Tôi
sinh ra là một ngôi sao xấu trong những ngôi sao
xấu nhất của bầu trời đất
Việt.
Cha mẹ tôi nghèo lại phải sinh sống trong
một miền quê hẻo lánh gần một vùng núi
rừng heo hút, xa xôi, đất cày lên sỏi đá.
Tôi chưa bao giờ được cắp sách đến
trường. Do đó, từ lúc mới lên bảy, tôi
được một nhà phú hộ mướn chăn
dê.
Với đàn dê 40 con, hằng ngày tôi phải lùa chúng
vào các triền núi đá từ sáng sớm tinh sương
đến chạng vạng tối mới về.
Cả ngày chăn đàn dê gặm cỏ. Chiều
đến tôi phải gom dẫn chúng về nhà phú
hộ. Công việc chỉ đơn thuần như
thế. C̣n việc trả công, tôi không hề hay
biết. Đó là việc của người lớn:
- Của cha mẹ tôi và nhà phú hộ.
Sáng sớm được mẹ đánh thức, tôi
rửa ráy qua loa rồi rủng ra rủng rỉnh
dẫn đàn dê vào núi cho chúng tự t́m
thức ăn.
Sáng nào cũng vậy, mẹ trao cho tôi một nắm
cơm vắt, đựng trong mo cau với một ít
muối ớt, gói trong miếng lá chuối khô. Đó
là bữa cơm trưa hàng ngày của tôi.
Tôi chưa bao giờ biết ăn sáng hay lót ḷng bao
giờ. Ngay cả buổi cơm cũng chỉ có
muối ớt. Họa hoằn lắm mới được
thay đổi bữa cơm với một con cá lép khô
muối mặn bằng hai ngón tay. Đó là bữa
ăn khá thịnh soạn, ngon miệng nhất đời
chăn dê mà tôi đă hoan hỉ lắm rồi.
Ngồi
ăn nghe tiếng lục lạc rủng rẻng trên
cổ của bầy dê cũng vui tai quá đỗi.
Đời tôi thăng hoa hơn, năm 1973, vừa
đúng 18 tuổi, tôi xin đăng vào Nghĩa Quân,
được tuyển mộ và thăng chức ngay là
Nghĩa Quân Viên-một cấp bậc nhỏ nhoi
nhất trong hàng ngũ Nghĩa Quân. Tôi hănh diện
được xúng xính trong quân phục 'lính áo đen'.
Đời tôi bắt đầu sáng lạn hơn
thằng chăn dê rồi đó!
Tôi được dạy cho biết cách sử
dụng súng trường Carbin M1 và trong khi đó, “Em
Một” (Carbin M1) là 'người t́nh' đi theo tôi
trong suốt quăng đời lính tráng này.
Tôi được phục vụ ngay tại địa
phương nơi tôi chào đời và lớn lên
trong đói nghèo, cơ cực. Tiểu đội
của tôi gọi là 'tiểu đội thám báo'.
Nói 'thám báo' cho oai, chứ thực ra, nhiệm vụ
chính của tiểu đội là ban ngày canh gác
trụ sở Xă, ban đêm tiểu đội thường
xuyên di chuyển từ địa điểm này đến
địa h́nh khác với mục đích tránh sự
ḍm ngó, quan sát theo dơi của địch, để
khỏi bị tấn công sát hại.
Tuy
tránh giao tranh với địch song anh tiểu đội
trưởng gọi nhiệm vụ đó là 'phục
kích đêm' để phá vỡ đường dây liên
lạc của Việt Cộng.
Vào
đầu tháng tư năm 1975, tiểu đội di
chuyển đến một bờ ruộng. Tuy nói là
ẩn núp, ngụy trang, che dấu để tránh
sự quan sát của địch, song chúng tôi cũng
phải chia phiên ra canh gác cẩn mật. Khi phát
hiện địch, chúng tôi cố ư ẩn nấp
để tránh giao tranh và sáng hôm sau sẽ báo cáo
để thỉnh thị quyết định của
thượng cấp.
Nào
ngờ đêm hôm đó, cái đêm định
mệnh của đời tôi và cũng là một
đêm tận cùng của tên du kích Việt Cộng,
từ rừng núi ŕnh ṃ về thôn xóm để
nhận tiếp tế. Đêm hôm đó, chẳng may
hắn lơ đễnh thế nào mà đi lọt vào
ổ phục kích của chúng tôi. Lúc đó là phiên gác
của anh Cường nhưng anh ta ngủ gà ngủ
gật, mắt nhắm mắt mở, khi tỉnh
giấc anh thấy một bóng đen xuất hiện
quá gần chỗ anh đang gác. Giật ḿnh, anh Cường
nổ súng bắn một băng tiểu liên và tên du
kích ngă gục sau phát đạn khai hỏa đầu
tiên của anh ta.
Sáng hôm sau, chúng tôi lật xác tử thi địch
để nhận dạng và biết rơ tên du kích là
một người dân trong xă vừa thoát ly gia đ́nh
theo Việt Cộng, khoảng vài tháng trước.
Hắn ta theo du kích vào rừng và làm liên lạc viên
cho đám du kích.
Sau đó chúng tôi được lệnh mang xác anh du
kích về Xă để cho thân nhân anh ta nhận xác
về chôn cất.
Đây là một chiến thắng đầu tiên
kể từ ngày thành lập tiểu đội mang tên
'thám báo' của chúng tôi.
Lẽ dĩ nhiên một tiểu đội 'áo đen'
làm ǵ có phương tiện tải thương để
chuyên chở tử thi địch như các đơn
vị Chủ Lực Quân hay Địa Phương Quân.V́
thế, hôm ấy chúng tôi phải dùng 2 cây sào tre,
rồi lấy áo đi mưa cá nhân, kết hợp làm
băng ca, khiêng tử thi tên du kích về xă. Chúng tôi
thay phiên nhau, hai người một, kẻ trước
người sau, ́ ạch khiêng cái xác từ bờ
ruộng này đến bờ đê khác. Gần đến
trụ sở Xă, chúng tôi được lệnh
của anh trung đội trưởng cho đặt
tử thi trước trụ sở Xă.
Rủi ro cho tôi khi khiêng tử thi về gần đến
nơi, người bạn khiêng phía sau vừa bảo
tôi vừa thả buông băng ca xuống:
- Đặt xác nó tại đây đi!
Anh bạn vừa thả băng ca th́ trời bất
chợt đổ cơn mưa rào.
Tôi đem ḷng thương hại kẻ xấu số
nên cố nắm chặt hai cáng băng ca, lôi xác
tử thi vào thẳng trong chợ để xác
khỏi bị...mưa ướt.
Đó là ḷng nhân từ của bất cứ ai cũng
phải cư xử với người chết như
thế.
Tôi vừa đặt tử thi xuống, bất
ngờ một người đàn bà đập th́nh
thịch vào lưng tôi, nhục mạ, chửi rủa
om ṣm:
- "Cái quân trời đánh! Chồng tao đi thăm
ruộng về khuya. Bọn mày giết chồng
tao!!" rồi lôi xác xềnh xệch như lôi kéo
một con chó. "Trời ơi là trời!"
Tôi định giải thích nhưng nghĩ lại bà
ta cũng có cái đau khổ của người
vợ bị mất chồng, nên tôi đành cắn răng
chịu đựng, bỏ đi mà không cần
giải thích cặn kẽ cho bà ấy.
Một
tháng sau, tháng tư đen năm 1975, đổ sụp
về, tất cả các sĩ quan từ thiếu úy
trở lên phải tŕnh diện học tập cải
tạo tại các trại tập trung lao động
khổ sai.
Các anh em hạ sĩ quan, binh sĩ và Nghĩa Quân
được học tập tại địa phương
20 ngày th́ được cho về sinh hoạt với
gia đ́nh. Riêng tôi lại bị vợ của tên du
kích, nay là chủ tịch Ủy Ban Quân Quản kiêm
Ủy Viên Chính Trị Xă, ra lệnh chuyển tôi
từ địa phương ra trại cải tạo
Lam Sơn với tội danh: Thành phần ác ôn, nguy
hiểm, có nợ máu với nhân dân...
Những ngày đầu ở Lam Sơn, tôi cố t́m
các anh em nghĩa quân khác mà tôi quen biết. Tôi đă
không t́m thấy bất cứ ai, kể cả anh Cường,
người Nghĩa Quân đă bắn chết anh du kích.
Các ông trung đội trưởng, tiểu đội
trưởng, tôi cũng chẳng thấy ông nào.
Thậm chí ngay cả các anh 'linh áo đen' đă đi
phục kích đêm hôm đó, cũng chẳng có ai!
Tôi
bị phân bổ vào nhà H.22 gồm 50 thiếu úy,
chỉ có một ḿnh tôi là Nghĩa Quân Viên.
Những ngày đầu, các ông thiếu úy cũng quá
đỗi ngạc nhiên và hỏi tôi:
- Mày là thằng nghĩa quân quèn, sao lại tŕnh
diện vào đây để ngồi tù?! Ủa, mày
muốn t́nh nguyện học tập hả?
Có người th́ nói ôn tồn, thương hại.
Có ông th́ nh́n tôi ṣng sọc, gặng hỏi:
- Chứ bộ mày muốn mấy ổng trả
lại cấp bậc nghĩa quân quèn cho mày hay sao?
Tuy bị hạch hỏi nhưng lúc nào tôi cũng ôn
tồn, nhă nhặn trả lời:
- Dạ em đâu dám mơ ước như thế
đâu thiếu úy!
Dù sao đi nữa, đời tôi cũng đă thăng
hoa lắm rồi.
Ngày xưa, có bao giờ tôi được ăn chung,
ngủ chung với các vị sĩ quan trẻ nàyđâu.
Thiếu úy, ít ra các ông ấy cũng là trưởng
ban, trưởng pḥng, cuộc trưởng ... ǵ đó
trong chi khu, nên lúc nào tôi cũng kính nể, tôn
trọng các vị sĩ quan ấy.
Lao
động trong trại tù chừng gần hai
năm, các ông thiếu úy lần lượt ra về.
Tôi lại bị dồn vào ở tù chung với trung
úy và đại úy. Đời tôi sao được
thăng cấp nhanh quá. Không bao lâu, chúng tôi bị
chuyển ra trại Củng Sơn, Phú Yên. Khoảng 3
năm có rất nhiều trung úy và đại úy
lần lượt ra về. Trại lại nhốt
chung tôi với các ông thiếu tá mà ngày xưa tôi chưa
bao giờ dám xuất hiện gần các vị ấy
v́ các ông này ít ra cũng là các cấp chỉ huy
của đại úy Quận Trưởng kiêm Chi Khu Trưởng
của tôi.
Đời
tôi lại thăng hoa, thăng cấp nhanh như
chớp. Càng được sống gần các vị
thiếu tá, tôi càng kính phục họ nhiều hơn.
Các ông ấy hiền, đạo đức, xem tôi như
em út trong trại tù.
Sau đó, chúng tôi lại bị dời về A.30.
Ở tù hơn 5 năm, hầu hết ai ai cũng
được về đoàn tụ với gia đ́nh.
Cá nhân tôi lại được thăng cấp ở
chung với một đại tá và 12 người tù
chính trị khác mà trại gọi là ác ôn, có
nhiều nợ máu với nhân dân.
Đời tôi tuy thăng hoa, thăng cấp nhanh, nhưng
càng thăng bao nhiêu th́ ngày về lại càng xa tít mù
khơi bấy nhiêu. Tôi hết trông mong có ngày trở
về gặp lại vợ con.
À, mà tôi quên kể cho quư vị nghe về gia đ́nh,
sự nghiệp, thân thế của tôi...
Năm 18 tuổi tôi cũng đă lập gia đ́nh
với con Nại. Cô gái này nhà cũng nghèo, cũng
được phú hộ mướn chăn dê như
tôi. Cả hai chúng tôi thường xuyên gặp nhau
ở chỗ thả dê gặm cỏ. Không biết
trời xuôi đất khiến thế nào khi tôi gia
nhập 'quân áo đen' dưới 'cờ vàng ba
sọc đỏ' th́ Nại cũng vừa lớn, nó
mắc cỡ không chịu chăn dê nữa. Mẹ tôi
thấy nó siêng năng, hiền lành như búp măng
bụ bẫm nên mẹ tôi đem Nại về và nó
trở thành vợ tôi hồi nào tôi cũng chẳng
hay biết ǵ!
Vợ chồng quê rất đơn giản, khỏi
cần học những câu văn chương lăng
mạn để trao cho nhau làm ǵ cho mất th́
giờ.
Tôi cũng không nhớ rơ, cái đêm động pḥng
hoa chúc ấy ... ra làm sao..Tôi đă nói với Nại
những ǵ... âu yếm Nại như thế nào..nhưng
sáng ra, tôi thấy Nại nằm trọn trong ṿng tay tôi.
Tôi biết ngay, bây giờ tôi đă có vợ. Gần
một năm sau, Nại cho tôi hai đứa con trai
sinh đôi rất khoẻ mạnh. Một năm sau,
Nại lại sinh đôi nữa. Đứa con gái chăn
dê, nay là người mẹ 4 con. Hồi đó, 'quân
áo đen' không được hưởng phụ
cấp gia đ́nh như anh em Chủ Lực Quân và
Địa Phương Quân. Bản thân tôi, chỉ
được lănh lương 1.200 đồng mà
phải nuôi sáu miệng ăn. Khi tôi đi tù, Nại
một ḿnh nuôi cha mẹ già tôi và bốn đứa
con thật vất vả.
Suốt
thời gian tôi bị tù, Nại thăm nuôi tôi
được 3 lần: lần đầu khi tôi
mới bước chân vào trại Lam Sơn, lần
thứ nh́ tại trại A.30. Hồi đó, trại
cho tôi được ngủ đêm với Nại
trong nhà 'thăm nuôi" và Nại sinh thêm đứa
thứ năm. Lần thứ ba, khi được báo
có người nhà thăm nuôi, tôi vội vàng ra
cổng trại th́ được biết một
thảm kịch đă xảy ra lôi thôi cho gia đ́nh
tôi. Chiếc xe chở vợ của các tù nhân đi
thăm nuôi chồng bị lật và có hai người
chết, trong đó có Nại. Xác Nại v́ không có thân
nhân nhận nên địa phương nơi xảy
ra tai nạn đă chôn xác Nại ven rừng.
Và năm đứa con tôi đưọc một người
quen biết sinh sống cùng địa phương
của Nại cũng đi thăm nuôi chồng, mang giùm
mấy đứa nhỏ vào trại giao cho tôi.
Nại chết để lại 5 đứa con
với một ràng bánh trán, một ít mắm ruốc
kho...
Năm đứa con, ngồi khóc v́ không có mẹ, nên
trại cho tôi dẫn chúng vào trại để ở
tù chung với tôi. Đời tôi bắt đầu
rẽ một khúc quanh.
Nại chết, để lại hai đứa 7
tuổi, hai đứa 6 tuổi và một đứa
chưa đầy hai tuổi. Lúc đầu sáu cha con
tôi được anh em cùng tù giúp đỡ. Anh em
bớt phần ăn ít ỏi của chính ḿnh, chia
sớt cho tôi để nuôi năm đứa nhỏ.
Sau đó trại thấy bất tiện nên cho tôi
một cái lều tranh cũng trong khuôn viên của
trại tù và cấp ba tháng thực phẩm đầu
tiên để tôi tự túc nuôi con sau này.
Cảnh
gà trống nuôi
con. T́nh cảnh hụt hẫng. Thức ăn thiếu
thốn. Cuộc đời dở khóc dở cười.
Một thời gian sau, nỗi sầu cũng đă
lắng xuống nhiều, song h́nh ảnh của
Nại vẫn c̣n lắng đọng trong tâm trí tôi.
Ngày ngày tôi cuốc đất trồng khoai, trồng
ḿ. Ba đứa con đầu cũng lẳng lặng
theo sau tôi để phụ giúp công việc lắt
nhắt. C̣n lại một đứa sáu tuổi
ở nhà trông em hai tuổi. Tối đến tôi
bắt các con đi ngủ sớm. Tôi đă mất
hẳn sự trầm tĩnh và muốn bỏ
cuộc. Ban đêm, năm đứa co rúm lại trong
một cái mềm rách trùm kín đầu ở một
xó lều như muốn tránh những âm thanh dị
kỳ, thét gào của gió mưa bên ngoài. Tuy làm
lụng rất vất vả nhưng hoa màu thu
hoạch cũng không đủ ăn. Thỉnh
thoảng vào ban đêm, tôi dẫn con Thanh đi đào
ḿ và hái bắp trộm của trại về cho
bầy con ăn thêm để tránh cái đói đang
hành hạ chúng.
Nào
ngờ một đêm, tôi giật ḿnh thức giấc
th́ thấy vắng mặt con Thanh -đứa con gái
đầu ḷng mà thỉnh thoảng tôi dắt nó
đi hái trộm bắp.
Tôi nh́n ra ngoài, bầu trời đen nnư mực. Mưa
gió đang gào thét...
Tôi nghi ngờ là con Thanh đang đi bẻ bắp
trộm. Tôi vội vă lách mưa đi t́m Thanh.
Sau một hồi t́m kiếm khắp các ruộng
bắp, tôi cũng chẳng thấy nó ở đâu.
Trời tối thui như mực. Mưa rơi xào
xạc, át hẳn tiếng kêu của tôi: "Thanh!
Thanh! Con ở đâu?" Nhưng tiếng kêu của
tôi bị mưa gào, gió cuốn mất hút trong không
gian vô tận. Một chặp lâu sau, tôi nghĩ
chắc giờ này con Thanh cũng đă về nhà
rồi nên tôi trở về. Quần áo xài xạc, nhưng
con Thanh vẫn chưa về nhà.
Đánh thức bốn đứa con, tôi gặng
hỏi, mắng chửi cho một mẻ nhưng các
con chỉ ngơ ngác không biết chuyện ǵ đang
xảy ra.
Tôi bảo các con đi ngủ tiếp và một ḿnh
ngồi chờ con Thanh về.
Một chặp lâu sau, tôi nghe tiếng súng bắn inh
tai...Không biết chuyện ǵ đă xảy ra th́
khoảng nửa giờ sau, có tiếng la hét, hối
hả của các ông cán bộ đang đứng
giữa nhà.
- Đêm hôm khuya khoắt mà mày sai con đi bẻ
trộm bắp... Anh em công an đi tuần tra, tưởng
nhầm con mày là tù trốn trại nên đă bắn
chết nó rồi... Khẩn trương theo tụi tao
nhận xác nó về.
Điếng cả người, ruột gan tôi rối
bời. Rụng rời tay chân, tôi vội chạy theo
họ. Đến nơi, tôi thấy con Thanh nằm
chết thê thảm bên vũng máu. Quanh bụng nó
cột một sợi giây và nhét quanh ḿnh chừng mười
trái bắp và hai củ khoai ḿ mà nó vừa mới
nhổ. Trong môi miệng nó c̣n đang nhai mấy
hột bắp non. Do đó, tôi biết ban đêm v́
đói, con Thanh ngủ không được nên lén tôi
đi bẻ bắp về cho các em nhai, không ngờ
bị bắn chết thê thảm như vậy.
Sáng hôm sau, tôi chôn Thanh mà ḷng buồn rũ rượi.
Tôi không c̣n một chỗ nào trong tâm trí để căm
thù. Ngôi mộ của Thanh nằm ngay trong mảnh
đất do cha con tôi khai phá. Ba ngày sau, tôi cúng
mở cửa mả cho Thanh bằng hai trái bắp và
hai củ khoai ḿ đă đổi sinh mạng của nó.
Suốt đời Thanh là một chuỗi ngày dài
bất hạnh v́ thiếu t́nh thương của cha,
trong đói nghèo cơ cực của mẹ, và
chết trong đói khát của cảnh tù đày mà
trẻ thơ mới có bảy tuổi đă phải
nằm tù, gỡ lịch từng ngày với cha. Thanh
chỉ mong được ăn no, mặc cho đủ
ấm, nhưng hoàn cảnh xă hội đă hất
hủi, không thương yêu nó.
Ngay cả trước 1975, vợ con của anh em lính
Chủ Lực Quân và Địa Phương Quân
được lănh phụ cấp gia đ́nh, nên
vợ con lính ai ai cũng đủ cơm ăn, áo
mặc. C̣n vợ con của 'quân áo đen' th́ đi
chân đất, đầu trần, quần áo tả tơi
không một cấp lănh đạo nào thèm quan tâm
đến.
Hồi đó, anh em Nghĩa Quân chúng tôi cũng
thuộc Q.L.V.N.C.H mà! Sao lại phân biệt đối
xử với anh em chúng tôi như thế?!
Sau 1975, tôi cũng bị ghép vào 'ngụy quân', cũng
bị tù, bị hành hạ như các anh em khác. Sao các
ông 'đỉnh cao của nhân loại' không biết phân
biệt hành xử để ‘quân áo đen' như tôi
không bị dẫn con vào trại tù và bị chết
thảm như vậy?!
Bảy ngày sau, đúng vào 'thất thứ nhất', vào
khoảng một giờ khuya, khi tôi đang ngồi
buồn và nghĩ đến hoàn cảnh của gia
đ́nh và cái chết thê thảm của con Thanh ...
Mưa đang rơi từng giọt như tiếng ai
đang rên rỉ và sau đó tôi nghe tiếng khóc
của con Thanh. Tiếng khóc uất nghẹn, năo
nuột. Tôi mở cánh cửa sổ bằng liếp
tre nh́n ra ngoài. Mưa càng lúc càng to. Gió thổi ào
ạt. Dưới gốc một thân cây chồi, ngay
chỗ chôn con Thanh, một vệt trắng hiện lên...Tôi
toát mồ hôi, tay chân lạnh ngắt. Tôi cố nh́n
kỹ th́ ra đó là h́nh dáng của con Thanh. Nó đang
đứng trước mộ, khóc sướt mướt.
Quanh lưng cũng đang buột một sợi dây và
treo ṭn ten vài trái bắp như lúc tôi nhận xác nó
về. Tôi mất b́nh tĩnh và khóc nấc lên
từng cơn. Có bàn tay ai đó đang bám vào vai tôi.
Con Nhàn, đứa con gái sanh đôi với con Thanh, hai
chị em giống như hai giọt nước. Con Nhàn
đă đứng sau lưng tôi tự hồi nào. Nó
khóc ấm a ấm ức thật to tiếng. Tất
cả các con tôi đều thức dậy đang
ở chung quanh tôi. Ngoài trời đang mưa. Con Thanh
vẫn c̣n đứng đó, nó khóc ngậm ngùi. Tôi
hoảng hốt vừa nói với các con tôi :"Để
cha ra bồng con Thanh vào nhà" tôi vừa đẩy
tấm liếp; con Nhàn cũng chạy theo.
Nhưng khi ra đến mả th́ h́nh dáng con Thanh không
c̣n nữa. Tôi ngơ ngác không biết chuyện ǵ
đă xảy ra nhưng tôi vẫn c̣n b́nh tĩnh và
biết ngay rằng con Thanh đang bị chết oan,
chết lạnh và chết đói trong nỗi oan
ức mà linh hồn của nó cũng chẳng có nơi
nương tựa. Không biết nghĩ sao tôi vừa
khóc ừa vái trước mộ nó: "Ba đưa
con vào nhà. Ba sẽ luộc bắp cho con ăn."
Sau đó tôi bồng con Nhàn vào nhà như thể tôi
đă bồng con Thanh.
Vào nhà, tôi lấy một miếng gỗ nhỏ,
tựa vào vách, rồi dùng bốn thanh tre, chôn dưới
đất làm bốn chân bàn để làm tạm bàn
thờ cho con Thanh.
Trong khi đó, con Nhàn nổi lửa luộc hai trái
bắp đẹt làm thức ăn cúng cho con Thanh.
Tôi thấy trên bàn không có nước, tôi bảo con
Nhàn lấy ly rót nước cúng con Thanh.
Nhàn đi qua đi lại trong cái nhà tranh như đang
t́m kiếm vật ǵ? Sau đó nó lấy một cái gáo
dừa đưa lên hỏi tôi: "Ba ơi! Nhà không
có ly, ḿnh dùng cái chén này rót nước cúng chị
Thanh được không ba?"
Nước mắt lưng tṛng, tôi khẽ gật
đầu.
Thế cũng xong, cũng qua một tuần cúng vái. Các
em của Thanh vừa lạy vừa khóc nức nở
với tất cả ḷng yêu thương người
chị.
Tôi nhớ ra. Từ ngày vợ tôi đi thăm nuôi,
xe bị lật chết. Nại chết tức tưởi
để lại năm đứa con cho tôi. Kể
từ ngày ấy đến giờ tôi cũng chưa
có cơ hội lập một cái bàn thờ cho
Nại. Tôi vội t́m trong mớ giấy tờ có cái
chứng minh nhân dân của Nại. Tôi trang trọng
vuốt h́nh vợ ḿnh trong Chứng Minh Nhân Dân;
rồi nhẹ nhàng đặt h́nh của Nại lên
miếng gỗ mỏng làm bàn thờ. Tôi thờ chung
hai mẹ con Nại và Thanh trên một manh gỗ
mỏng của thời phồn vinh giả tạo c̣n sót
lại.
Từ hôm đó, Thanh cũng không về khóc nữa. Nó
cũng biết an phận trong cảnh lưu đày
của một chế độ mà người bốc
lột người... Thỉnh thoảng tôi vẫn có
những đêm ác mộng: "Nại bị chết
kẹt dưới những đống hàng chồng
chất, máu me lênh láng c̣n Thanh th́ đang nằm sóng
soài trên một vũng máu mà miệng vẫn c̣n nhai
ngấu nghiến chưa nuốt xong mấy hạt
bắp sống.."
Duy Xuyên |