Trường Thi Lục Bát “Kinh Vô Thường” của Vơ Thạnh Văn Vương Trùng Dương |
Trường thi lục bát “Kinh Vô Thường” của Phù Hư Dật Sĩ Vơ Thạnh Văn với 2500 đoạn, mỗi đoạn 4 câu, gồm hai quyển, dày 1560 trang, nhà xuất bản Hồng Đức ấn hành năm 2016. Quyển Thượng dày 884 trang, có 1250 đoạn cùng Lời Tựa của Cung Tích Biền, Lời Bạt của Hà Thượng Nhân, Duy Văn, Nhị Thu, Ngô Đức Diễm, Lâm Vân, Thinh Quang, Nguyễn Quang, Cao Phương Kỷ. Lời B́nh của Ngô Nguyên Diễm. Cảm Tác qua các bài thơ sau khi đọc “Kinh Vô Thường” với Hà Thượng Nhân, Hải Phương, Cung Diễm, Nguyễn Đức Đệ, Thiên Hà, Cao Mỵ Nhân và các bài viết của Vơ Công Liêm, Ngô Xuân Hậu, Cao Mỵ Nhân. Ngoài ra c̣n có những ḍng thơ cảm tác của các thi hữu. Quyển Hạ dày 676 trang, ngoài phần Cảm Tác & Cảm Tưởng viết thêm của Hà Thượng Nhân, Cao Mỵ Nhân, Cung Diễm, có Thanh Thanh và Tŕnh Ngọc Lan. Lời Bạt của Trần Tuấn Kiệt, Nguyễn Liệu, Diên Nghị, Độ Ngạn, Nguyễn Đăng Trúc. Trong trường thi lục bát nầy tác giả chia thành 10 chương Cát Bụi, mỗi chương có 250 đoạn. Đây là trường thi dài và dày nhất trong thi ca Việt Nam. Theo
lời tác giả: “Kinh Vô Thường là một
lời kêu thương bi thống của một
kiếp nhân sinh bi lụy trong cơi trần ai. Đó là
lời ca cùng tột bi tráng chứa đựng ngậm
nùi chất ngất đau thương của những tâm
hồn vươn lên từ nỗi bi thiết thường
hằng”. Về h́nh thức, tŕnh bày rất trang nhă, thoáng. Và, ngoài sở trường của nhà văn, Cung Tích Biền đảm trách công việc nầy, tôi nói đùa với anh “lấn chiếm nghề của tôi” v́ tôi không ngờ khi giở từng trang được layout trong tác phẩm dày cộm như vậy. Quê
hương của núi Ấn sông Trà với những nhà
thơ nỗi tiếng như Bích Kê, Tế Hanh,
Nguyễn Vỹ… đă góp mặt trên thi đàn
Việt Nam. Điều rất thú vị qua Lời
Tựa của Cung Tích Biền cho biết Vơ Thạnh Văn
xuất thân trên mảnh đất nầy và “Vơ
Thạnh Văn là một Ki-tô-hữu, được
hun đúc trong/ và thừa hưởng nên giáo dục
nhị nguyên của kinh điển Ki-tô-giáo. Lại
một người khá thông tuệ Phật giáo, như
từ Cửa Phật. Tĩnh lại một thiền
giả…”, “Anh được cái mầm ân sủng
của miền kỳ vĩ núi Ấn sông Trà, thừa hưởng
từ Vô, lẫn Hữu h́nh ấy, từ cái ‘đục-trong
rạch ṛi’. Mang cái trong vắt tâm linh trí tuệ
đi cùng cái khí hậu nhân gian đục ngầu
đương nhiên phải đục, bản thể
của tục lụy. Tất cả, từ ngọn
cỏ Quê Nhà đến h́nh tượng Thần Tự
Do nơi xứ sở thứ hai anh đang tạm dung / cư
ngụ, đă tụ gom. H́nh thành một thi sĩ Vơ
Thạnh Văn hôm nay”. Đoạn 001 khởi đầu: “phận ta hạt bụi mê lầm trong cơn say tĩnh gọi thầm giai nhân lạc nhau cát bụi bần thần gác khuya trở giấc gieo vần ngả nghiêng” Đoạn 2500 kết thúc: “thiên thu một nắm tro đời vần - xoay - dịch - chuyển - đổi - dời - hoại - sinh sắc - không - chân - giả - bóng - h́nh cát:
ân thiên hựu - bụi: t́nh khởi nguyên”. Tứ bốn câu khởi đầu đến bốn câu kết thúc cũng càm nhận được ư nghĩa mười ngàn câu với cuộc sống “vô thường” trong cơi đời. Trong trường thi lục bát nầy tác giả chia thành 10 chương, mỗi chương có 250 đoạn. Trong
Bát Nhă Tâm Kinh của Phật Giáo có câu: “Sắc
bất dị không, không bất dị sắc” nói lên
ư nghĩa sắc chẳng khác không, không chẳng khác
sắc. Chữ “Sắc” trong đạo
Phật dùng để chỉ vật chất và
những ǵ có h́nh tướng màu sắc. Chữ “Không”
trong đạo Phật là “Chơn Không Diệu
Hữu”. Như vậy, sắc tức thị không
là nói đến thật tướng của vạn pháp
và đấy chính là vô tướng, cái tướng không
của vạn pháp. Nó vô thường, tất cả cũng
do nhân duyên tạm bợ nương gá nhau mà thành.
Hết duyên th́ tan ră rồi trở về với cát
bụi hư vô. Không có ǵ là tự thân riêng biệt
của chính nó cả. Đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp tại chùa Điều Ngự ngày 20 tháng 6 năm 2016, Ngài giảng: “Tính không là ǵ? Sắc tức thị không; không tức thị sắc. Nếu chúng ta suy xét và phân tích kỹ càng về sắc, chúng ta sẽ không thể thấy bất cứ thứ ǵ tồn tại một cách cố hữu cả. Mọi thứ đều tồn tại trong mối liên hệ với sự vật khác. Sắc tướng và tính không đều có sự tương tác lẫn nhau”. Là
một tín hữu Ki-tô-giáo mà tác giả Vơ Thạnh Văn
đă “ngộ” được triết lư cao siêu
của Phật Giáo để trang trải qua mười
ngh́n câu thơ lục bát quả là một công tŕnh sáng
tác tuyệt vời. Chẳng hạn “quay đầu
đă ngộ bến xưa, phá thuyền chợt
thấy sóng lưa thưa dồn” (câu 1501-1502). Hai
chữ lưa thưa để chỉ mái tóc, nhà
cửa… nhưng lại dùng cho cho sóng nước lúc
hiền ḥa. Nhưng khi nổi cơn thịnh nộ th́
“nửa cơn hồng thủy ập về, phận
thuyền luân lạc – phận bèo giạt trôi” (câu
2257-2258). Con người cũng vậy, lúc hiền ḥa
th́ vỗ về, lúc thịnh nộ th́ gây tai họa! V́
vậy, trong cơi trần ai nầy chỉ là cơi tạm,
sống với cái t́nh, cái tâm để rồi khi
trở thành cát bụi “mai sau gặp cơi vĩnh
hằng, mời nhau uống chén trà sen ướp
quỳnh” (câu 2417-2418). Trước khi tác giả in thành tác phẩm, trường thi “Kinh Vô Thường” đă gởi đến quư văn hữu để đóng góp cảm nhận. Xin trích: Ngô Đức Diễm với lời kết: “Rốt cuộc, tất cả là hư không. Chỉ có t́nh là vĩnh cửu, là thường hằng. Nhưng t́nh lại chính là Thơ, nên Thơ phải viết bằng chữ hoa. Thơ là thường hằng vĩnh cửu, và đó chính là nụ hoa tô điểm cuộc đời. Thơ là Kinh vậy”. Theo
Cao Phương Kỷ: “Đọc Kinh Vô Thường
hơn môt vạn câu thơ, vừa ngậm ngùi, vừa
réo rắt, vừa hoan lạc, trong một kiếp nhân
sinh đa lụy của thân phận làm người…
Khởi đi từ kiếp sống “cát bụi vô thường”
để vượt lên cơi “thường hằng
bất biến”, thi nhân đă rút ra được
những ḍng triết lư ứng dụng tực tiễn.
Khởi từ cuộc đời “hư vô tương
đối” ở cơi trần để t́m về cơi
“hư vô tuyệt đối” (Absolute Nothingness)
tức “Diệu Hữu Chân Không”, thi nhân dường
như đă gần đạt đến cùng đích
của kiếp phù sinh tạm bợ nầy”. “Chân không diệu hữu” hay “diệu hữu chân không” mang triết lư của Từ Đạo Hạnh (1072-1116) vị thiền sư người Việt Nam thời nhà Lư, dân gian gọi là đức thánh Láng. Bài thơ Hữu không của Ngài: “Tạc hữu trần sa hữu, Vi không nhất thiết không. Hữu, không như thuỷ nguyệt, Vật trước hữu không không”. Dịch nghĩa (Bảo là có, th́ nhỏ nhoi như hạt bụi cũng có Bảo là không, th́ tất cả trên thế gian đều không Có và không như ánh trăng dưới nước Đừng
có bám hẳn vào cái có cũng đừng cho cái không là
không). Theo Trần Tuấn Kiệt: “Thế là trong cát bụi, nhà thơ không chỉ có suy diễn trầm tư về sự vô thường mà c̣n mở ra một chân trời phóng khoáng lăng mạn và đầy chân tính với một h́nh bóng giai nhân nào đó hoặc là ảo ảnh từ cát bụi mà ra, hoặc là huyền nhiệm vô song đối với cái hiện sinh đầy hư ảo của cuộc đời”. Với
Diên Nghị nhận xét: “Ḍng thơ lục bát thanh
tao, dịu dàng, uyển chuyển, vốn bắt
nguồn từ ca dao dân tộc, một h́nh thái văn
chương Việt Nam đặc thù, tồn tại lâu
dài và dự phóng phồn phú mai sau, như là nền
tảng căn bản của sangg1 tạo thi ca, kết
âm từ và điệu. Mười ngàn câu lục bát
của Vơ Thạnh Văn trong Kinh Vô Thường đă
vận dụng, diễn đạt, phóng chiếu
lấp lánh hào quang lên cơi tịch lặng uyên nguyên
của Đức Phật, khai ngộ chính ḿnh và đến
nơi an vị Đạo, dưới gốc bồ
đề”. V́ sao tác giả không để “Thơ Vô Thường” mà “Kinh Vô Thường” trong Lời Bạt của Nguyễn Đăng Trúc cho rằng: “Khi nói đến Kinh và Thi Ca, văn hóa vùng Đông Nam Á một mặt tôn vinh Kinh là Nguồn của Đạo làm người, mặt khác gọi Thi Ca là Nguồn của các Kinh. “Hưng ư Thi”: Thi ca là thần lực đem lại sức sống và lương tực nuôi dưỡng, nhân tính, là cảm hứng cho lời nói chân thật của con người”. Tóm
lại, với trường thi lục bát “Kinh Bô Thường”
của Vơ Thạnh Văn, với chủ ư của tác
giả chia thành 10 chương, mỗi chương
với 250 đoạn, mỗi đoạn có 4 câu.
Với mười ngh́n câu thơ lục bát, không
phải là cốt chuyện mà khi đọc mỗi
đoạn cũng cảm nhận được ư nghĩa
của nó gói ghém về nhân sinh quan trong cuộc đời. Mượn lời kết của Chu Vương Miện khi giới thiệu về trường thi nầy đă viết: “Ôi! Phù Hư Dật Sĩ Vơ Thạnh Văn, người bạn trẻ vong niên của tôi, nguyên quán xă Tịnh Minh, tức “Ba Gia" Sơn Tịnh, Quảng Ngăi. Giữa cuộc đời lưu lạc tha phương,tạm dung xứ người, mà thi nhân đă trứ tác được những bộ trường thiên thi như Kinh Vô Thường (và Kinh Vô Tự, Đoạn Trường Hư Thanh), thuộc loại những thi phẩm đồ sộ để đời, đáng ngợi ca, đáng biểu dương, đáng bái phục. Thiết nghĩ, những tác phẩm nầy không c̣n riêng của tác giả, mà là của chung, đáng trân quư và giữ ǵn”. Little Saigon, March 2017 Vương Trùng Dương |