Hồi kư của một đơn vị ở tuyến đầu Bắc B́nh Thuận Nguyễn
Tấn Hợi |
Tôi
Nguyễn Tấn Hợi, cựu trung úy, đại đội
trưởng Đại Đội 4/Tiểu Đoàn 248/ĐP
thuộc Liên Đoàn 925 DP/BT, do Đại Tá Lại Văn
Khuy làm liên đoàn trưởng, phụ trách an ninh lănh
thổ 4 quận miền Bắc tỉnh B́nh Thuận. Liên
đoàn có 3 tiểu đoàn DP tác chiến: TĐ 248 ở
Tuy Phong, TĐ 212 đóng tại Lương Sơn và TĐ 229
phụ trách vùng Hải Ninh. Riêng
TĐ 248/ĐP đóng tại Tuy Phong là quận cực
Bắc B́nh Thuận, từ Mũi Cà Ná vào đến
Bầu Đá giáp ranh quận Ḥa Đa, trên một lănh
thổ phức tạp, đầy núi non, băi biển,
nhiều đảo và những cánh đồng mênh mông.
TĐ có 4 đại đội tác chiến và 1 đại
đội chỉ huy công vụ: ĐĐ1-Trung Úy Hàm, ĐĐ2-Trung
Úy Quư, ĐĐ3-Trung Úy Đức, và ĐĐ4 là tôi. ĐĐT/Chỉ
Huy Công Vụ lúc bấy giờ là Trung Úy Thức, trưởng
Ban 3 là Đại Úy Tuân, phụ tá là Thiếu Úy
Thiện, trưởng Ban Truyền Tin là Trung Úy Hải.
BCH TĐ đóng tại cầu Đại Ḥa thuộc
Quận Tuy Phong. Thiếu Tá Nguyễn Văn Xuân,
thuộc binh chủng LLDB về thay thế Thiếu Tá Lê
Văn Trung, là tiểu đoàn trưởng cuối cùng.
Ngoài ra TĐ c̣n có Đại Úy Nguyễn Văn Ngọc, nguyên
trưởng Pḥng 2/TK B́nh Thuận, không biết sao
bị thuyên chuyển tới chốn này để
ngồi chơi xơi nước. Sau tháng 5,1975, Đại
Úy Ngọc bị tù tận miền Bắc và về Nam
vẫn ở tù tại trại Z30 Hàm Tân gần 13 năm,
giống như Phó Tỉnh Trưởng BT – Phạm
Ngọc Cửu.. Ngày
15 tháng 4 năm 1975, Đại Đội 4/248 ĐP nhận
được lệnh trở về BCH/TĐ 248, trong lúc
đang tăng phái hành quân cho TĐ 212 ở Lương Sơn,
đóng tại đập Đồng Mới, v́ lư do áp
lực địch tại khu vực này quá mạnh. Là
một đơn vị tăng phái hành quân, Đại
đội của tôi lại đóng bên kia sông Lũy,
nên chỉ tự lo lấy thân thôi, dù cách BCH của Liên
Đoàn 925 ĐP tại Lương Sơn khoảng vài cây
số. Nói chung là không có được một sự
tiếp viện nào ngoại trừ pháo binh và không quân
yểm trợ khi cần thiết. Sáng
hôm đó, tôi rút ĐĐ qua sông và ở trên quốc
lộ 1 chờ phương tiện di chuyển. Chi khu
Phan Lư Chàm có tăng cường cho 2 xe GMC chở quân.
Tôi nghĩ cũng là chở một đại đội
với quân số cùng trang bị đầy đủ mà
chỉ có 2 xe th́ làm sao chuyển hết? Tôi có hỏi
th́ được trả lời, ráng mà sắp xếp
sẽ có xe thêm. Lúc này th́ cuộc chiến đă nóng
bỏng rồi. Lệnh mà thôi, có bao nhiêu sử
dụng bấy nhiêu. Đợt đầu tôi đem 2 trung
đội và một tiểu đội viễn thám; Nói
về tiểu đội viễn thám này tuy chỉ có
12 người nhưng có tầm vóc tác chiến
bằng một trung đội. Chuyến đi phục kích
và bảo vệ BCH/ĐĐ được trang bị súng
đạn, truyền tin cũng như một trung đội,
c̣n lại 2 trung đội tôi giao cho đại đội
phó là Trung Úy Đạt để chờ di chuyển
về sau. Trên
đường di chuyển về Tuy Phong tới Bầu
Đá ranh giới của Quận Ḥa Đa và Quận Tuy Phong
vắng vẻ th́ bị phục kích. Tôi ở chiếc
xe đầu và ngồi kế bên tài xế, khi súng
nổ tôi thấy những trái B40 bay qua đầu xe, tài
xế đạp thắng, tôi bèn rút cây Colt 45 ra và ra
lệnh cho tài xế cứ chạy, cứ giữ
vững tay lái, bằng một động tác cực
nhanh tôi hất chân gas của tài xế để
tự tôi đạp gas chạy hết tốc độ.
Đạn B40 vẫn tiếp tục băng qua đầu
xe, tất cả binh sĩ trên xe đều nổ súng
bắn trả; Nhờ ơn trên phù hộ, 2 chiếc
GMC đă thoát được phục kích và chạy
về BCH/TĐ, xe dừng tôi kiểm soát lại th́ không
có một ai chết hay bị thương, riêng cái bao
đựng cây ăng ten bảy đoạn th́ lủng
hết không c̣n sử dụng được. Sau
khi nhận bổ sung đạn dược và lương
khô, ĐĐ tôi, lại được lệnh tiếp
tục di chuyển ra Cà Ná. Điều này cũng lạ, tôi
tự nhủ, như vậy 3 đại đội kia
đâu? Tại sao phải chờ tôi về để
đem ra Cà Ná trong lúc chiến trường Phan Rang,
đang dầu sôi lửa bỏng ? Điều này đă làm
cho tôi có suy nghĩ: “Đă tăng phái ĐĐ tôi cho TĐ 212
đem tôi ra đóng quân tại đập Đồng
Mới, là một nơi đồng không mông quạnh
chỉ có cây với những băi đất khô cằn,
không một ngọn cỏ mọc, rồi bây giờ
họ chờ cho bằng được tôi về
rồi thảy ra tuyến đầu. C̣n 3 vị ĐĐT
kia đâu rồi mà phải chờ tôi di chuyển ra Cà
Ná?. Tuy nhiên lệnh là lệnh tôi phải thi hành, tôi
tiếp tục thẳng tiến, nh́n lại những người
lính thân yêu mà tội nghiệp cho họ, linh tính và
sự suy nghĩ của một cấp chỉ huy
chiến trường, tôi tự nhủ rằng có
thể kỳ này ra đi là không có ngày trở lại.
Nhưng thân phận của Người Lính VNCH là
thế đó, không thế lực gửi gấm, không
tiền bạc lo lót, th́ tác chiến muôn năm là cái
chắc, lon lá huy chương, chức vụ văn pḥng,
bốn bên liên hợp, này này nọ nọ, người
lính nghèo đâu có bao giờ mơ ước, thậm
chí trại gia binh cũng tước đoạt để
cấp cho phe đảng… Nghĩ tới niềm đau
và nước mắt như vậy, song vẫn cứ
đi, tôi ra lệnh cho xe khởi hành. Trung
Úy Thức ĐĐ/CHCV, hiện ở Texas-Hoa Kỳ, có
kể cho tôi nghe qua điện thoại: Tại BCH/TĐ,
Thiếu Tá Xuân và Trung Úy Hải Truyền Tin cho
biết là phải đi họp ở Phan Rí hay tại
BCH Tuy Phong, và đă đem tất cả máy truyền
tin theo (?), cho nên Thức không có máy để liên
lạc được với tôi đành chịu. Khi t́nh
thế thật nguy ngập, Thức cùng với Thiếu
Úy Thiện chạy về Chi Khu Tuy Phong v́ nơi đây
c̣n vợ và 3 đứa con của Thức. Thức cơng
1 đứa, Thiện cơng 1 đứa và vợ Thức
dẫn 1 đứa chạy ra biển để t́m ghe
di tản. Khi đến nơi th́ chỉ có Thức và
Thiện là quân nhân nên được cho ra tàu, c̣n
vợ và 3 con ở lại; gạt nước mắt,
vợ Thức dẫn 3 đứa con trở lại,
kể từ đó mất liên lạc không c̣n biết
tin tức ǵ nữa. Nghĩ cũng thật đau thương
cho cuộc đời của những người lính,
trong khi đó vợ và con của những quan quyền,
thời nào, cũng hưởng được mọi
sung sướng, cho tới lúc tàn cuộc cũng may
mắn hạnh phúc như thuở nào. Trở
lại trận chiến. Cà Ná là ranh giới của TK B́nh
Thuận và TK Ninh Thuận, qua khỏi bảng chia ranh
giới chừng vài chục thước là có quán Cà Ná
Quán, nơi đây xe chở hành khách từ Sài G̣n ra thường
hay ghé vào quán này ăn cơm trưa. Sở dĩ tôi
biết là v́ đă từng đóng quân ở đây. Vùng
này có một ngọn núi đối diện với Cà Ná
Quán, kế bên là Dinh Cô, muốn lên phải leo 99
bậc thang xây bằng đá. Từ tấm bảng chia
ranh giới về hướng Phan Thiết, một bên là
núi, một bên là biển, mà hiểm trở nhất là
cây cầu có tên là cầu Đá Chẹt. Cầu
này nằm trên quốc lộ 1, giữa một bên núi
cao, một bên biển thấp, nối tiếp có thêm
mấy cây cầu nhỏ, thật hiểm trở vô cùng.
Nhiều lúc tôi đă có những suy nghĩ là phải
triệt hạ mấy cây cầu này để làm
chậm bớt sự di chuyển của quân CSBV, v́
cầu sập muốn đi qua, Công Binh của quân CS
phải cần có thời gian tái tạo, nhưng
rồi c̣n người dân họ muốn đi t́m
tự do th́ sao?, nghĩ th́ nghĩ vậy nhưng
rồi mất đi như một ảo tưởng. V́
t́nh h́nh biến chuyển quá nhanh, nên sau khi liên lạc
nhận lệnh từ BCH/TĐ, Đại đội tôi
bỏ Cà Ná rút về xóm Vĩnh Hảo, nhưng
nhận thấy đây không phải là vị trí pḥng
thủ, nên tôi lại di chuyển tiếp tới Sở
Nước-Suối Vĩnh Hảo. Đối diện
về phía bên kia QL1, có một ḥn núi không cao lắm,
nguyên là căn cứ pháo binh của Mỹ. Tôi chọn
đóng quân ở đây, v́ nó là một vị trí pḥng
thủ thiên nhiên rất lư tưởng. Hơn nữa,
nếu nguy cấp, DD có thể rút ra phía sau núi, gần
sát bờ biển. Chuyện đă đến nước
này rồi, thân phải lo thân, không những ḿnh tôi mà
toàn bộ số lính thân yêu đă theo tôi trong suốt
đoạn đường gian khổ. Khoảng
10 giờ sáng ngày 16 tháng 4, 1975, tôi đang ở trên
ngọn núi đối diện Sở Nước
Suối Vĩnh Hảo, đặt ống ḍm tôi
thấy đoàn xe bụi mù mịt. Ngó lại mấy cây
cầu, phải chi trước đó tôi đă có nói là
phải tính toán nó đi, th́ giờ đây, dĩ nhiên
chận đứng được đoàn xe này rồi
. Việc này chính tôi có đề nghị với BCH/TĐ
và nơi đă tŕnh lên Chi Khu cùng Tiểu Khu, nhưng
không thẩm quyền nào quyết định nổi, v́
lúc đó Mặt Trận Phan Rang c̣n đang tiếp
diễn, làm sao có thể phá cầu, trên đường
rút lui của đoàn quân? Rồi
tới lúc nguy ngập, tôi lại xin lệnh phá Cầu
Đá Chẹt nhưng cũng không được chấp
thuận. Sau này gặp lại cựu Trung Úy Thức,
anh cho biết là BCH/TD có xuống BCH Tuy Phong để bàn
thảo chuyện này, nhưng không thấy thực
hiện ǵ hết. Tới khi tôi liên lạc về BCH/TĐ,
báo cáo, là đă nh́n thấy xuất hiện đoàn xe
bụi tung mù trời, gần xóm Vĩnh Hảo, cách
chỗ tôi đóng quân chừng 5-6 cây số và cách
BCH/TĐ khoảng hơn 10 cây số và xin phi vụ
giội bom đoàn xe trên. Lúc đó, tuy đă được
Trung Tâm Hỏa Lực chấp thuận, nhưng v́ t́nh
h́nh chiến trường đang sôi động
khắp nơi, nhất là tại các mặt trận Phan
Rang, Phan Thiết và Xuân Lộc. Hơn nữa, phi trường
Phan Rang th́ đă mất, chỉ c̣n phi trường Biên
Ḥa. Tôi cố liên lạc về BCH/TĐ, kể cả BCH
Tùy Phong nhưng không nơi nào trả lời, v́ đă
di tản ra chiến hạm Hải Quân 503 trước
khi đoàn xe CS tới, v́ vậy mới gặp
thiếu tá quận trưởng Tuy Phong là Hà Văn Thành
ở trên tàu. Thật
sự lúc đó, đơn vị của tôi chưa
hề chạm địch, nên khi liên lạc được
phi vụ, khoảng 10 giờ sáng. Tôi đă liên lạc
với phi công và báo cáo mục tiêu xin oanh kích nhưng
không hiểu v́ lư do ǵ, hai chiếc F-5 lại thả
hai trái bom xuống vị trí đóng quân của tôi,
rồi bay mất về hướng Nam. Cũng may, bom
lạc ra ngoài nên không có ai bị thương vong. Đây
có lẽ v́ áp lực pḥng không lúc đó rất
nặng, nên phải bay cao ngoài tầm pháo của địch,
v́ tôi vẫn c̣n nghe họ gọi danh hiệu của tôi
lúc đó là Bản Thế theo đặc lệnh
truyền tin, song tôi không dám lên tiếng, v́ sợ
lại bị KQ thả bom lầm như trước. Lúc
này ĐĐ chỉ c̣n 2/3 quân số, v́ khi rời Lương
Sơn, tôi đă giao cho ĐĐP chỉ huy 2 trung đội
c̣n lại, trong lúc chờ phương tiện. Đây cũng
là điều may mắn đă xui khiến Chi Khu Phan Lư
Chàm cung cấp không đủ xe để di chuyển
toàn đại đội về Tuy Phong. Nếu không,
tại trận phục kích ở Bầu Đá, có
nhiều xe thế nào cũng dính. Ngoài ra nếu đủ
quân số, phải rải quân rộng, chắc chắn
sẽ bị ăn bom của KQ bỏ lầm. Lúc
này tại Tuy Phong chỉ c̣n có một ḿnh ĐD4 (-)
của TĐ248 ĐP mà thôi, chính tôi cũng không biết
sẽ đi về đâu v́ mọi liên lạc với
BCH/TĐ và Chi Khu coi như bị cắt đứt. Đứng
trên núi cao, qua ống ḍm tôi thấy trên quốc lộ
1, dân chúng chạy lánh nạn đầy đường,
bằng đủ loại phương tiện, kể
cả xe đạp.Thấy vậy, tôi xuống dọ
hỏi, mới biết đó là dân chúng Vĩnh
Hảo, khi thấy đoàn xe của VC tới, nên
rủ nhau bỏ nhà di tản. Họ c̣n cho biết
đoàn xe của bộ đội Cộng Sản
rất dài, trong số này có nhiều xe GMC tịch thu
của TK. Ninh Thuận bỏ lại, khi mặt trận
Phan Rang tan vỡ, hiện đang ngừng ngay trước
chợ. Tôi
có nghĩ là sẽ rút về Phan Thiết nhưng làm
sao được, v́ phải di chuyển cả một
chặng đường xa xôi, mà tôi là tuyến đầu.
Bởi vậy, tôi đem 2 trung đội xuống
nằm ở sát chân núi, trước mặt là 1 giao thông
hào, dùng thoát nước mưa, để khỏi hư
mặt lộ. Nhờ nó, mà đơn vị đă rút
an toàn ra bờ biển, bởi v́ xe hay chiến xa cũng
không vượt qua được cái giao thông hào. Tôi
để lại Tiểu Đội Viễn Thám, nằm kích
ở lưng chừng núi có ǵ yểm trợ, v́ ở
trên cao không sợ lạc đạn. Tới đường
cùng rồi, những nghẹn ngào uất ức không làm
sao giải tỏa được. Tôi xuống chận dân
để hỏi t́nh h́nh tiếp, v́ lúc đó đoàn
xe c̣n đứng chưa di chuyển và được
trả lời là có 1 chiếc xe Jeep sắp sửa
chạy trước để đến đây, tôi nghĩ
đoàn xe chưa đi, tôi đặt ống ḍm nh́n th́
thấy vẫn yên tĩnh, nếu 1 chiếc xe th́ tôi lượm
liền, chứ 1 đoàn quân th́ vô vọng, tính cho cùng
th́ cũng chỉ trứng chọi với đá. Nói
thực lính ĐPQ chúng tôi làm ǵ có kinh nghiệm đánh
chiến xa, chính bản thân tôi là đại đội
trưởng cũng chưa có kinh nghiệm đánh
chiến xa ngoài lư thuyết, nhưng rất có kinh
nghiệm về bộ chiến. Tôi ra lịnh 1 chính, 1
yểm trợ, dù tôi biết rằng sau lưng tôi không
có ai, chỉ có cây cối, đồi núi chim muông và
những loài thú lạc lơng trong tiếng bom nổ. Thân
tự lo thân, tôi chuẩn bị để tiêu diệt
chiếc xe Jeep này, nằm chờ, chờ đến khi
trong tầm nh́n th́ không có chiếc xe Jeep nào hết mà
là 1 đoàn xe, chạy đầu là chiếc PT76 th́
phải. Việc ǵ đến đă đến, không thèm
sự đợi chờ một người yêu không
đáng yêu. Súng nổ, vẫn cứ nổ, đoàn xe
dừng lại, súng vẫn cứ nổ, tôi thấy
chung quanh ḿnh toàn là lửa với lửa. Tôi ra
lệnh cho tất cả theo đường thông
thủy, từ đó an toàn có cây cối và đá
bảo vệ, che kín, lâu lâu dùng súng cối bắn ra
quốc lộ, chúng cứ bắn vào, nhờ thế mà
tôi đă hướng dẫn đơn vị ra tới
bờ biển. Chính tôi ra lệnh bỏ tất cả
quân trang mang theo cho nhẹ, chỉ súng đạn, lương
khô, đi theo con đường thông thủy đâu
phải chuyện dễ. Nói
tới vùng biển từ Cửa Xuất tới Long Hương
(Chi Khu Tuy Phong) tôi nằm ở giữa, đến khi ra
được tới bờ biển th́ đă gần
tối rồi. Chạy dọc bờ biển có đủ
loại cây mọc, nào cây Ma Vương thấp có gai
nhưng trái ăn rất ngon, thêm những bụi rù ŕ
mọc từng đám nhưng có khoảng cách, đây
chính là sự an toàn cho cho đơn vị, tôi ra
lệnh đào hầm trong những bụi rù ŕ và hy
vọng Tàu Hải Quân chạy qua. Nhờ c̣n có máy và
các loại đặc lệnh truyền tin, nên tôi đă
gọi cầu cứu khắp nơi, nhưng chẳng
một ai hồi đáp. Không lẽ số phận tôi
sinh ra làm bia đỡ đạn, c̣n những lính tráng
khác của ḿnh nữa cũng chung số phận sao?
Những người mà bao năm sương gió,
khổ cực, đă theo tôi trong suốt đoạn
đường chinh chiến. Trời
càng về đêm, càng âm u thê lương không thể
tả, những khuôn mặt lính mệt mỏi, cay đắng
xen lẫn ngậm ngùi, cho số phận của con người
VN bất hạnh, nhưng không một oán hờn ǵ
cả, nếu có chỉ trong ḷng. Tôi cảm nghĩ
tất cả lính của tôi cũng có những cảm
nghĩ ǵ đó, nhưng mà có một điều tôi
cam đoan rằng là có tôi, tôi là cấp chỉ huy không
bỏ họ, bằng mọi giá phải đưa
họ đi dù chỉ là phương trời vô
vọng. Họ thấy an tâm, dù sao ở giữa cơi
trời đất mênh mông, thê lương c̣n có tôi. Tôi
rất tự hào điều này. Tất cả như
bất động giữa đồng vắng, trong lúc
đó, biển cả vẫn phẫn nộ, nổi sóng,
không biết biển cả nổi sóng phẫn nộ v́
thương hại giùm cho những người lính
bất hạnh, nên cùng ḥa nhịp cho kẻ khốn cùng,
đă tới được bờ biển và gọi
cấp cứu, không biết bao nhiêu lần nhưng
đếu vô vọng. Trong lúc đó, có nhiều toán du
kích di chuyển về hướng Long Hương,
quận Tuy Phong nhưng tôi ra lệnh không nổ súng. Xa
xa vọng lại, những tiếng nổ long trời, tôi
đoán là những kho hậu cứ của Chi Khu Tuy
Phong bị nổ. Lúc
đó không biết đă mấy giờ rồi nhưng
trời tối đen như mực, sóng biển vẫn
phẫn nộ, đập vào băi cát như có vẻ
tức giận một điều ǵ ? Cái đồng
hồ của tôi trong lúc di chuyển theo đường
thông thủy đă bị vướng mất, đó cũng
là một kỷ niệm, bởi v́ nó đă theo tôi
suốt đoạn đường chinh chiến,
mất một cái đồng hồ đă sử
dụng tới 7 năm th́ không tiếc, mà mất
một vật kỷ niệm mới ngậm ngùi. Sau
khi đào hầm hố xong, Tôi suy nghĩ đêm đă
xuống rồi, rút băng qua QL1 để về Phan
Thiết th́ chỉ là vô vọng, không lương
thực, mà đạn dược th́ thiếu thốn,
có đi th́ cũng chả biết đi về đâu.
Tôi vẫn gọi, đến nước này th́ cũng
bước đường cùng, nhưng có sự thân yêu,
dầu sao cũng c̣n số lính của tôi, tới
giờ chót vẫn nghe lệnh tôi, đó cũng là
một an ủi cuối cùng. Giữa
lúc tuyệt vọng năo nề, th́ gặp được
tiếng trả lời, tôi không rơ tại v́ tôi không có
tần số đó, sau này tôi mới biết là họ
đă rà v́ nghe tôi gọi quá chừng. Xưng danh là
Giang Đoàn 27 từ Phan Rang vô, nhưng họ bảo tôi
nếu có ai xác nhận anh là Bản Thể là tôi vô
bốc anh liền. Kể cũng thật may, lúc đó tôi
nhận được tiếng của Thiếu Tá Hà Văn
Thành, đă xác nhận tôi là Bản Thể tức là
danh hiệu của đại đội trưởng lúc
đó theo đặc lệnh truyền tin. Nhờ
vậy chúng tôi được cứu sống. Trong
lúc đợi chờ tàu HQ vào vớt, tôi có dặn lính
khi gác th́ nằm xuống, đêm tối như mực,
không thể nào đúng gác mà thấy được,
tại v́ ở bờ biển mà, chỉ có nằm
xuống mới thấy dạng người ở ngoài
biển vào thôi. Cùng lúc, nh́n về hướng Chi Khu
Tuy Phong tiếng nổ vẫn không dứt. Mông lung suy tư
và chờ đợi, lúc này phải nói là tâm tôi
rối bời, không biết Hải Quân hứa vào
“bốc” chúng tôi có hay không, hay là chờ chết,
chỉ đến sáng mai thôi, b́nh minh vừa ló
dạng đem bao nhiêu nguồn vui cho mọi người
là lức tôi chỉ chờ chết. Chết với tôi
lúc đó th́ cũng không có một ư niệm nào, mà lúc
đó tôi rất căng thẳng. Nói là hầm trú
ẩn chứ đó chỉ là một cái hố đào
sâu che cái poncho cho tôi ngồi ở dưới rọi
đèn pin gọi các nơi. Gọi Hải Quân tôi
chấm tọa độ và Hải Quân hứa sẽ vào
bốc ra, chờ và chờ. Tôi không nhớ rơ thời
gian chắc có lẽ là nửa đêm th́ phải, sương
biển đă thấm lạnh đôi vai người lính,
thực ra đời lính chiến tôi có đụng
chạm những chuyện như thế này tuy vậy c̣n
có những đơn vị bạn yểm trợ, sương
lạnh bờ vai cũng chỉ là những đêm đóng
trên những ngọn đồi dọc theo QL1 có đủ
thời gian ngồi nh́n trăng lên mà ḷng cảm
thấy một cái ǵ lư thú trong gian khổ. C̣n cái này
th́ hết biết rồi. Tôi dặn lính gác rất là
cẩn thận bởi v́ từ ngoài biển khơi có
người vào là phe ta. Có
1 người lính chạy tới báo tôi biết là có 2
người từ ngoài biển đi vô và yêu cầu
gặp tôi. Tôi bước tới, 2 người mới
tới trong đêm vắng của biển cả, tôi
thấy họ mặc đồ ǵ lạ quá, 2 người
hỏi tôi có phải anh là đại đội trưởng
không th́ tôi nói là tôi. Rồi 2 người 1 phải 1
trái xốc nách tôi nhảy xuống biển và đi luôn,
tôi nghe 1 trong 2 người nói anh ngước mặt lên
để khỏi bị nước vô mũi, miệng,
tôi đưa anh đi, tôi độ chừng chắc cũng
nửa tiếng đồng hồ th́ bước lên trên
một vùng đá san hô, lúc đó tôi mới hiểu là
chiếc tàu họ đem vào v́ đêm tối đă
cỡi trên rặng san hô rồi. Họ bảo v́ đêm
tối không thấy rặng san hô. Họ báo cho biết
là họ chỉ được lệnh “bốc” tôi
ra thôi, tôi năn nỉ xin vui ḷng cứu những đồng
đội của tôi nữa, sau này khi vào Vũng Tàu tôi
có gặp 2 vị trung úy đó nhưng đă quên tên,
xin cảm ơn 2 vị. Cuối
cùng 2 vị trung úy đồng ư cho lính tôi ra nhưng
phải lội ra chứ không bốc được v́
lúc đó tàu c̣n nằm trên rặng san hô. Tôi mượn
máy truyền tin gọi vào bờ và ra lệnh cứ
lội ra trước mặt gần lắm, tàu đă
bị mắc rặng rồi, toàn bộ súng đạn,
máy truyền tin cứ đội lên đầu đi ra
đến khi nào bắt đầu lội là thả
hết xuống biển, tuyệt nhiên không để
lại một cái ǵ ở bờ biển hết.
Lại một lần nữa, ơn trên phù hộ
cuối cùng toàn bộ đơn vị tôi cũng ra
được. Hóa ra đó là Duyên Đoàn 27 đóng
tại Phan Rang, và sau đó đưa chúng tôi ra
chiếc Duyên Vận Hạm 503 đang nằm ở
gần Vịnh Cà Ná. Mờ
sáng là đơn vị tôi đă lên chiếc Duyên
Hải Vận 503, lúc đó tôi có gặp Thiếu Tá Thành
– quận trưởng Quận Tuy Phong, tôi có đôi
lời cảm ơn cứu tử. Nếu không có
Thiếu Tá Thành xác nhận th́ tôi cũng không bao
giờ ra được chiếc 503 mà mấy vị
trung úy HQ đă phải lặn lội dưới nước
biển trong đêm khuya để mang tôi ra ngoài tàu.
Đó cũng là một ư niệm t́nh huynh đệ chi
binh. Trong khi tôi đă ở với các ông không biết
bao nhiêu lâu, buồn có vui có, đủ mọi
chuyện trên đời tuy tôi không kể ra đây. Nhưng
với 2 vị trung úy HQ, tôi đâu có ở với 2
vị Hải Quân đó mà chỉ gặp nhau bằng liên
lạc truyền tin mà họ đă “bốc” tôi
rồi, như vậy LĐ 925/ĐP và TĐ 248/ĐP nghĩ coi
thế nào? Đứng
trên chiếc Duyên Hải Vận 503, khoảng 10 giờ
sáng, con tàu đang bấp bênh trên biển với
những cuộn sóng thật dữ dội, tôi nh́n vào
đất liền thấy những mảnh kiếng
chiếu ra nhiều vô kể như sao lấp lánh trên
giải Ngân Hà trong bầu trời đêm. V́ Cửa
Xuất không phải là cảng cập bến cho
loại tàu lớn như chiếc HQ. 503, nên tôi thấy
các vị sĩ quan Hải Quân trên tàu, đă chận
những chiếc ghe đánh cá lúc đó, cho họ
dầu và nhờ chạy vào bờ bốc lính ra.
Những hành động trân quư này, thật đúng t́nh
huynh đệ chi binh của QLVNCH. Khi
công tác cứu vớt lính c̣n đang tiếp diễn,
th́ những đạn pháo từ trong bờ bắn ra,
bởi v́ chiếc HQ-503 ở rất gần Vịnh Cà
Ná. Đó là đạn 130 ly bắn trực xạ của
CS, những trái đầu tiên bay qua tàu và rớt
ở xa, tôi nghe chiếc loa trước pháo đài
chỉ huy kêu cầu cứu, rồi những trái sau có
lẽ là trúng pháo tháp chỉ huy đầu tiên và sau
đó là trên boong, trên tàu lúc này th́ ít người thôi,
nếu lúc đó có vào khoảng vài trăm người
th́ thương vong rất là nhiều, dầu tôi là
Bộ Binh nhưng không biết chỗ nào để
ẩn núp, đành chịu trận, những tiếng
nổ thật chát chúa như muốn bể tung đầu.
Bỗng dưng tôi thấy 1 nắp hầm bật lên, tôi
và số ít chạy xuống ḷng tàu, lúc này tàu lắc
dữ lắm. Tôi chạy ra trước mũi rồi
lại chạy lên boong trong tư thế vừa đứng
vừa ngă nghiêng, v́ con tàu đă bị thương.
Rồi nó lắc lư dữ dội, có lẽ tàu
ở sóng ngang nên khi sóng đập vào mạn hông là tàu
nghiêng, hết đập là tàu đứng, cứ
thế tôi phải vịn vào lan can tàu để
rồi cùng lắc lư với nó, nh́n ra ngoài khơi
thấy có 5 cột khói bốc cao (lúc đó chiếc
503 gọi cấp cứu), cứ thế hải pháo
bắn vào bờ như một bầy kên kên, quà
quạ. Trong
t́nh huống như thế , mà lính của tôi c̣n lo
lắng cho cấp chỉ huy của ḿnh, khi đưa
cho tôi 2 cái bi đông không, có dây đeo, để tôi
tṛng vào cổ làm phao khi tàu ch́m. Nhưng “phước
bất trùng lai,” đây là lần thứ 3, ơn trên
phù hộ. Tiếng súng bắn từ bờ biển
đă im bặt v́ hải pháo bắn vào rất dữ
dội, nên VC chịu không nổi đă rút hết. Tàu
bị thủng ở bên hông nhưng nhờ có 5
chiến hạm khác tới cứu, hai chiếc d́u bên hông
nên dần dần chiếc 503 trở lại b́nh thường
và bơm nước ra và cột tàu để kè
chiếc bị thương đi trong đêm tối.
Mệt mỏi ê chề, tôi đă thiếp đi, đến
khi tỉnh dậy đă thấy gần đất
liền và tàu cập bến Vũng Tàu vào khoảng 10
giờ sáng. Đầu
tiên là 9 chiếc băng ca phủ drap trắng. Xin 1 phút
mặc niệm cho hương hồn những vị
đă v́ Tổ quốc vong thân. Khi đơn vị chúng
tôi lên bờ th́ đă có Quân Cảnh túc trực
tại chỗ để thu súng đạn. Súng đạn
ǵ nữa, đă bỏ hết dưới biển
rồi, duy nhất một kỷ vật luôn luôn mang theo
trong người là tấm thẻ bài cũng đă yên
vị trong ḷng biển cả mênh mông, c̣n tấm kia
đưa cho bà xă cất giữ, pḥng khi có mệnh
hệ ǵ c̣n có nó để nhận xác, và giờ
đây tấm thẻ bài kỷ vật này tôi c̣n đang
giữ khi đi định cư ở Mỹ. Quân
Cảnh hướng dẫn đơn vị tôi lên
chiếc GMC và chạy. Khi đến nơi họ cho
biết đây là Trung Tâm Huấn Luyện Vạn
Kiếp, nơi đây họ báo rằng TK B́nh Thuận
chưa mất và phải t́m đường trở
về. Lạ quá, lúc đó là buổi sáng ngày 18 tháng
4, 1975 đúng là B́nh Thuận chưa mất, mà mất
vào ngày 19 tháng 4, 1975 trong khi tôi ở tuyến đầu.
Tôi có tŕnh bày là không thể nào về lại B́nh
Thuận được v́ ngày tôi đi là Cà Ná đă
mất rồi. Tôi ở lại trong TTHL Vạn Kiếp
nhưng h́nh như là khu tiếp tân. Cuối cùng họ
bảo tôi xem có ai để nhận dạng tôi hay không?
Thật ra th́ lúc ấy chưa có ai ở B́nh Thuận
vào cả mà chỉ có đơn vị của tôi và
một số ít sĩ quan và binh sĩ của TĐ tôi và
CK TuyPhong đă lên chiếc 503 ngày trước như
đă kể trên thôi. Đến đây th́ tôi nhớ
lại lúc trước nguyên tôi là đại đội
phó của Đại Úy Lộc khi tôi mới là thiếu
úy, đến khi lên trung úy anh Lộc khuyên tôi c̣n
trẻ nên đi học khóa đại đội trưởng
và cũng chính anh Lộc đă lập văn thư cho
tôi, sau đó anh Lộc cho tôi biết anh đổi
về TTHL Vạn Kiếp, nhờ vậy nên tôi báo cho
họ là trước kia đại đội trưởng
của tôi là Đại Úy Lộc, ở Sông Mao có vợ
là chị Thu xin họ thông báo tên tôi và khoảng
chừng nửa giờ sau anh Lộc chạy ra nhận,
vậy là ơn trên phù hộ một lần nữa,
mọi thủ tục giấy tờ, và lính tráng
nhận phần ăn cũng đều do anh Lộc,
rồi từ đó các đơn vị B́nh Thuận cũng
đến. Nhân
đây, mặc dù anh đă là người thiên cổ
ở trại tù ngoài Bắc, xin một chút hoài
niệm về anh, v́ anh đă giúp đỡ tôi tận
t́nh, để nhớ đến người xưa là
đại đội trưởng của tôi, xin chân thành
cảm ơn anh, cầu nguyện hương hồn anh
siêu thoát, xin ơn trên phù hộ cho chị và mấy cháu. Giờ
đây đă hơn 30 năm, tuy không nhớ hết
từng chi tiết, nhưng khúc phim trận đánh
Sở Nước Suối Vĩnh Hảo vẫn như
đang diễn ra từng khúc. Tôi không phải nhà văn,
chỉ nhớ đâu viết đó, viết lách th́ mông
lung, không thứ tự thiếu đầu đuôi tuy
nhiên có nhiều điều vẫn nhớ nhất là,
khi nằm trong trại tù Quân Khu 7 ở Long Khánh vào
khoảng trưa ngày 30 tháng 4, 1975, lính CS đem lại
một cái radio bảo để nghe Dương Văn
Minh đọc lệnh đầu hàng. Nhớ lúc kho
đạn nổ trước ngày bầu cử Quốc
Hội của CS, nhớ nhà máy xay lúa bị cháy trơ
xương, chỉ c̣n cái trục quay là không cháy
nổi, nhớ những nhà tiền chế sau cơn
nổ, sườn nhà cong như sợi dây kẽm,
nhớ mặc bộ đồ tù có sọc y như tù
binh Mỹ bị nhốt ở Hỏa Ḷ Hà Nội,
nhớ những bao đựng quần áo phát cho
những con người phải nói là “cá đă vào
rọ” mà tôi đọc được là “Nhân dân
Trung Quốc thân tặng tù binh Việt Nam.” Không
biết nhân dân Trung Quốc có biết điều này
không, đó là anh tặng tôi để che thân thể,
nhưng chắc ǵ nhân dân Trung Quốc đă đủ
ấm no đâu, mà phải lo cho những người
ở đâu đâu; Nhân đạo ư! Không. Cộng
Sản làm ǵ có nhân đạo. Đoạn hồi kư này
tôi viết ra, song ở trong đây, tâm tư tôi không có
ǵ là hằn học cả, mà chỉ muốn nói lên
những suy tư đă ở trong tôi hơn 30 năm. Điều
này không có nghĩa là tôi muốn khơi dậy một
quá khứ. Mà tôi chỉ muốn cho mọi người
biết rằng trong những giờ phút cuối cùng
ở đầu phía Bắc tỉnh B́nh Thuận,
vẫn c̣n ít nhất 1 đơn vị đang chiến
đấu chống lại đoàn xe CSBV và t́m
đường triệt thoái để bảo toàn cho
mạng sống của những người lính đă
can trường chiến đấu cũng như cha ông
và đồng đội tôi đă đổ nhiều xương
máu, chống lại miền Bắc hiếu chiến
để ǵn giữ miền Nam Việt Nam tự do. Đây
là trận đánh có tên trong Quân Sử VNCH: Trận
Sở Nước-Vĩnh Hảo (B́nh Thuận). Đây
là trận đánh có Đại Bàng Chỉ Huy, đó là tôi:
Trung Úy Nguyễn Tấn Hợi ĐĐT/ ĐĐ4/ TĐ248 ĐP
thuộc Liên Đoàn 925 ĐP/BBT. Ngoài ra c̣n có Đại Bàng
Lớn là Thiếu Tá Hà Văn Thành, quận trưởng
kiêm CKT.Chi khu Tuy Phong-BT, không có xác nhận, được
DĐ27 và HQ-503 cứu vớt, ngày nay chúng tôi không c̣n
sống. Đó
là sự thật của lịch sử, không ai bóp méo
được. Viết xong mùa Thu năm 2006 tại Philadelphia, Pennsylvania. |