Hoa Biển Anh Thy Vũ Thất |
Tác
phẩm này nổi tiếng đến độ nói
đến Hoa Biển là người yêu nhạc nghĩ
đến Anh Thy hoặc nói đến Anh Thy là
thấy Hoa Biển. Sau
tháng 4/75, để trả đũa miền Bắc
thống nhất miền Nam bằng vũ lực,
miền Nam bắt đầu tấn công miền
Bắc bằng… âm nhạc. Nhạc miền Nam nhanh chóng
vượt Bến Hải, chiếm Hà Nội, Hải
Pḥng, lan tận ải Nam Quan. Thậm chí nhạc lính
của miền Bắc cũng dần dần mất
định hướng xă hội chủ nghĩa,
đành chịu để nhạc lính miền Nam giành
dân lấn đất. Đến nay, ba mươi hai năm
trôi qua, rơ ràng là Đêm nguyện cầu đă
phủ mờ Trường sơn đông Trường
sơn tây. Và Tiếng chày trên sóc bam bo đă ch́m
dần trong Tiếng hát hậu phương âm vang Trên
bốn vùng chiến thuật. Riêng
nhạc lính của nhạc sĩ miền Nam Trần
Thiện Thanh có cái lạ là sau cuộc đổi
đời, không chỉ lấn lướt nhạc lính
của các nhạc sĩ miền Bắc mà c̣n làm thay
đổi cả cảm nhận của chính người
miền Nam. Trước kia, rất nhiều người
coi lời ca Trần Thiện Thanh là cường điệu,
là hào nhoáng nhưng khi quê hương sỏi đá
biết buồn, những lời đó lại gây
nhức nhối tận tâm can. Tôi
cũng không thoát khỏi sự chuyển hướng
này mà không chừng c̣n …sâu đậm hơn. Trước
đây, tôi không chỉ cho lời ca Trần Thiện
Thanh là đầu môi chót lưỡi mà c̣n thích nghêu
ngao những câu sửa đổi cợt đùa, như
“trên
ngôi cao chín tầng hoàng hậu đẹp … không
giống ai”!
Vậy mà khi từng trải những đêm dài trong
ngục tù cải tạo, dù chỉ với một
giọng ca làng nhàng, chỉ với từng tiếng
đàn lập dập mà lạ lùng sao chính những
lời chót lưỡi đầu môi đó lại
thắm thía gợi về những buồn vui đời
lính, về những vùng biển mặn xa khơi. Tôi
bắt đầu yêu nhạc Trần Thiện Thanh
từ đó. Cho nên khi an cư lạc nghiệp xứ
người, tôi đă t́m mua bất cứ băng
nhạc, CD và DVD nào có giọng ca hoặc nhạc
của Nhật Trường Trần Thiện Thanh.
Một là để thưởng thức trọn
vẹn hàng trăm tác phẩm đa dạng của
anh, hai là như một lời xin lỗi…. Khi
được tin anh đă qua Mỹ 1993, tôi rất
vui mừng. Tôi muốn nh́n lại h́nh ảnh Nhật
Trường trên Tiếng Hát Đôi Mươi mà hai
mươi năm trước tôi không mấy quan tâm.
Quả nhiên, qua cuốn video Holywood Night, tôi đă vô cùng
thích thú gặp lại Nhật Trường trong phong
thái diễn tả rất đặc thù. H́nh
ảnh của anh trong bộ quân phục trắng
hải quân gợi nhớ h́nh ảnh của chính tôi
ngày nào. Thêm vào đó là bài Hoa Biển mang tôi
trở về những kỷ niệm với nhạc sĩ
Anh Thy … Cuối
năm 1967, đang chỉ huy toán giang đỉnh
hoạt động vùng sông Măng Thít, tôi bất
ngờ được lệnh thuyên chuyển về Pḥng
Tâm lư chiến Bộ tư lệnh Hải quân. Tôi
chắc là nhờ “uy
tín”
mấy bài thơ, mấy truyện ngắn đăng
trên tờ nguyệt san Lướt Sóng mà được
ban biên tập “triệu hồi” tăng cường.
Vào tŕnh diện vị trưởng pḥng, tôi không
dấu vẻ thất vọng khi ông lại giao cho cái
chức hoàn toàn ngoài năng khiếu: Trưởng ban
văn nghệ Hải quân. Tôi viện lư do không rành
đờn ca xướng hát để từ chối.
Ông cười, bảo tôi có máu văn nghệ mà
được giao cho nguyên ban văn nghệ th́ c̣n
đ̣i hỏi ǵ! Ban
văn nghệ Hải quân lúc đó có khoảng 20 người,
gồm ban tân nhạc và ban kích động nhạc ,
ban kịch, hai nhân viên chuyên trị cổ nhạc và
một ảo thuật gia. Đó cũng là lần
đầu tôi thấy “dung
nhan”
hai nhạc sĩ thành danh là Nguyễn Vũ, Mặc
Thế Nhân. C̣n nhạc sĩ Anh Thy th́ đó là
lần thứ hai. Nguyễn
Vũ vóc dáng nhỏ con, chững chạc, ít cười.
Mặc Thế Nhân ngang tầm Nguyễn Vũ, nếu
không tía lia th́ luôn chúm chím. C̣n Anh Thy, người cân
đối, cao ráo, khuôn mặt điểm vài anh hoa phát
tiết, miệng rộng môi dầy, cười
hở hai hàm răng đều đặn. Đó
đúng là h́nh ảnh Anh Thy tôi gặp hai năm trước.
Thời gian đó tàu tôi biệt phái Đặc Khu
Rừng Sát phối hợp hành quân với các giang
đoàn. Một bữa nghỉ bến, tôi đang
ngồi viết một truyện ngắn th́ Anh Thy bước
đến trước bàn, chân chập lại, tay
đưa lên chào. Anh xưng tên. Chúng tôi thăm
hỏi thân mật. Được một lúc, Anh Thy tươi
cười mở quyển Lướt
Sóng,
chỉ bài thơ: –
Thật là may được gặp ông thầy đúng
lúc! Em viết bản nhạc khá lâu mà không đặt
ra lời. Nay gặp cái tựa bài thơ của ông
thầy em chịu quá. Xin phép cho em “chôm” cái tựa
Hoa Biển để làm tựa cho bản nhạc. Tôi vồn vă: –
Khỏi cần chôm cái tựa, hân hạnh tặng Anh
Thy nguyên bài thơ để phổ nhạc. Anh
Thy đọc một đoạn trong tám đoạn:
“‘Áo trắng em may hoa bọt biển. C̣n đêm nay
nữa, sáng xong rồi. Áo trắng anh mang cho trọn
kiếp. C̣n em một buổi để rồi thôi’!
Rất tiếc ông thầy, nghe …thảm quá! Em
chỉ thích những ǵ vui vui…” Và
bài Hoa Biển phát hành vài tháng sau với lời hoàn
toàn mới, dễ thương, tươi trẻ. “Em
ơi giận hờn xin như hoa sóng tan trong đại
dương”. Ba
nhạc sĩ thành danh nhưng chỉ ḿnh Nguyễn Vũ
ôm đàn trên sân khấu, c̣n Mặc Thế Nhân th́
giữ vai kịch sĩ, Anh Thy th́ làm hoạt náo viên.
Đó cũng là lần đầu tôi biết mặt
ca sĩ kích động Elvis Phương, lúc đó
chỉ biết mỗi bản tân nhạc Mộng Dưới
Hoa mà dân làng xă đều ….ngáp khi anh tŕnh diễn.
C̣n đỡ hơn là khi anh hát kích động
nhạc, họ bỏ ra về. Có lẽ v́ vậy mà
năm sau anh xin qua Biệt đoàn văn nghệ trung
ương. Nhạc
sĩ Nguyễn Vũ Nguyễn Tuấn Khanh (2012). Ban
văn nghệ thường tháp tùng trên một trong
hai chiếc y tế hạm, phối hợp thực
hiện công tác có tên gọi chung là dân sự vụ.
Công tác gồm tŕnh diễn văn nghệ, khám
bệnh phát thuốc, phát quà và truyền đơn.
Đối tượng là các đơn vị Hải
quân, gia đ́nh binh sĩ và dân chúng ở các làng xă
vùng xôi đậu, các hải đảo xa khơi…
Mỗi chuyến kéo dài từ một đến hai tháng.
Sau chuyến công tác đầu tiên vùng Rạch Giá –
Phú Quốc, tôi biết được tính t́nh và
biệt danh của từng người. Như tay
trống kích động tên Minh rất vui nhộn, có
bộ mặt dài như mặt ngựa nên bạn bè
gọi Minh ngựa. Hai tay đờn hiền hậu có
cùng tên Đức nên được phân biệt
Đức Cống, Đức Cạp. Riêng
Anh Thy tuy dáng vẻ hào hoa, lịch lăm nhưng do mang tên
thật là Phạm Văn Khổn nên bị anh em âu
yếm tặng cho cái biệt danh khó nghe: Khổn Ḷ! Dù
vậy nhạc sĩ nhà ta lại tỏ ra thích thú. Đang
tập dợt chương tŕnh cho chuyến thứ nh́
vùng đồng tháp mười th́ Việt cộng vi
phạm ngưng bắn, tấn công khắp miền Nam
đúng ngày Tết Mậu Thân. Các nhân viên được
phân tán để tăng cường pḥng thủ khu
vực Hải quân bến Bạch Đằng.
Chừng tháng sau, khi được chỉ định
làm trưởng trại tiếp cư Phạm Thế
Hiển, tôi kéo trọn trung đội văn nghệ
này qua bên kia cầu chữ Y để giữ an ninh
trật tự… Nhiều tháng sau đó, toàn ban
lại khăn gói xuống chiếc y tế hạm,
trực chỉ miền Trung, ngược ḍng Hương
giang đến ủi băi bên cầu Tràng Tiền và
bắt đầu công cuộc cứu trợ đồng
bào nạn nhân chiến cuộc thành phố Huế. Ở
Huế trở về, tôi được thăng
cấp, thăng chức phó pḥng, bàn giao ban văn
nghệ cho một sĩ quan tân đáo. Bẵng một
thời gian, một buổi sáng, Anh Thy vào văn pḥng
tặng tôi bản nhạc mới ra ḷ “Lính
Mà Em”.
Anh cho biết đă sáng tác trong những ngày ở
Huế. Tôi có dịp hỏi anh học nhạc với
ai. Anh Thy tươi cười, nghe cái “air” th́
biết là ai rồi. Tôi thú nhận không rành nhạc.
Anh lại cười, là Trần Thiện Thanh sư
phụ! Nhạc
sĩ Nặc Thế Nhân Phan Công Thiệt. Ngoài
Anh Thy, cả Mặc Thế Nhân và Nguyễn Vũ cũng
thỉnh thoảng tặng tôi các bản nhạc và các
dĩa hát mang giọng ca Lệ Thu, Hoàng Oanh, Thanh
Tuyền… Tôi cứ áy náy nghĩ đến
chuyện phải tặng lại cái ǵ. Thời may
bỗng tới. Buổi chiều đang đọc văn
thư, tôi bất ngờ nhận điện thoại
từ nhà văn Huỳnh Văn Phú. Chúng tôi mất liên
lạc nhau từ sau trung học. Anh đang làm trưởng
pḥng Tâm lư chiến Bộ Tư Lệnh Sư đoàn
Thuỷ quân lục chiến (TQLC) đồn trú cách
chỗ tôi làm vài khu phố. Anh rủ đi nhậu
ở một quán bên lề đường Phạm Ngũ
Lăo, t́nh cờ tôi ngồi cạnh nhà xuất bản
Thiên Tứ. Ông
Thiên Tứ thấy tôi mang hia đội măo hải quân
nên trêu chọc, “Binh
chủng nào cũng có truyện viết về binh
chủng của họ như Đời Phi Công, Đời
Pháo Thủ…, chắc Hải quân có người nhái
nên lặn kỹ quá!”
Tôi khích lại, “Nếu ông in th́ tôi viết.”
Ông Thiên tứ tỉnh queo, “Nếu anh dám viết
th́ tôi dám in.” “Thật không?” “Chỉ
với một điều kiện, cái tựa phải
là Đời Thủy Thủ.” Tôi
thấy cũng dễ… ăn tiền. Cứ dựa vào
bốn năm đi tàu từ ngày ra trường,
rồi thêm mắm thêm muối là thành truyện dài
thỏa măn điều kiện. Hăng hái, tôi
miệt mài viết ba tháng liền nhưng v́ ướt
át quá nên trở ngại… phối hợp nghệ
thuật. Măi đến giữa năm 1969 tôi mới có
sách để “đáp lễ” các nhạc sĩ
của tôi. Khi đọc ḍng đề tặng
Mến tặng nhạc sĩ Anh Thi, anh găi đầu
xin sửa thành Thy. Vài hôm sau, Anh Thy chê, “Truyện
viết về sĩ quan mà lại lấy cái tựa
Đời Thủy Thủ”.
Tôi bào chữa, “Th́
quan đi tàu cũng là… thủy thủ!” Chưa
kịp hưởng cái thú chiều chiều dạo qua
các nhà sách, sạp sách xem vị thế tŕnh làng
của Đời Thủy Thủ, tôi được
lệnh tham dự hành quân tái lập quận Năm Căn.
Toàn ban văn nghệ với sự tăng cường
các chuyên viên tâm lư chiến gồm các nhà văn nhà
thơ Vơ Hà Anh, Phan Minh Hồng, Tống Minh Phụng, Tô
Giang…, chúng tôi đảm trách phần nhiệm chiêu
dụ dân chúng trở về quận cũ đang
bỏ hoang. Ngày nào như ngày nào, cứ vừa ra
khỏi căn nhà nổi trên sông Bồ Đề
chừng vài trăm thước là bị tấn công.
Tuần nào cũng có tử thương, bị thương
nặng nhẹ. VC cũng không chừa cả chiếc
y tế hạm có mang biểu tượng hồng
thập tự to lớn hai bên hông. Sau
một tháng căng thẳng thần kinh, tôi may mắn
trở về không bị sứt mẻ, lại đi
nhậu với Huỳnh Văn Phú, lại bị nhà
xuất bản khích tướng, rằng nếu tôi dám
viết nữa th́ ông sẽ dám in nữa. Tôi lại
phải bỏ ăn, bỏ chơi, bỏ ngủ
nhiều tháng. Nạp xong bản thảo cho Sở
phối hợp nghệ thuật th́ cũng vừa lúc
tôi chia tay ban nhạc để về đơn vị
mới vùng biên giới Việt-Miên. Ai cũng bùi ngùi.
Riêng Anh Thy cười cười, mong sớm gặp
lại ông thầy. Gần
Tết năm 71, lên Sài G̣n nhận sách biếu, tôi ghé
Pḥng tâm lư chiến ưu tiên gặp họa sĩ Vũ
Thái Ḥa, là nhân viên phụ trách tŕnh bày tờ
Nguyệt san Lướt Sóng và cũng chính là tác
giả các ảnh b́a cho các quyển truyện dài
của tôi. Kế đến là t́m các nhạc sĩ
hải quân. Nh́n tựa truyện Trong Cơn Băo
Biển, Anh Thy đùa, “À, truyện về băo, không
phải về quan… thủy thủ!” Tôi cười
gượng : “Vẫn
là truyện quan thủy thủ !” Về
lại vùng hoạt động, ḷng nhủ ḷng
nhất định phải viết một truyện
về lính. Cuối tuần, tôi theo các giang đỉnh
đi hành quân tuần tiểu. Một giang đỉnh
thường được trang bị bốn nhân viên.
Thuyền trưởng thâm niên nhất mang cấp
hạ sĩ quan. Đây là một tập hợp các nhân
vật lư tưởng cho quyển truyện tương
lai. Tôi quan sát nghi nhận sinh hoạt. Tôi nghiền
ngẫm nội dung, sắp xếp bố cục. Đầu
năm 75, quyển Một Ḍng Sông Cho Chiến Đỉnh
ra đời. Tôi ghé pḥng Tâm lư chiến, hy vọng
ban văn nghệ chưa đi tŕnh diễn xa để
có dịp khoe “thành tích viết về lính”
với Anh Thy. Nhưng Vũ Thái Ḥa lại báo tin Anh
Thy đă tử nạn trong một chuyến công tác
hai năm về trước… Anh
Thy để lại mươi bài hát mang niềm vui và
hănh diện cho Hải quân Việt Nam. Riêng nhạc
phẩm Hoa Biển được in như một
sử liệu trong Tuyển Tập Hải Sử, trang
205, do Tổng Hội Hải Quân Hàng Hải ấn hành
năm 2004. Ngoài những lần gặp lại Nhật
Trường Trần Thiện Thanh trên cuốn video
Holywood Night, tôi c̣n có dịp gặp tận mặt trao
đổi vài câu khi anh và ca sĩ Mỹ Lan phụ trách
phần văn nghệ cho buổi ra mắt sách của
nhà văn Phan Nhật Nam tháng 11/1997 tại thủ
đô Hoa Kỳ. Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh
đă kư tặng tôi CD mới nhất “Gọi Tên Anh
Là… Lính”, và thật t́nh cờ trong đó lại có
bài Hoa Biển tôi ưa thích. Một
hôm nghe tin Nhật Trường tuyên bố giải
nghệ, tôi gửi mua ngay cái DVD cuối cùng của
anh, “Nhật Trường Giă Từ Sân Khấu”. Ngày
13 tháng 5 năm 2005, các báo đồng loạt
đưa tin Trần Thiện Thanh đă vĩnh
viễn ra đi…. Gần một năm sau, gần
thủ đô của người Viêt tỵ nạn,
Trung tâm Asia tổ chức một đại nhạc
hội quy mô trên một sân khấu tráng lệ để
vinh danh chàng ca sĩ kiêm nhạc sĩ tài hoa. Tôi
muốn về tham dự nhưng ở quá xa. Đành
phải chờ DVD 50 “Anh Không Chết Đâu Anh” phát
hành tháng 4/2006. Từ
nhạc bản đầu tiên của DVD 1, tôi đă
bắt đầu rơi nước mắt. Tôi say mê
thưởng thức từng bài hát qua những
giọng ca hàng đầu, qua nghệ thuật ḥa âm
hiện đại, trong một khung cảnh huy hoàng và
trong nỗi xúc động sâu xa. Tới DVD thứ nh́,
sau liên khúc “Không Bao Giờ Ngăn Cách” và “Mùa
Đông Của Anh”, MC Việt Dzũng giới
thiệu mục kế tiếp, “Ca khúc Hoa Biển
được viết chung với nhạc sĩ Anh
Thy, cũng là một Trung uư Hải quân.” Đang
tràn ngập xúc động, lời giới thiệu làm
tôi tỉnh người. Tôi chưa từng nghe
hoặc đọc thấy tác giả Hoa Biển là
Trần Thiện Thanh dù là soạn chung với Anh Thy.
Trên các tác phẩm tôi được tặng, từ
Anh Thy cũng như từ Trần Thiện Thanh, từ
các bài viết xưa tới nay đều ghi một tác
giả duy nhất là Anh Thy. Tác phẩm này nổi
tiếng đến độ nói đến Hoa
Biển là người yêu nhạc nghĩ đến
Anh Thy hoặc nói đến Anh Thy là thấy Hoa
Biển. Thêm một ngạc nhiên nữa, nhạc sĩ
Anh Thy không thể là Trung úy Hải quân. Cho đến
ngày tôi gặp anh lần chót trước Tết năm
1971, Anh Thy Phạm Văn Khổn c̣n mang cấp hạ
sĩ. Khi tử nạn hai năm sau đó anh được
vinh thăng Trung sĩ. Khi
Anh Thy c̣n sống, tôi chưa từng nghe anh nói Hoa
Biển được hợp soạn cùng sư
phụ.
Khi Trần Thiện Thanh c̣n sống, tôi cũng chưa
từng nghe anh lên tiếng tương tự… Vậy
th́ v́ lư do ǵ sau khi cả hai nhạc sĩ đă ra người
thiên cổ, tên của Trần Thiện Thanh được
gắn vào Hoa Biển? Bất b́nh, tôi viết ngay bài “Hoa
Biển Anh Thy”
đăng trên trang mạng Đàn Chim Việt. Ṭa
soạn báo này liên kết đến trang mạng khác
có đăng một bài viết của một
nhạc sĩ kiêm họa sĩ cho rằng Phạm Văn
Khổn không biết đàn và tiếm danh Anh Thy. Tôi ṭ
ṃ t́m đọc thêm th́ thấy trên một vài
diễn đàn liên mạng về âm nhạc, một
số người khác cũng cho rằng Anh Thy là bút
danh khác của Trần Thiện Thanh. Nhận thấy bài
viết của ḿnh chưa đủ sức thuyết
phục, tôi cố t́m lá thư nhạc sĩ Trần
Thiện Thanh phúc đáp thư tôi hỏi han về
nhạc sĩ Anh Thy khi đặt mua đĩa
nhạc. Măi mấy năm sau, trong lúc t́m một tài
liệu khác, thư của Nhật Trường
hiện ra. Bài viết trước đây được
tu chỉnh kèm thủ bút của Nhật Trường
xác nhận có quen biết một người mà anh
gọi rành rọt là nhạc sĩ Anh Thy. Thư
Nhật Trường gởi Vũ Thất. Nguồn VT “K/g
Anh Vũ Thất, Xin cảm ơn thịnh t́nh của
anh, xin gửi anh “Rừng Lá Thấp”. Anh Thy chết
trước 75 tại VN trên đường công tác
ở Qui Nhơn. Quán Anh Thy ở Cali không liên quan ǵ
đến nhạc sĩ Anh Thy. Cảm ơn anh lần
nữa. Kính, 18/7/2000 kư tên Nhật Trường” Nếu thật sự có việc Trần Thiện Thanh hợp soạn Hoa Biển với Anh Thy, ước mong rằng được nh́n thấy một chứng cứ cụ thể |