TS/VC Nguyễn Văn Hùng, TS/GL Nguyễn Văn
Vỉnh, TT1/TX Hồ Văn Sáu. Bị
thương nhẹ (10): ThS/VC Nguyễn Văn Thủ,
TS1/VC Phạm Văn Túc, TS1/TP Trần Thiểu, TS/TV
Nguyễn Văn B́nh, HS1/CK Lê Văn Hùng, HS1/TP Đoàn Văn
Ba, TT/TS Nguyễn Hữu Phúc, TT/TS Trần Văn Minh,
TT/TS Hoàng Thanh Long, ThS/KT Trần Đ́nh Phương. Tổn
thất vật thể: Cơ khí, Điện khí, Vỏ
tàu, Pḥng tai, Vũ khí, Vô tuyến, và vật dụng
linh tinh. Máy điện hư. Hệ thống tay lái
điện bất khiển dụng. Hệ thống vô
tuyến bất khiển dụng, không liên lạc
được với BTL/HQ/V1ZH, phải dùng máy
truyền tin cầm tay để cố gắng liên
lạc với các chiến hạm trong vùng hành quân. Y Tá
và thủy thủ đoàn đă nỗ lực tối
đa để săn sóc và cứu chữa các nhân viên
bị thương, sửa chữa máy điện,
hệ thống truyền tin… Cuối cùng HQ 07 đă
nghe được và đến phụ giúp tải thương,
nhưng v́ biển động, phải tách ra và chỉ
có một số nhân viên tử thương và bị thương
được đưa qua HQ 07 để chuyển
về Bệnh Viện Duy Tân Nẵng. Sau
khi máy điện và hệ thống truyền thanh
được sửa chữa xong, HQ 14 liên
lạc được với BTL/HQ/V1ZH để báo cáo
và xin về cặp cầu Tiên Sa để tải thương
và sửa chữa. HQ 14 về cặp cầu sáng sớm
ngày 25. Các nhân viên bị thương được
chở qua bệnh viện quân đội Duy Tân bên
Đà Nẵng để điều trị. CCYTTV/HQ
bắt đầu cấp tốc sửa chữa để
chiến hạm có thể chạy về Saigon. Tối ngày
26, tôi được lệnh chở gia đ́nh Hài Quân
về Saigon. Ngay sau đó, chiến hạm bắt đầu
tiếp nhận gia đ́nh quân nhân cho đến sáng hôm
sau. Nghĩ
rằng Đà Nẵng sẽ thất thủ trong một
ngày rất gần, tôi mượn xe của CCYTTV/HQ,
chạy qua bệnh viện Duy Tân xin cho tất cả nhân
viên của tôi được xuất viện và
cuối cùng, tất cả đều được
chuyển về bệnh xá CCYTTV/HQ, ngoại trừ
một nhân viên giám lộ bị gẫy mất một
cánh tay, phải ở lai thêm để điều
trị. Tôi rất buồn v́ tôi muốn, khi chiến
hạm khởi hành, tôi sẽ đem tất cả các
nhân viên của tôi về Bệnh Xá HQ Bạch Đằng
(Saigon). Đi ngang qua thành phố Đà Nẵng, tôi
thấy người đi lố nhố đầy
đường. Không biết họ đi đâu, đi
t́m đường về Saigon? Hay là Việt Cộng
đă trà trộn vào dân? Tuy không có bạo động,
t́nh thế có vẻ hỗn loạn. Tôi biết
chắc Đà Nẵng sẽ mất nay mai. Sau
này nghĩ lại, tôi vẫn ân hận măi. Biết
đâu, nếu tôi cho bắn hạ hai chiếc máy bay
khi chúng trở lại lần thứ nh́ th́ thiệt
hại nhân sự sẽ giảm thiểu đi không? Có
thể F5 sẽ không ra? Nhưng tôi lại tự an
ủi, nếu F5 ra, bắn hỏa tiễn, th́ thiệt
hại sẽ lớn hơn nhiều, có thể tôi và
phần lớn nhân viên đă không c̣n có mặt trên
quả đất này nữa. Dù sao, đây là một
biến cố đau ḷng nhất trong đời chỉ
huy của tôi. Nó sẽ đeo đẵng tôi suốt
đời. Xin linh hồn của các nhân viên chiến
hạm đă hy sinh v́ tổ quốc trong biến cố
này hiểu cho tôi, và nếu tôi lầm lỗi, xin
được tha thứ. Với các nhân viên bị thương,
tôi cũng xin lỗi và mong có dịp gặp lại
để cùng nhau tâm sự. Vào
năm 2007, tôi có dịp đọc quyển hồi kư
“Can Trường Trong Chiến Bại” của Đô
Đốc Thoại. Ông có đề cập đến
việc HQ 14 bị bắn, nhưng không thể xác
nhận ai đă bắn hoặc ai đă ra lệnh. 3.2 Di
Tản Gia Đ́nh HQ từ Đà Nẵng về Vũng
Tàu Sáng
ngày 30 tháng 3, một số gia đ́nh Hài Quân đă lên
tàu nhưng chưa đầy đủ. Tôi được
lệnh đem chiến hạm ra neo trong vũng Tiên Sa,
chờ tiếp nhận thêm cho đủ khoảng 600 người.
Sau khi thả neo, tôi đi quanh chiến hạm vài ṿng
để biết t́nh trạng của các gia đ́nh quá
giang, rồi lên đài chỉ huy ngồi quan sát. Dăy núi
Tiên Sa sừng sững trước mặt. Trong nhiều
năm qua, tôi đă ra vảo hải căng này nhiều
lần, đă thưởng thức vẽ đẹp thiên
nhiên thơ mộng, ḥa lẫn với mây trời sóng nước,
mà tâm hồn thấy thoải mái, dù chỉ trong
chốc lát, trước khi con tàu ra khơi, lướt
sóng đại dương! Nhưng hôm nay, tôi cảm
thấy buồn thấm thía, linh cảm một mất mát
lớn sắp xảy ra. Tôi sẽ không bao giờ có
dịp đem con tàu trở lại vùng biển này
nữa!
Hải
Cảng Tiên Sa Tôi
trở lại thực tế! Một số ghe nhỏ
đang chèo đến gần lái của chiến
hạm và nhân viên canh gác ra hiệu cho họ ngưng
lại, chờ lệnh của tôi. Tôi đi ra sân sau
chiến hạm, nh́n những khuôn mặt hốt
hoảng của người lớn lẫn trẻ con, tôi
không cầm ḷng được! Họ chỉ là
những người dân, không thuộc gia đ́nh
Hải Quân, đang hớt hăi t́m đường
chạy trốn Cộng Sản. Trên tàu không ai quen
biết với họ. Tôi ra chỉ thị cho sĩ quan
và nhân viên áp dụng các tiêu lệnh an ninh trước
khi cho họ lên tàu. Gia
đ́nh Hải Quân tiếp tục lên tàu. Đến
chiều, HQ 14 khởi hành về Saigon. Chiến hạm
về đến Vũng Tàu chiều 31, tháng 3. Theo
lịnh chuyên chở, tôi cho các gia đ́nh HQ và khách quá
giang lên Vũng Tàu, trước khi chiến hạm
tiếp tục về Saigon. HQ 14 về đến
Bến Bạch Đằng ngày 1 tháng 4 và cặp tai
cầu E trong HQCX để tải thương và
sửa chữa. Chiếu theo tập hồi kư “Can Trường
Trong Chiến Bại” của Phó Đề Đốc
Hồ Văn Kỳ Thoại, cũng trong ngày này, Đà
Nẵng đă bỏ ngỏ. Đô Đốc Thoại
và tất cả lực lượng yểm trợ V1ZH
đă rời vùng này, trực chỉ Qui Nhơn dưới
sự điều động của BTL/HQ. Sau đó, Phó
Đề Đốc Thoại được chỉ
định làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Thuât
(OTC) để yểm trợ Phó Đề Đốc Hoàng
Cơ Minh đang đảm nhiệm chúc vụ Tư
Lệnh Chiến Trường Qui Nhơn kiêm Tổng
Trấn Qui Nhơn. Trong
thời gian này, tôi có dịp gần nhà. Con gái tôi
vừa được một năm và đă nhận ra
tôi. Chiều chiều, tôi bế nó đi quanh chung cư
Phạm Thế Hiển. Nó mở mắt lớn, ṭ ṃ
nh́n khung cảnh chung quanh. Tôi thấy thương nó quá
và, trong chốc lát, tạm quên thế sự đang
biến chuyển từng giây phút. Sinh hoạt quanh
chợ Phạm Thế Hiển vẫn b́nh thường,
nhưng nh́n ánh mắt của phần lớn các bà, các
cô bán hàng, tôi thấy những nét ưu tư thật
khó tả. Tôi nghe đồn, nhiều gia đ́nh đang
t́m đường chạy. Có
một đêm, sau bữa ăn tối, hai vợ
chồng tôi ngồi, bàn bạc với nhau về t́nh h́nh
cuộc chiến. Tôi cũng không biết quyết định
của các “ông lớn” trong Hải Quân như thế
nào. Vợ tôi hỏi: “Em và con có thể lên tàu đi
công tác với anh không?” Tôi ngần ngừ một lúc
rồi lấy hết can đảm đáp: “Chắc không
được đâu em. Tàu anh là tàu chiến. Vă
lại, nếu anh cho em và con đi th́ anh phải cho gia
đ́nh tất cả thủy thủ đoàn đi.
Điều này chắc không được”. Vợ tôi
buồn buồn nói: “Thôi, anh cứ yên ḷng mà đi.
Ở lại nhà, em sẽ lo săn sóc con. May ra Cậu
(bố của vợ tôi) có thể t́m phương
tiện máy bay cho gia đ́nh đi, v́ Cậu làm cho cơ
quan Mỹ ở Saigon. Nếu khi mất nước, anh
thấy an toàn để về đón gia đ́nh, th́
anh về. Nếu không, anh cứ đi ra ngoại
quốc và t́m cách liên lạc với em sau”. Tôi
thấy cảm động quá, nghẹn ngào thương
cho sự hy sinh và phục cho ḷng can đảm của
vợ tôi. Tôi muốn ôm vợ tôi vào ḷng để an
ủi. Nhưng biết nói ǵ đây trong hoàn cảnh
bất định này? Tôi chỉ khẻ gật đầu,
ngồi yên lặng, cố nén hai ḍng lệ muốn trào
ra..., rồi quay qua nh́n con gái chúng tôi đang ngủ
say. Nhiều lần trước, khi nh́n nó ngủ, tôi
thường mơ đến cảnh thanh b́nh sau
chiến tranh, và Miền Nam chiến thắng. Vợ
chồng tôi sẽ nắm tay nó, dẫn đi Sở Thú,
đi về Huế, về Hải Pḥng thăm quê
nội ngoại… Nhưng bây giờ, giấc mơ
đó hầu như đă tiêu tan, chỉ c̣n cầu
mong có một phép mầu xảy ra để quân nhân
VNCH đâp tan được âm mưu xâm lược
của CSBV. Nếu không, xin cho tất cả sẽ
được an toàn và có dịp đoàn tụ ở
một nơi nào đó, trên một xứ tự do. Nơi
ấy có thanh b́nh, công lư, và dân chủ. 4.
Công Tác Vùng III Duyên Hải Trong
lúc HQCX tiến hành việc sửa chữa vỏ tàu, và
các hệ thống đă hư hỏng trong biến
cố vừa qua tại V1ZH, nhân viên chiến hạm lo
bảo tŕ súng pḥng không, hệ thống máy chánh,
hải pháo, radar, truyền tin, pḥng tai, vận
chuyển… và xin tiếp tế nhiên liệu, nước
ngọt… để chuẩn bị cho chuyến công tác
sắp đến. Tôi chỉ định Thiếu Úy T
lo hồ sơ tử tuất cho các nhân viên đă
tử trận, lo chuyển giao di sản, và đón
tiếp thân nhân. Tôi cho gởi TT/TS Nguyễn Văn Hùng
nhập TYV Cộng Ḥa. Ngày 2 tháng 4, tôi
chỉ định Hạm Phó, SQ/CTCT, và Y Tá lên Bệnh
viện HQ Bạch Đằng đón bà Trần Nguơn
Phiêu đến thăm thương binh. Tôi định
sẽ đến nếu không bận. Nếu bận, tôi
sẽ đến thăm anh em ngày hôm sau. Tôi cho thao
dợt Nhiệm Sở Pḥng Không mỗi ngày lúc 3
giờ chiều. Ngày
8 tháng 4, lúc 8:30 sáng, một chiếc F5 của Không Quân
bắn Dinh Độc Lập. Hải Quân chỉ định
các chiến hạm sau ứng chiến pḥng không: HQ 5, HQ
17, HQ 5, HQ 229, HQ 329, HQ 606, và HQ 231. Lúc
này Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) đă tràn vào B́nh
Định, Qui Nhơn, và Phú Yên. Bộ Binh từ Tuyên
Đức rút về Đà Lạt, sau đó Đà
Lạt mất. Quân đội ta vẫn c̣n trấn
giữ các tỉnh từ Nha Trang trở xuống. Tôi không
nghe đồn có một mật ước nào cả
giữa Mỹ và Trung Cộng. Trong lúc này, Miền Nam
vẫn giữ lập trường “Không cắt đất,
không chấp nhận liên hiệp”. Hải Quân vẫn
c̣n giữ vững V3ZH, V4ZH, và V 4 Sông Ng̣i, tuy nhiên
tất cả đều đang trong t́nh trạng báo
động. Hiện
tại, thủy thủ đoàn HQ 14 gồm có 17 sĩ
quan, 37 hạ sĩ quan, và 54 đoàn viên hiện
diện. Ngoài ra c̣n 12 nhân viên đi phép và 7 nhân viên c̣n
nằm bệnh viện. Thêm vào đó, tôi c̣n tiếp
nhận 70 nhân viên tạm trú thuộc HQ 2, 3, 07, 11, 12,
16, 800, và 228. Sáng
ngày 8 tháng 4, một F5 thuộc Không Quân VNCH bắn Dinh
Độc Lập. Hải Quân được lệnh
ứng chiến pḥng không. Tôi chỉ thị Thiếu Úy
T và toán ẩm thực đi chợ thêm để
dự trữ cho chuyến công tác dài hạn sắp
đến. Sáng
ngày 12 tháng 4 lúc 9 giờ sáng, HQ 14 khởi hành công tác
V3ZH. Chiến hạm ra khỏi sông Ḷng Tảo, đến
Vũng Tàu và nhập V3ZH lúc 1 giờ trưa. Sau khi
chuyển giao tất cả nhân viên tạm trú cho HQ 802,
tôi cho chiến hạm trực chỉ phía bắc Vũng
tàu, để thay thế HQ 618. Đến ngày 16, lúc 10
giờ 45 sáng, tôi khởi hành đi Phan Thiết. Nhưng
đến 12 giờ 30 sáng lại được
lệnh đổi đường đi Phan Rang. Lúc này
Phan Rang đă bị Cộng Sản tràn ngập.
Chuẩn Tướng Nhật và TKT/TK Khánh Ḥa đă lên
được HQ 3. Không có tin tức ǵ về Tướng
Nghi. Ban đêm HQ 14 tuần tiễu từ Ḥn Lao đến
Lagran. Tôi cho báo cáo về Trung Tâm Kiểm Soát Cam Ranh (?)
t́nh trạng kỹ thuật và đạn dược trên
HQ 14 như sau: máy điện số 2, bơm cứu
hỏa số 2, và motor số 2 của Frigo bất
khiển dụng. Chiến hạm hiện tồn trữ
110 ngàn lít dầu, trên 5 ngàn lít nhớt, 20 tấn nước
ngọt, 441 viên đạn đại bác 76 ly, trên 3 ngàn
đạn 40 ly, trên 13 ngàn đạn 20 ly, một
số đạn đại liên và chiếu sáng.
Với khả năng này, và nếu máy điện
số 1 (máy điện duy nhất c̣n khiển dụng)
vẫn chạy tốt th́ chiến hạm c̣n khả năng
hoạt động vài tháng nữa, không cần
tiếp tế. Chỉ c̣n vấn đề thực
phẩm, chỉ c̣n khoảng 2 tuần, ngoại trừ
gạo c̣n rất nhiều. Tôi cho cắt bớt
khẩu phần thịt và rau v́ không biết bao giờ
mới được ghé bến tiếp tế, và không
tiên liệu được chiến tranh c̣n kéo dài bao lâu
nữa. Đồng thời tôi giới hạn việc dùng
nước ngot, v́ máy chế tạo nước
ngọt đă hư từ lâu. Tiêu lệnh này
được áp dụng từ Hạm Trưởng
đến đoàn viên. Sau này nghĩ lại, tôi
thấy cảm phục nhân viên của tôi nhiều
về tinh thần kỷ luật, can đảm, và
sức chịu đựng lớn lao của họ. Trưa
ngày 18 tháng 4, chiến hạm đến gần mũi Cà
Ná thuộc tỉnh Ninh Thuận. Nơi đây Quốc
Lộ 1 có môt đoạn ngắn chạy ra
tận biển. Sau này, chiếu theo bài tường
thuật “Măt Trận Phan Rang” (http://nhaydu.com/index_83hg_files/left_files/MatTranPhanRang.htm tôi
biết được bên trong đất liền,
tuần trước, hai Lữ Đoàn Nhảy Dù và Quân
Đoàn 3 c̣n hiên ngang trấn thủ Địa Đầu
Giới Tuyến này mặc đầu đă bị
thiệt hại nặng, nay Phan Rang đă bị Cộng
Sản Bắc Việt (CSBV) tràn ngập. Một người
bạn thân của gia đ́nh bên vợ tôi, Đại
Úy Đinh Quốc Tuấn thuộc Tiểu Đoàn 3
Nhảy Dù đă anh dũng chiến đấu và đă
tử trận ngày 15. Sau đó, Trung Tướng
Nghi cũng đă bị đich bắt.
Vị
Trí HQ 14 tại Vùng Biển Cà Ná, Phan Rang Tôi
cho chiến ham tiến vào cách bờ khoảng 9
ngàn yards để quan sát. Nh́n qua ống nḥm, trên
Quốc Lộ 1, tôi thấy xe tăng, xe chuyển
vận, đại pháo của CSBV đang kéo nhau đi
sờ sờ trên quốc lô, hướng về nam. Tôi
nóng máu. Suốt thời gian làm Duyên Đoàn Phó ZD 13
ở Cửa Tư Hiền, nhiều lần tôi đă
dẫn quân đi phục kích và chạm trán với CSBV
khi chúng chuyển quân từ Phú Thứ, qua Quốc
Lộ 1 để vào dăy Trường Sơn. Anh em chúng
tôi đă hạ chúng sát ván. Nay thấy tận mắt
đoàn xe của chúng đang đi lừ lừ
giữa thanh thiên bạch nhật, tôi không chịu
nổi. Tôi quyết dùng hết hỏa lực để
làm chậm bước tiến của chúng, để
quân ta có thêm thời giờ rút lui. Tôi vận
chuyển chiến hạm vào gần bờ thêm chút
nữa và đích thân hướng dẫn hải pháo 76
ly bắn ṿng cầu vào toán quân xa này. Viên đầu
tiên rơi gần quốc lộ. Qua ống nḥm, tôi
thấy chúng dừng lại. Tôi điều chỉnh và
cho bắn tiếp, nhưng vô hiệu. Sóng biển
chỉ lắc một tí là đạn rơi sai đi vài
chục yards! Bắn một hồi, thấy bụi mù
bay tung tóe, nhưng không biết có mảnh đạn nào
trúng chúng nó không, tôi đành cho ngưng để
tiết kiệm đạn, đồng thời vận
chuyển chiến hạm ra xa bờ để tránh
đạn địch, có thể bắn ra từ đại
pháo của chúng. Một
lúc sau, qua máy truyền thanh trên đài chỉ huy, tôi
nghe giọng nói của Hạm Trưởng HQ 11 gọi
tiếp viện. Trước đó, HQ 11 đă tiến
vào bờ gần Cà Ná để bắn triệt hạ
một cây cầu nhằm tŕ hoăn địch. Cầu không
sập, trái lại CSBV bắn ra tới tấp, và HQ 11
cần HQ 14 yểm trợ hải pháo để rút ra xa
bờ. Lập tức, tôi gọi nhiệm sở ứng
chiến 100/100 đồng thời cho HQ 14 tiến
hết tốc lực về phía cầu. Càng lúc càng
gần bờ. Tôi leo lên đài quan sát nhỏ bên trên
đài chỉ huy, tay chỉ hướng bắn cho
hải phào 40 ly, miệng la hét để kích thích nhân
viên. Đạn 40 ly nổ ran dọc theo bờ biển.
Một lúc sau, HQ 11 rút ra đến chỗ an toàn, tôi
cho bắn cầm chừng và rút tàu về vị trí cũ.
Tôi gởi công điện thỉnh cầu thượng
cấp kêu gọi Không Quân ra bắn đoàn quân xa
của CSBV nhưng được trả lời: “Không
Quân đang lo yểm trợ trấn thủ Saigon”. Lúc
này, HQ 17 đă đến vùng và đảm nhận OTC.
Đô Đốc Minh, trên HQ 3, đến điều
động tại chỗ. Hồi trưa này, nh́n lên trên
rặng núi bên trong, tôi thấy hàng trăm ánh sáng
nhỏ nhấp nhánh, tôi biết quân ta đă tan ră, có
lẽ đang t́m đường rút lên núi. Một
số trong đó thuộc Lữ Đoàn 2
Biệt Động Quân. Họ đang ra hiệu. Tôi
thấy thương cho họ quá. Cũng như tôi,
họ đang căm hờn nh́n địch tiến
về Saigon. Nhưng khác với tôi, họ là những
anh hùng, quả cảm chiến đấu, nhưng không
c̣n đường triệt thoái. Quân CSBV đă tràn
ngập và đang lùng kiếm khắp nơi. Họ không
thể rút ra biển.Vài cấp chỉ huy của họ
đă lên được HQ 3 và có mật hiệu để
liên lạc với họ, nếu họ rút ra được
gần bờ biển Cà Ná. Một
lúc sau, tôi được lệnh cho tàu vào bờ thi hành
công tác rút quân của Bộ Binh, trong lúc đoàn quân
xa, đại pháo của địch c̣n di chuyển liên
tục trên quốc lộ. V́ HQ 14 thuôc loại tuần
dương, và tôi không có một tin tức t́nh báo nào
trên bờ, đem chiến hạm vào đó không khác ǵ
làm mục tiêu cho chúng bắn, nên tôi đề
nghị môt giải pháp và được chấp
thuận: Tôi sẽ dùng ghe Duyên Đoàn và ghe dân đánh
cá để ban đêm tiến vào bờ chuyển quân. Nh́n
ra ngoài khơi, tôi thấy một đoàn ghe của Duyên
Đoàn đang tiến về nam. Tôi xin thượng
cấp cho tôi xử dụng 2 ghe Yabuta, và chỉ định
vài nhân viên lên hai ghe này để chỉ huy việc
đón quân Bộ Binh trên bờ. Tôi dặn ḍ hai
thuyền trưởng Yabuta và các nhân viên
của tôi các việc phải làm, cho họ mật
hiệu đánh đi và mật hiệu nhận khi đến
gần bờ. Các mật hiệu này do cấp chỉ
huy Bộ Binh trên HQ 3 cung cấp. Tôi bảo họ
nhớ đem theo vài khẩu súng, vài cây đèn pin
để ra hiệu, hai máy truyền tin, và cố
gắng gom góp một ít ghe đánh cá để cùng
đi vào bờ (tôi định sẽ trả công cho các
ghe đánh cá này sau khi công tác hoàn tất), chờ
đến lúc trời tối th́ khởi hành đi. Tôi
c̣n dặn họ, tắt máy truyền tin để
khỏi bị địch phát giác, chỉ dùng trong trường
hợp khẩn cấp. Trời
vừa sập tối, tôi ngồi trên đài chỉ huy
chiến hạm, theo dơi đoàn ghe của các cảm
tử quân đang tiến vào bờ cho đến khi không
c̣n thấy họ nữa. Trên Quốc Lộ 1, đoàn
quân xa của CSBV vẫn đều đều tiến
về nam. Ḷng tôi nôn nóng, cầu nguyện cho họ
được b́nh an trở về. Nếu tôi
được toàn quyền quyết định, chưa
chắc tôi đă gởi họ đi, v́ sự thành công
của công tác này quá mong manh. Nếu thất bại,
bị địch bắn tiêu diệt, th́
hậu quả thật vô lường. Suốt
đêm tôi thao thức chờ tin đoàn ghe vớt
Bộ Binh trở về, nhưng chờ măi vẫn không
thấy tăm hơi! Tôi lo ngại vô cùng. Măi đến
rạng đông vẫn không thấy bóng các ghe này. Tôi
vận chuyển chiến hạm vào gần bờ hơn,
dùng ống nḥm để quan sát. Bỗng nhiên, tôi nghe
một tiếng nổ lớn, một cột nước
trắng tóe lên cách tàu độ một ngàn yards.
Biết đại pháo của địch vừa
bắn ra, tôi cho chiến hạm chạy ra xa. Đúng lúc
này, qua ống nḥm, tôi thấy xa xa đoàn ghe bốc quân
đang từ từ tiến ra. Tôi mừng vô kể.
Họ đă xa bờ! Nhưng chỉ có 2 chiếc
Yabuta. C̣n các ghe đánh cá ở đâu, mọi người
có an toàn hay không, tôi tự hỏi. Khi 2 ghe này cặp bên
tả hạm, nhân viên báo cho tôi biết các ghe đánh
cá sợ quá, đă biến đi mất trong đêm, trước
khi vào đến bờ. Họ cho ghe đi dọc theo
bờ suốt đêm mà chỉ liên lạc được
và vớt khoăng 20 người. Tôi khen ngợi anh em
đă can đảm thi hành trách vụ. Tôi tiếp
nhận quân nhân Bộ Binh và cho họ tạm trú trên
chiến hạm, đồng thời cám ơn và chào
từ giă các chiến hữu trên Yabuta trước khi
họ trở về đơn vị. Sau này, cách đây
độ 5 năm, tôi có gặp lại Đại Úy T
mới được biết anh thuộc Duyên Đoàn
này và có hiện diện lúc đó tại Mũi Né. Không
ngờ chúng tôi đă quen nhau nhiều năm tại
Mỹ mà không biết đă có dịp cộng tác
với nhau một khoảnh khắc ngắn trong thời
gian cuối của cuộc chiến. Ngày
19 tháng 4, CSBV tràn ngập Phan Thiết. Tôi được
lệnh V3ZH gọi chiến hạm về Vũng tàu
để nhận tiếp tế và đi công tác
quần đảo Trường Sa. Trưa ngày 20, HQ 14
về đến gần Ḥn Bà, Vũng Tàu. Ngày 21, tôi
thả neo ngoài Vũng Tàu, nhận thêm trên 3 ngàn viên
đạn 40 ly và 330 viên 76 ly do HQ 08 tiếp tế, và
cho ban ẩm thực đi chợ, đồng thời
cho các quân nhân và dân sự tạm trú lên bờ. Qua các
đài truyền thanh, tôi được biết
Tổng Thống Thiệu đă giao quyền lănh đạo
quốc gia cho Phó Tổng Thống Trần Văn Hương.
Nhật lịnh của Đại Tướng TMT/QLVNCH:
“Bảo vệ bờ cơi, đánh bại quân xâm lăng,
bảo vệ Vùng 3 và Vùng 4”. Tuần trước, tôi
mong có một hiệp ước nào đó giữa
Mỹ và Trung Cộng để bắt buộc CSBV ngưng
lại tại Phan Thiết. Nhưng sau khi Phan Thiết
mất. Tôi không c̣n hy vọng nữa. 5. Công
Tác Quần Đảo Trường Sa Lúc
9 giờ 30 tối ngày 21, HQ 14 khởi hành đi Trường
Sa theo chỉ thị của BTL/HQ, thừa lệnh Bộ
Tổng Tham Mưu. Cùng đi, có HQ 17 làm OTC. V́ HQ 17
khởi hành trước và chạy nhanh hơn nên
sẽ đến Trường Sa trước. Chúng tôi
được tiêu lệnh từ Bộ TTM: “Không
được khai hỏa trước khi đối
đầu với đich tại Trường Sa”. Địch
là ai, không biết rơ. Tôi chỉ được
biết trong các ngày vừa qua, có tin một số máy
bay lạ xuất hiện trên đảo. Nhiệm
vụ của HQ 14 và HQ 17 là bảo vệ sinh mạng
của lực lượng Địa Phương Quân
đồn trú trên quần đảo này. HQ
14 đến quần đảo Trường sa lúc 4
giờ chiều ngày 23 tháng 4. Quần đảo Trường
Sa cách Vũng Tàu 305 hải lư về phía Đông.
Các đảo này là những cồn cát rất
thấp, bao quanh bởi nhiều đá ngầm và san hô.
Việc vận chuyển quanh quần đảo này tương đ̣i
khó khăn, nhất là ban đêm tối, dù chiến
hạm có radar. Cần nhất là máy định vị
trí LORAN, nhưng máy này đặt trên HQ 14 đă hư
từ lâu, không đươc sửa chữa. HQ
17 và HQ 14 chia nhau đi tuần tiễu trên quần đảo
này. HQ 17 quan sát thấy một ngọn cờ đỏ
trên đảo và ra lịnh HQ 14 bắn
triệt hạ. Cứ mỗi lần đạn 76 ly
nổ, cả ngàn con hải âu trắng lại bay lên
ngập trời, rồi đáp xuống ngay! Ngày đầu
t́nh h́nh tương đối yên lặng. Đến
quá nửa đêm ngày 25, có hai tàu lạ xuất
hiện ở đảo Nam Yết, một ở hướng
đông và một ở hướng tây. HQ 17 và HQ 14
gọi nhiệm sở tác chiến, rượt theo hai tàu
này. Chúng bỏ chạy mất dạng. Đến 7
giờ sáng, 2 echo xuất hiện trên radar, cách HQ 17
gần 4 ngàn yards, nhưng chúng đi xa dần. HQ 17 xin
chỉ thị BTL/HQ Saigon và được đáp:
“Phải báo cáo trước khi hành động”. Tôi
mong được chỉ thị “Tùy nghi hành động”
th́ dễ cho chúng tôi hơn! Ngày
28, HQ 14, HQ 17, và Địa Phương Quân được
lệnh rút khỏi Trường Sa, về Vũng Tàu. Tôi
khởi hành trước. HQ 17 ở lại để
tiếp nhận Địa Phương quân cho xong trong
ngày và trực chỉ Vũng Tàu. Vào lúc 5
giờ chiều, tôi nghe lễ bàn giao chức Tổng
Thống giữa Cụ Trần Văn Hương và
Đại Tướng Dương Văn Minh đă
diễn ra tại Dinh Độc Lập. Trên
đường vể gần đến Vũng Tảu,
tôi thấy “rồng hút nước” (những cột
nước cuốn lên trời do sức xoáy cực
mạnh của gió). Suốt 8 năm trên biển, đây
là lần đầu tiên tôi thấy hiện tượng
này. Người xưa tin rằng đây là một
điềm xấu! Xa xa tôi thấy vài chiến hạm
Mỹ. HQ 14 về đến Vũng tàu trưa ngày 29 tháng
4. Quang cảnh ngoài khơi Vũng tàu lúc đó thật
tấp nập, nào chiến hạm Mỹ, nào thương
thuyền ngoại quốc đến tiếp nhận dân
sự do lời yêu cầu của chánh phủ Hoa
Kỳ, nào ghe chở dân đến thương
thuyền, nào trực thăng Mỹ bốc quân Mỹ và
thường dân di tản từ Ṭa Đại
Sứ Mỹ tại Saigon, lên chiến hạm. Tôi nghĩ
đến gia đ́nh vợ con, không biết tất
cả bây giờ ở đâu, có an toàn không. Chắc
nhân viên của tôi cũng cùng tâm trạng. Nhưng không
ai nói với ai điều ǵ. CSBV đă tiến đến
gần Saigon và đang pháo kích Tân Sơn Nhất. Tôi
cố thẩm định t́nh thế xem có nên liều
đem chiến hạm về Saigon hay không, tuy nhiên tôi
không có tin tức ǵ chính xác. Ngay cả bên trong Vũng
Tàu, tôi cũng không biết rơ. Trong
lúc c̣n phân vân, tôi được lịnh của V3ZH
cho tất cả chiến hạm dưới sự điều
động của vùng này được tan hàng và các
Hạm Trưởng được toàn quyền
quyết định, có nghĩa BTL/HQ không c̣n ra lịnh
nữa. Nghe
vậy, tôi lặng người, nghĩ đến
mất nước. Một biến cố đau ḷng tôi
tiên đoán hơn cả tháng qua, nay đă đến!
Nhưng tôi kềm chế được t́nh cảm
của ḿnh ngay. B́nh tỉnh, tôi quyết định
đưa HQ 14 ra ngoại quốc. Tôi nghĩ đi
Philippines rất gần, nhưng không chắc được
tiếp nhận. V́ vậy tôi cho nhân viên Giám Lộ
chuẩn bị các hải đồ từ Vũng Tàu
đến đảo Guam để tôi vẽ đường
đi v́, qua tin trên các đài truyền thanh, tôi
biết tại đó chánh phủ Hoa Kỳ đang
tiếp nhận quân nhân và thường dân VNCH tị
nạn Cộng Sản. Tức
tốc, tôi triệu tập một buổi họp
ngắn, gồm có các Sĩ Quan, Quản Nội Trưởng,
một số Hạ Sĩ Quan, và một số nhỏ
đoàn viên. Tôi cho họ biết ư định của
tôi và phân công cho mọi người trong việc
giữ ǵn an ninh cho chiến hạm và thủy thủ
đoàn. Đại khái, mỗi người giữ
một cây súng cá nhân, tất cả súng cá nhân c̣n
lại và lựu đạn phải giữ trong kho và khóa
lại cẩn thận, quản thủ ch́a khóa kho súng,
bảo vệ các súng trên boong tàu, phản ứng
cần thiết và cấp thời khi một nhân viên có
hành động gây hấn hoặc nội loạn. Thật
ra, qua hơn nửa năm trường cùng sống
chết với anh em, tôi đă biết rơ tinh thần
kỷ luật cao độ và t́nh cảm của anh em
đối với tôi. Tôi không tin có môt sự việc
đáng tiếc nào sẽ xảy ra. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ,
đây là môt biện pháp mà bất cứ cấp
chỉ huy cẩn trọng và có trách nhiệm nào, cũng
cần áp dụng trong trong trường hợp đặc
biệt này. Tôi
cho tập họp anh em để nói chuyện. Khi tôi
đến đứng trước hàng quân, anh em nghiêm
chỉnh chào tôi như thường lệ. Nhưng thoáng
nh́n ánh mắt của họ, tôi thấy hầu hết
đều đượm một nét buồn sâu xa, hay hơn
nữa một thất vọng. Chắc họ đă
biết những ǵ đă xảy đến. Ngừng
một chút, tôi nhẹ nhàng báo tin cho họ. Tôi nói:
“Chúng ta đă cùng nhau chiến đấu một
thời gian dài, hy vọng sẽ chiến thắng. Nhưng
hôm nay, không may, chúng ta đă bại trận. CSBV đă
tiến vào Saigon. Tôi quyết định đem
chiến hạm ra ngoại quốc, đến môt nước
tự do. Anh nào muốn theo tôi, đứng ra bên
này. Anh nào muốn trở về với gia đ́nh,
đứng ra bên kia”. Sau một hồi lưỡng
lự, anh em đứng ra hai bên. Tôi cho Hạm Phó và
Quản Nội Trưởng ghi tên các anh em muốn
trở về. Số người trở về tôi không
ghi trong nhật kư, chỉ nhớ thoang thoáng trên 30 người. Trời
đă về chiều, tôi bắt đầu t́m phương
tiện cho anh em vào bờ để về nhà. Hồi
trưa nay tôi thấy hằng trăm chiếc ghe nhỏ
đưa dân sự từ Vũng Tàu ra tàu buôn
ngoại quốc. Tôi định nhờ họ chở
anh em vào bờ và trả bằng dầu. Nhưng bây
giờ các ghe này biến đi đâu mất. Tôi cho tàu
chạy ṿng ṿng để t́m kiếm. Khi trời
sụp tối tôi cho rà trên radar xem có thấy ǵ không,
nhưng vô vọng. Tôi muốn khởi hành đi Guam
ngay để ra đến hải phận quốc
tế, và càng xa càng tốt, sợ máy bay CSBV có thể
rượt theo. Chỉ cẩn thận thôi, vỉ tôi
ước đoán chiến đấu cơ Mig của
chúng chưa đến Saigon. HQ 17 đă khởi hành
đi từ lâu. Nhưng tôi đă hứa với nhân viên
là cho họ vào bờ, bây giờ làm sao đây? Trong
lúc đang tấn thối lưỡng nan, tôi được
công điện mật của Đô Đốc Minh
gọi tập trung tại Côn Sơn để cùng đi.
Tuy không biết đi đâu, nhưng v́ tin Đô Đốc
Minh nên tôi cho trực chỉ Côn Sơn. Trong lúc này
Cộng Sản nằm vùng trong BTL/HQ liên tiếp gọi
máy dụ dỗ các hạm trưởng đưa tàu
về Saigon. 6.
Chuyến Di Tản Cuối Cùng: Vũng Tàu - Côn Sơn -
Subic Bay, Philippines Sáng
hôm sau, ngày 30, trên đường đi Côn Sơn, tôi
gặp vài chiếc LCVP chở toán sửa chữa lưu
động chạy t́m đường đi. Tôi cho
vớt tất cả. Trong lúc họ lên tàu, một nhân
viên giám lộ từ LCVP leo lên, đến chào tôi. Tôi
nhận ra ngay, đó là nhân viên của tôi đă
bị gẫy mất một tay trong lúc Không Quân bắn
HQ 14 ngoài cửa Thuận An. Lúc đó anh đang đứng
cạnh tôi trên đài chỉ huy. Anh nằm điều
trị tại bệnh viên Duy Tân, và khi chiến hạm
rút khỏi Đà Nẵng tôi không can thiệp cho anh ra
được v́ vết thương của anh vẫn
c̣n đang rỉ máu. Anh cho biết, khi CSBV tràn vào Đà
Nẵng, anh đă thoát ra được và theo một
nhóm nhỏ Biệt Kích t́m về Saigon bằng
đường biển. Mọi người đều
mừng cho anh và nhân viên y tá săn sóc cho anh tận t́nh.
Vài ngày sau, khi gặp chiến hạm Mỹ, tôi xin cho
anh được chuyển qua điều trị.
Từ đó, tôi không được tin tức ǵ
về anh nữa. Trên đường đến Côn Sơn,
tôi vớt thêm nhiều dân sự và gia đ́nh quân nhân,
tổng cộng trên 100 người. Vào
buổi chiều trên đường đến Côn Sơn,
khi đang ngồi trên đài chỉ huy, tôi được
HQ 3 gọi máy cho biết có gia đ́nh vợ tôi trên
chiến hạm. Tôi vừa mừng, vừa ngỡ ngàng,
tại sao vợ tôi lại lên được HQ 3, hay là
gia đ́nh ai không. Từ lúc khởi hành đi công tác
V3ZH đến nay, chúng tôi không có tin tức ǵ của
nhau cả. Tuy nhiên tôi vẫn hy vọng là đúng. Tôi
yêu cầu được nói chuyên trực tiếp
với vợ tôi trên máy. Nhưng bị từ chối,
bảo tôi phải chờ v́ máy quá bận rộn. Măi
đến tối HQ 3 mới gọi lại cho tôi nói
chuyện với vợ tôi. Nhưng vợ tôi chẳng nói
được câu nào. Sau này hỏi lại mới
biết vợ tôi không biết phải bấm máy khi nói.
Thay v́, tôi nghe giọng nói của ông cậu ruột nhà
tôi, ông Trần Van L. Ông cho tôi biết vợ con tôi và
gia đ́nh bên vợ, tổng cộng 19 người
đang có mặt trên tàu. Tôi mừng quá, không kịp
hỏi tại sao, chỉ hứa sẽ đón qua tàu tôi
khi được phép. Nhưng cái mừng của tôi không
trọn vẹn. Tôi thấy buồn cho nhân viên của tôi.
Từ Hạm Phó trở xuống, không ai có thân nhân
đi được cả. Sau này, khi gia đ́nh vợ
tôi được chuyển qua HQ 14, tôi được
nghe kể lại chi tiết viêc chạy từ nhà
ở bên Chí Ḥa đến khi lên được HQ 3.
Đoạn đường tuy không xa, nhưng thật
hồi hôp và bất định. Mấy ngày trước
đó, gia đ́nh vợ tôi từ chung cư Phạm
Thế Hiển chạy qua Chí Ḥa cho gần đường
lên phi trụng Tân Sơn Nhất. Nhưng không vào phi trường
được v́ Cộng Sản pháo kích. Đến
chiều 29, trong khi CSBV pháo kích, đạn nổ nghe
rất gần, và cả nhà ngồi chung dưới
đất cầu nguyện, ông anh ruột của nhà tôi,
Trung Úy L, và ông cậu ruột, Thiếu Tá Trần
Quốc B thuộc bộ TTM đă về hưu, dùng xe
Honda 2 bánh chạy đi t́m đường. Ra đến
đầu ngơ, gặp một người bạn. Cô này
cho biết trưc thăng Mỹ đang bốc người
ở bến Bạch Đằng. Hai người
chạy ra bến Bạch Đằng xem t́nh h́nh. Khi
đến nơi, họ không thấy trực thăng
đâu, chỉ thấy những ṿng kẽm gai giăng
ngang cổng vào BTL. Nhiều quân nhân HQ cầm súng
ở thế tác chiến đứng gác. Thỉnh
thoảng, có vài quân nhân HQ đưa gia đ́nh vào. Hai
người bàn bạc “chắc HQ đang di tản”,
hăy về đưa gia đ́nh ra đây rồi tính sau,
may ra vợ tôi có thể xin vào được. Cả
nhà, 19 người gồm cả bà con, chạy ra
bến Bạch Đằng. Dọc đường,
thỉnh thoảng lại thấy nhân dân tự vệ
đang bắn chỉ thiên, chỉ lo bị chúng
chận đường. Một lúc sau, đến
được cổng BTL/HQ. Nhà tôi tiến đến,
đưa ra một tấm h́nh của tôi chụp chung
với cố vấn Mỹ khi tôi c̣n làm hạm trưởng
HQ 612, và xin cho vào, nói tôi là hạm trưởng HQ 14
đang công tác ngoài khơi. Nhân viên gác cổng chỉ
liếc qua rồi gạt đi. Vợ tôi thất
vọng nghĩ thầm: Thế là vô phương
rồi! May thay, đúng lúc đó, một sĩ quan HQ
mang huy hiệu hạm trưởng từ trong đi ra.
Nhận ra đó là Thiếu Tá Nguyễn Thụy Đ, cùng
khóa với tôi mà vợ tôi được gặp
một lần cách đây mấy năm về trước.
Vợ tôi nhờ giúp đỡ và cả nhà được
vào. Nhưng vào trong cổng rồi cũng không biết
đi đâu. Bỗng nhiên, lúc đó một đoàn người
trong một cơ sở bên trong đi ra và lên tàu.
Cả nhà cứ theo họ và cuối cùng lên được
HQ 3. Đến
Côn Sơn, sau khi chuyển các nhân viên muốn về nhà
qua một hỏa vận hạm được chỉ
định về Việt Nam, tôi cho chiến hạm ra
khơi chạy ṿng ṿng đến sáng mới vào
cặp với các chiến hạm khác. Khoảng
9 giờ sáng, tất cả chiến hạm cùng nhau
khởi hành qua Subic Bay, cách Côn Sơn 900 hải lư,
với vận tốc trung binh 6 hải lư/giờ, v́ có
nhiều chiến hạm hư hỏng phải chạy
chậm. Vào
lúc 3 giờ chiều ngày 2 tháng năm, HQ bắn ch́m HQ
474 v́ chiến hạm này hầu như bất khiển
dụng. Đến
sáng ngày 3 tháng 5, HQ 14 cặp HQ 3 nhận thực
phẩm và một số gia đ́nh, trong đó có gia
đ́nh vợ tôi. T́nh trạng biển trong các ngày qua
thật êm, nhờ vậy không ai ói mửa. Suốt
buổi sáng ngày 5, chiến hạm Kirk (USS Kirk, DE 1087)
tiếp tế thực phẩm cho đoàn tàu VNCH. Trung úy
Don Swain và Trung Sĩ Richardson thuộc USS Kirk lên HQ 14
để chuẩn bị bàn giao chiến hạm cho HQ
Hoa Kỳ. Sau này, khi đọc hồi kư của Đại
Tá Kiểm và video "The Lucky Few" của HQ Hoa Kỳ
tôi mới biết rơ v́ sao phải bàn giao ngoài khơi
thay v́ trong hải cảng. Hồi đó Philippine đă
công nhận ngụy quyền CSBV mà chúng đă tự
đặt cho ḿnh cái tên thật trái ngược
với bản chất của nó, “VN Dân Chủ
Cộng Ḥa”. V́ vậy, Philippines nhất quyết
từ chối việc nhập hải cảng Subic Bay
của các chiến hạm VNCH. Cuối cùng, các cấp
lănh đạo của HQVN trên soái hạm HQ 3 và chánh
phủ Hoa Kỳ đă t́m ra một giải pháp hợp
lư: Chuyển giao các chiến hạm HQVN cho HQHK ngoài khơi
Subic Bay, theo thỏa ước “Khi nào VNCH không c̣n dùng
các chiến hạm này nữa, th́ phải trả
lại cho Hoa Kỳ”. Ngoài ra, để giữ thể
diện cho HQ/VNCH, một lễ bàn giao cần được
cử hành trên tất cả chiến hạm VNCH
hiện diện ngoài khơi Subic Bay, gồm có: HQ 3, 11,
12, 14, 228, 229, 231, 401, 470, 505, 618, 800, 607, 17, 08, 1, 404, 16,
502, 471, 5, và 801. Ngày
6 tháng 5, HQ 14 c̣n cách Subic Bay 87 hải lư, thủy
thủ đoàn được lệnh ném tất cả
đạn dược, lựu đạn và súng cá nhân
xuống biển, đồng thời vô hiệu hóa
tất cả hải pháo và chuẩn bị kế toán
nhiên liệu, nước ngọt, t́nh trạng chiến
hạm để bàn giao ngày hôm sau. Sáng
ngày 7 tháng 5, các chiến hạm VNCH đă tập trung
ngoài khơi Subic Bay. Đến trưa, lễ bàn giao
chiến hạm bắt đầu trong bầu không khí
trang nghiêm và cảm động. Trên HQ 14, tất cả
thủy thủ đoàn và nhân viên quá giang đều
tham dự. Trung Úy Don Swain, đại diện HQHK,
tiếp nhận chiến hạm. Cảm động
nhất là nghi thức hạ kỳ VNCH. Sau đó là
lễ thượng quốc kỳ Hiệp Chủng
Quốc Hoa Kỳ. Sau
khi lễ bàn giao chấm dứt, thủy thủ đoàn
gở lon ném xuống biển, một số giữ
lại để kỷ niệm. Không ai nói vói ai, rơm
rớm nước mắt. Lá quốc kỳ VNCH vừa
hạ xuống, đươc trao cho tôi. Tôi vẫn
giữ ǵn, trân quí nó cho đến ngày hôm nay. Lá
quốc kỳ nhuộm màu phong sương này đă
phất phới tung bay trên HQ 14 suốt mấy tháng
cuối cùng của cuộc chiến. Phần tôi, ngoài
mặt tôi vẫn giữ nét nghiêm trang, nhưng trong ḷng,
tôi đang khóc. Một cuộc chiến dài đăng
đẵng đă chấm dứt trong đau thương,
thất vọng! Bao nhiêu quân sĩ, tướng tá anh dũng
của Quân Lực VNCH đă thương vong. Bao nhiêu
gia đ́nh đau khổ, mẹ mất con, vợ
mất chồng, con mất bố. Tất cả hy sinh
đó chỉ nhắm một mục đích: Bảo
vệ Miền Nam Tự Do. Nay, tất cả hy vọng
đă trở thành mây khói!
Tuy
đă nhận bàn giao, Trung Úy Don Swain vẫn yêu cầu
tôi tiếp tục điều khiển nhân viên và
đưa chiến hạm vào trong Subic Bay. Lần lượt,
các chiến hạm vào hải cảng. HQ Hoa Kỳ không
cho phép các hạm trưởng VNCH tự cặp cầu
và HQ Hoa Kỳ cũng không đủ phương
tiện để chuyên chở tất cả thủy
thủ đoàn và người quá giang vào bờ. V́
vậy, tôi phải vận chuyển HQ 14 chờ trong
hải cảng đến khi tàu kéo của HQ Hoa Kỳ
ḍng chiến hạm vào cặp cầu. Sau đó, tôi có
vài lời từ giă nhân viên quá giang và thủy thủ
đoàn trước khi họ rời chiến hạm. Theo
lời yêu cầu của HQ Hoa Kỳ, tôi cho Trung Úy Dân
và vài nhân viên cơ khí cùng vô tuyến Tuấn
tiếp tục ở lại chiến hạm để
lo máy móc cho đến khi tôi rời chiến ham và tàu
ḍng của HQ Hoa Kỳ hoàn tất việc đưa HQ
14 ra buộc phao trong hải cảng th́ tắt hết máy
móc và theo tàu ḍng vào bờ. Khi
tôi vào pḥng ăn sĩ quan, các sĩ quan an ninh của
HQ Hoa kỳ đă có mặt ở đó, chờ tôi cho
biết t́nh h́nh trên quần đảo Trường Sa
trong thời gian HQ 14 hoạt động quanh quần
đảo này. Sau
khi thuyết tŕnh cho họ, tôi cùng gia đ́nh rời
chiến hạm. Tuy tôi không c̣n mang cấp bậc, anh quân
nhân TQLC Hoa kỳ đang đứng gác hạm kiều
vẫn nhận ra tôi và nghiêm chỉnh đưa tay chào.
Tôi chào lại anh, và quay lại chào lá quốc kỳ
Mỹ, chào HQ 14 thân yêu một lần chót, và rời
chiến hạm. Bây giờ, cũng như tất cả
nhân viên của tôi, tôi sẽ bắt đầu một
hành tŕnh mới đến đất tự do. Cuộc
hành tŕnh này, tuy không nguy hiểm, nhưng chắc không
kém cam go, bất định. Mời
xem Dương Vận Hạm HQ503 |
||||