Đại
học luật khoa trong hệ thống giáo dục
Miền Nam trước 1975
Nguyễn Tường Tâm |
(Trích có
bổ sung trong tập san Hội Ngộ Mùa Thu Luật
Khoa Kỳ X 28-9-2019 tại San Jose Hoa Kỳ) Đỗ tú
tài toàn phần năm 1964, cử nhân luật năm
1974, trở lại trường đại học
tại Hoa Kỳ năm 1993, có lẽ đó là điển
h́nh cuộc đời một số không ít sinh viên
miền Nam Việt Nam Cộng Ḥa của thế hệ tôi,
ch́m ngập trong chiến tranh. Mặc dù là
thời chiến, nhưng nền giáo dục tiểu,
trung và đại học của miền Nam cũng
vẫn rất nghiêm chỉnh, đâu ra đó. Và c̣n
một điểm nữa quan trọng nhất là hoàn toàn
miễn phí ở cấp tiểu và trung học và
học phí hầu như không đáng kể ở
bậc đại học. Bởi thế tôi là một
sinh viên đôi lúc vô gia cư theo đúng nghĩa đen,
và thất nghiệp, nhưng vẫn theo đuổi
việc học đại học một cách liên
tục và thoải mái. Thực sự ra sinh viên thất
nghiệp chỉ v́ muốn thất nghiệp thôi
chứ đă là sinh viên th́ thiếu ǵ việc làm;
việc dễ nhất là nạp đơn vào Bộ Giáo
Dục xin đi dậy cấp 2, như thế cũng
được xă hội trọng vọng gọi là
“thầy”. Việc ghi tên học đại học
rất dễ dàng đối với ba phân khoa khoa
học, văn khoa và luật khoa. Các phân khoa khác như
Y, Nha, Dược, Kỹ sư Phú Thọ, Kỹ sư Nông
Lâm, Đại học sư phạm và Quốc gia hành
chánh th́ phải thi tuyển, v́ khi ra trường
chắc chắn có việc làm nên tuyển sinh ít. Nhưng
thi rất công bằng và không có diện nào được
điểm ưu tiên hay điểm khuyến khích. Vào năm
1964 của tôi, thi tú tài 2 (tương đương
tốt nghiệp trung học phổ thông bây giờ)
chỉ đỗ có 12% mà đă bị coi là quá dễ
so với mấy niên học trước đó. V́
vậy sau khi đỗ tú tài lên sinh viên là được
xă hội quí trọng. Mỗi khi đi đường,
khi bị cảnh sát hỏi giấy tờ, đưa
thẻ sinh viên ra là có thể được đi ngay,
trừ khi họ cần xét hỏi thêm vấn đề
ǵ khác, thí dụ vấn đề quân dịch
chẳng hạn. Các học sinh đều b́nh đẳng
như nhau, không ai được điểm ưu tiên
như bây giờ. Không phân biệt con ông lớn hay con
ông bé, con quân nhân, công chức hay con của những người
đă tập kết ra bắc hoặc ra bưng theo
Việt cộng. Chính v́ vậy mới có những người
tập kết hoặc từ bưng biền trở
về thành phố sau 30-4-1975 thấy các người con
của ḿnh được nhà nước VNCH mà họ
gọi là ngụy cho ăn học đầy đủ,
thậm chí c̣n được cho đi du học nếu
học giỏi. Ngay cả
khi tới tuổi nhập ngũ cũng vẫn
được hưởng qui chế b́nh đẳng
với các người khác nghĩa là có tú tài 1
trở lên (lớp 12) khi nhập ngũ sẽ được
mang quân hàm sĩ quan và được thăng cấp
theo qui chế giống như mọi người khác. Ví
dụ rơ nhất là hai sĩ quan nổi tiếng của
miền Nam là nhà văn, đại úy nhẩy dù Phan
Nhật Nam, có cha tập kết và Lư Tống, người
phi công và cũng là người tù CS huyền thoại
của miền Nam có anh tập kết nhưng đều
được đi học văn hóa và nhập ngũ,
thăng cấp b́nh đẳng như mọi thanh niên khác.
Nếu ở trường hợp ngược lại, th́
hai người này ở miền Bắc chỉ có đi
cầy trên núi rừng biên giới như bao gia đ́nh
cùng hoàn cảnh sau 1954 trên đất Bắc. Các cô
thầy giáo dậy trong lớp có con em ḿnh cũng
giống như dậy những học tṛ khác. Tất
cả các điểm học đều được
chấm theo khả năng, không hề có chuyện thiên
vị con cô, con thầy hay con đồng nghiệp so
với các học sinh khác trong lớp. Tất cả các
kỳ thi tú tài 1 hay tú tài 2 đều được
tổ chức qui củ, công bằng, minh bạch,
chẳng bao giờ có đề sai, hay chạy điểm.
Thời buổi đó trên lănh vực giáo dục
hầu như ai cũng có nhân cách. Bằng cấp là
giấy chứng nhận mức độ kiến
thức thực sự, không như bây giờ có cả
bằng tiến sĩ chạy điểm. Bởi
thế sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông,
người sinh viên có thể nạp đơn xin làm
giáo viên chính thức cấp 2 (trung học đệ
nhất cấp) trường công và có đủ
khả năng và tư cách để làm thầy mà
chẳng cần phải qua một lớp sư phạm
hay lớp huấn luyện đặc biệt nào.
Thật là quái lạ tại sao ngày nay việc dậy
học của các cô thầy mặc dù đă tốt
nghiệp đại học sư phạm mà vẫn thường
xuyên va vấp về kiến thức cũng như phương
pháp giảng dậy. Sau khi đỗ
tú tài 2, tôi lên đại học Đà Lạt học
lớp toán lư đại cương (MGP: mathematic general
and physics). Đây là lớp dự bị cử nhân toán
và cũng là chứng chỉ khó nhất trong các
chứng chỉ thuộc phân khoa đại học khoa
học, ít người dám theo học. Trong lớp tôi
chỉ có 7 sinh viên, trong khi phân khoa chính trị kinh doanh
có 2000 sinh viên. Mặc dù chỉ có 7 sinh viên trong đó
có mấy sinh viên đă học mấy năm mà chưa
đỗ nhưng cuối năm cũng chỉ đỗ
có 1 sinh viên và người này cũng đă bị
bầm dập 2, 3 năm ở cái lớp dự bị này.
Nhưng nếu đă đỗ được chứng
chỉ dự bị này th́ kể như sẽ đủ
khả năng để đỗ mấy chứng
chỉ kế tiếp để hoàn thành văn bằng
cử nhân giáo khoa toán. Học cử nhân toán là
phải có một đam mê toán, suốt ngày chú tâm vào
toán, suốt ngày làm bài tập và không c̣n sinh hoạt
ǵ khác, do đó sau khi thi trượt cuối năm,
mặc dù Linh Mục viện trưởng khuyên tôi
tiếp tục ở lại học phân khoa khác và
vẫn tiếp tục cho tôi học bổng, nhưng tôi
cám ơn Linh mục và bỏ học bổng của
Đại học Đà Lạt để về Saigon
học môn khác. Khi đă
bỏ phân khoa khoa học th́ chỉ c̣n 2 phân khoa là văn
khoa và luật khoa. Tốt nghiệp cử nhân Văn
khoa th́ chỉ có đi dậy học các môn văn,
sử, địa, hay triết. Nếu là cựu học
sinh trường Tây để có khả năng nói
tiếng Pháp như gió th́ có cơ hội thi vào
ngạch tham vụ ngoại giao để đi làm
ở các ṭa đại sứ ở ngoại quốc. Tôi
là dân học sinh trường Việt (Chu Văn An) nên
tiếng Anh và Pháp không đủ khả năng để
mơ vào ngành đó. Trong khi đó học luật có
nhiều cơ hội làm việc và thăng tiến hơn.
Với bằng cử nhân luật có thể làm luật
sư, chánh án, biện lư (Viện Kiểm Sát bây
giờ), công chức hạng A, là ngạch cao nhất
trong hệ thống công chức ở các bộ kinh
tế, tài chánh, hay ngân hàng, chưa kể có khi
“gặp thời” lại có thể làm chính khách (!). Do đó tôi
chọn ghi danh học luật. Bỏ học bổng,
về Saigon chưa có việc làm, nhà cửa cũng không,
tôi tới trụ sở Tổng hội Sinh viên số 4
đường Duy Tân (bây giờ là nhà Văn Hóa Thanh
Niên TP số 4 Phạm Ngọc Thạch), trú ngụ trong
một pḥng tập trung khá đông sinh viên tạm dùng
chữ “lang bạt” thuộc nhiều phân khoa. Dĩ
nhiên mọi pḥng ốc của trụ sở đều
dành cho tất cả mọi sinh viên, nhưng căn pḥng
tôi ở tập trung đa số sinh viên trong nhóm chúng
tôi hơn. Trụ sở sinh viên này trước kia là
trụ sở chơi Bun của người Pháp. Sau khi
quân đội đảo chánh lật đổ
tổng thống Diệm, các tướng lănh hỏi
sinh viên muốn ǵ th́ ban đại diện tổng
hội sinh viên thời đó mà anh Lê Hữu Bôi làm
chủ tịch cho biết muốn có trụ sở sinh
viên tại đó. Thế là
sinh viên Saigon có trụ sở để hoàn toàn tự
do muốn làm ǵ th́ làm, muốn học hành, tổ
chức văn nghệ, hội họp v…v chẳng
bị ai kiểm soát, chỉ đạo. Điện nước
được cung cấp miễn phí suốt ngày.
Trụ sở lại có một ông lao công phụ trách
dọn dẹp. Gia đ́nh ông này được ở
trong một căn nhà trong khuôn viên nên được
lợi nữa là mở quán bán hàng ăn uống, cà phê
cho sinh viên. Mỗi sáng sinh viên hay tụ tập tại
đây ăn sáng. Trong số sinh viên thời đó có
nhiều sinh viên nổi tiếng như Trần Lam Giang
(văn khoa, hiện ở Sacramento, Hoa Kỳ), Dương
Cự (luật khoa, qua đời tại VN) v…v Tất
cả các sinh viên tại đó đều trước
sau tốt nghiệp đại học, đảm
nhiệm nhiều chức vụ trong quân đội hay hành
chánh miền Nam và hiện nay nhiều người đă
tiếp tục thành công tại Hoa Kỳ, đặc
biệt là giới bác sĩ. Chính
tại trụ sở của Tổng hội Sinh Viên này
mà Trịnh Công Sơn lần đầu tiên được
Tổng hội giới thiệu trước công chúng
sinh viên với tập Ca Khúc Da Vàng. Mọi người
đứng chật gian pḥng trong ánh đèn mờ
mờ bị cuốn hút một cách ngạc nhiên
lời ca và lối tŕnh diễn đơn giản, du ca
của nhạc sĩ họ Trịnh. Tôi đỗ năm
thứ nhất đại học luật khoa Saigon niên
khóa 1965-66. Mặc dù từ trụ sở Tổng
hội sinh viên số 4 Duy Tân rất gần trường,
đi bộ qua một block đường là tới, nhưng
tôi chỉ tới trường dường như vài
lần v́ sinh viên trong lớp quá đông, muốn có
ghế phải nhờ bạn tới sớm giữ
chỗ trước. V́ được ghi tên tự do nên
năm thứ nhất thường đông nhất. Năm
đó dường như trên dưới 10 ngàn sinh viên
(?). Nhưng
cuối năm số ghi tên đi thi chắc chắn ít
hơn nhiều. Dĩ nhiên đa số sinh viên đă
đi làm hoặc ở xa không thể tới trường.
May mắn là trong lớp có một số sinh viên
chịu khó ghi chép chăm chỉ lời giảng
của thầy, tŕnh thầy duyệt và điều
chỉnh rồi quay roneo bán lại cho sinh viên, giá
rất rẻ, cho nên các sinh viên không tới trường
vẫn có đủ bài học. Cũng nên nói thêm, trong
đại học VN XHCN ngày nay, người sinh viên
bị đối xử như trẻ vị thành niên,
bị điểm danh, theo dơi mọi sinh hoạt từ
học tập tới đời sống riêng tư ngoài
đại học và bị đánh giá hạnh kiểm
để cho kết quả học tập. Trái
lại, Đại học miền Nam là Đại
học Tự Trị, và chỉ là nơi giao giảng
kiến thức chứ không có một nhiệm vụ ǵ
khác đối với sinh viên, cho nên người sinh viên
được đối xử như những con người
trưởng thành, b́nh đẳng, tự do, và ham
học hỏi. Họ tới trường nghe các giáo sư
giao giảng kiến thức mà thôi, ngoài ra họ không
lệ thuộc các giáo sư và viện trưởng hay
hội đồng trường trên bất cứ lănh
vực nào. Các giáo sư cũng chỉ lo một
việc duy nhất là giao giảng kiến thức và
đánh giá kiến thức của sinh viên một cách
tự do, độc lập, và công bằng, không bị
một áp lực bởi bất cứ từ đâu.
Với nguyên tắc Đại học tự trị như
vậy nên mặc dù là sinh viên học từ xa nhưng
trong vấn đề học tập và thi cử hoàn toàn
giống với tất cả mọi sinh viên khác. Điều
này khác xa với các hệ học tại chức, chuyên
tu của Xă hội chủ nghĩa là hai hệ học
tập được ưu đăi nâng điểm và
nhiều ưu đăi khác giúp giảm nhẹ kiến
thức rất nhiều so với hệ chính qui. Bắt
đầu từ năm nay, 2019, luật giáo dục
mới lại qui định trong văn bằng cử
nhân không ghi rơ hệ đào tạo, có nghĩa là anh
dốt (chuyên tư hay tại chức) với anh
được đào tạo chính qui cũng lẫn
lộn như nhau. Đúng là nền giáo dục “vàng
thau lẫn lộn”. Tôi ghi danh
trường luật Saigon năm 1965 với chương
tŕnh cử nhân 3 năm. Năm 1966 sau khi đỗ năm
thứ nhất tôi phải đi dậy học xa, không
tiếp tục học được. Mỗi năm có
hai kỳ thi, đầu hè và cuối hè. Mặc dù
số sinh viên năm thứ nhất rất đông nhưng
trong kỳ thi đầu hè chỉ có 200 sinh viên đỗ
thi viết. Sau khi vào vấn đáp chỉ đỗ
được 100. Như vậy cứ cho là kỳ
cuối hè sẽ có thêm 100 sinh viên nữa th́ tổng
cộng lên năm thứ 2 chỉ có khoảng 200 sinh viên
là tối đa. Sau hai năm nữa mài đũng
quần trên ghế nhà trường, số tốt
nghiệp cử nhân luật sẽ chỉ hơn 100 người.
Nếu tính thêm đại học luật Huế th́
mỗi năm miền Nam cho ra ḷ không quá 200 cử nhân.
Khoảng năm 1986, thời kỳ đổi mới, tái
lập đại học luật và ngành luật sư,
nhà nước mở lớp triết Mác Lê ở
miền Tây cho những ai có bằng cử nhân luật
của miền Nam theo học để ra làm luật sư,
tôi hỏi công an văn hóa quản chế tôi là tôi
muốn theo học th́ anh ta trả lời ngay, lư
lịch của anh không được theo học đâu.
Báo chí tổng kết khóa học đó chỉ c̣n có
500 cử nhân và 7 cựu giáo sư tiến sĩ.
Tất cả 7 vị cựu giáo sư đại
học luật miền Nam đó, trong đó có GS
Nguyễn Mạnh Bách, đều đang sinh sống
bằng nghề tay chân (mà tôi quên mất là nghề ǵ)
trong đó nghề nhàn hạ nhất là thợ may! Năm 1967 tôi
bị động viên vào trường sĩ quan Thủ
Đức. Tiếp tục 3 năm nữa gián đoạn
việc học, tôi trở lại trường đại
học luật Huế niên khóa 1970-71 và đỗ năm
thứ 2 để lên năm thứ 3. Nhưng nay
bằng cử nhân đă đ̣i hỏi 4 năm, cho nên
tôi c̣n phải học thêm 2 năm nữa. Thời gian
đó tôi làm việc ở Bộ Tư Lệnh Quân
đoàn I đóng ở Đà Nẵng, nên ra học
ở Huế tôi vẫn không thể tới lớp mà
chỉ lấy bài về nhà học, cho nên măi năm
1974 tôi mới tốt nghiệp cử nhân luật 4 năm.
Như vậy tôi vừa là quân nhân, vừa là sinh viên
học từ xa nhưng khác với kiểu đào
tạo đại học của VNXHCN ngày nay, những
sinh viên diện như tôi vẫn không có bất cứ
một đặc ân nào mà hoàn toàn phải thi cử b́nh
đẳng như tất cả các sinh viên toàn thời
gian khác. Ở năm thứ nhất và thứ hai th́ c̣n
nhiều quân nhân ghi tên học. Nhưng tới năm
thứ ba và thứ tư th́ số sinh viên giảm
bớt nên kèm theo số sinh viên quân nhân cũng ít
đi nhiều, v́ thời gian của họ eo hẹp. Vào năm
thứ tư, lớp tôi có hai vị sĩ quan cao
cấp, một vị là trung tá Báu (?) trưởng
một pḥng quan trọng của Sư Đoàn 1 không quân
và vị kia là trung tá Hoàng Măo, một sĩ quan nổi
tiếng khóa 20 Đà Lạt, trung đoàn trưởng
trung đoàn 54/ SĐ 1. Trung tá Báu thỉnh thoảng trao
đổi tài liệu học với tôi v́ ông cũng
ở xa và gặp khó khăn về việc t́m bài
vở như tôi. Trung tá Măo tôi biết rất bận
với trách nhiệm của một trung đoàn trưởng
tác chiến nên tôi rất hâm mộ ư chí học
tập của ông. Hai vị sĩ quan cao cấp này
đi học chỉ hoàn toàn nhằm mục đích
hiểu biết cá nhân, v́ cho dù có thêm bằng cử
nhân luật th́ hai vị cũng vẫn không thể dùng
để thăng cấp hay thăng chức. Riêng Tr/Tá
Hoàng Măo có cho tôi biết đi học để sau này
nếu có cơ hội đi làm tỉnh trưởng th́
kiến thức cử nhân luật sẽ hữu ích cho
ông. Trung Tá Măo là đơn vị trưởng, có
nhiều phương tiện nhà binh nên thỉnh
thoảng giúp trường một số việc liên
quan tới xây dựng, dọn dẹp hay chở sinh viên
đi cắm trại (đấy là tôi nghe kể
vậy.) Nếu nh́n sơ qua có thể nghĩ rằng
Tr/Tá Măo làm vậy sẽ được trường
giúp đỡ. Nhưng thực sự không phải
vậy. Ông vẫn bị trượt vào khóa 1 năm
1974 và chỉ đậu vào khóa 2. Sau này
hỏi ông việc học tập, ông cho biết, v́ là
sĩ quan cho nên v́ uy tín, ông c̣n phải học
nhiều hơn bất cứ sinh viên b́nh thường nào.
Trường hợp tôi cũng vậy, chẳng ai
hứa hẹn và cũng chẳng có tiêu chuẩn nào
ưu đăi điểm cho một sĩ quan đi
học. Ở Đại học miền Nam, việc
đi học là việc hoàn toàn cá nhân, không một cơ
quan nào gửi nhân viên đi học đại học.
Từ câu chuyện của Tr/Tá Măo và kinh nghiệm
bản thân tôi nhớ lại rằng như vậy
Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu
Trưởng Quân Lực VNCH khi đi học đại
học Văn khoa Saigon chắc chắn v́ uy tín của
một cấp tướng như vậy ông cũng
phải học cật lực để không bị coi
thường. Vả chăng, giáo sư đại
học ở Miền Nam là giới chức có nhiều
uy tín và độc lập với chính quyền. Chính
quyền không thể chỉ thị hay áp lực một
Viện trưởng, khoa trưởng hay giáo sư
đại học nào nâng đỡ một cá nhân nào
một cách bất công. Với cá nhân tôi, có trường
hợp GS Nguyễn Mạnh Bách, người hướng
dẫn luận văn tốt nghiệp cho tôi. Nguyên GS Bách
là bạn học của anh họ tôi là LS Nguyễn tường
Bá. Tôi thỉnh thoảng thấy ông thời sinh viên
tới học với anh họ tôi, nhưng ông không
biết tôi. Vào kỳ thi vấn đáp năm thứ tư
môn Dân luật, sau khi tôi ngồi trước mặt ông,
ông hỏi tôi có liên hệ ǵ với LS Nguyễn tường
Bá không (v́ ông thấy tôi trùng họ Nguyễn tường).
Tôi trả lời LS Bá là anh họ tôi. Sau đó ông im
lặng cho tôi bốc thăm câu hỏi. Sau khi bốc thăm,
tôi trả lời mạch lạc, liên tục khoảng
hơn 5 phút th́ xong. Phải nói khách quan, không ai có
thể trả lời hơn. Lúc xuống lại ghế
ngồi, mấy bạn cùng lớp thấy tôi trả
lời suông sẻ quá nên hào hứng hỏi tôi
được mấy điểm. Tôi trả lời: Ông
ấy nói “Anh trả lời giỏi lắm, tôi cho anh
10 điểm”! Mấy người bạn tôi lè lưỡi.
Dưới 10 điểm là trượt rồi. Tôi
đă thuộc bài như cháo và trả lời suông
sẻ mà chỉ đủ điểm đỗ, th́
trả lời thế nào mới được hơn
10 điểm? Chính v́ lối giáo dục nghiêm khắc
của đại học miền Nam như vậy mà
hiện nay tôi vẫn c̣n đủ kiến thức pháp
lư để viết những bài nghiên cứu pháp lư
đăng trên báo mạng mà tôi dám tự hào (là
luật gia VNCH) nhập đề “Viết để
giảng dạy cho giới lănh đạo tư pháp,
giới luật sư, các giáo sư và viện trưởng
đại học Luật Việt Nam XHCN”; bởi v́
nếu quí bạn đồng môn theo dơi hoạt động
tư pháp tại Việt Nam sẽ nhận thấy
họ quá dốt so với chúng ta. Nhưng
để có được tài liệu học tập
như vậy, ở đại học Luật Huế không
có cours roneo. Mỗi tháng khoảng 3 cuối tuần tôi
phải xin tháp tùng trực thăng hành quân ra Huế.
Trực thăng sẽ đáp trên khoảng đất
trống bên sông Hương, đối diện trường
Quốc học để những người đi
nhờ như tôi xuống, trước khi trực thăng
bay vào phi trường Thành Nội trực chiến. Như
vậy mỗi lần tôi có hai ngày tới thăm
mấy cô sinh viên để mượn vở của
họ. Dĩ nhiên tôi phải làm quen mấy cô sinh viên
có ghi chép đầy đủ và chữ đẹp.
Chiều hôm sau Chủ Nhật, tôi lại đón
trực thăng hành quân bay về Đà Nẵng.
Chắc quí bạn cũng biết phải tin tưởng
lắm mấy cô mới cho mượn vở mang về
nhà ở tận Đà Nẵng. Ban ngày tôi đi làm,
vợ tôi ở nhà chép lại mấy cuốn vở
đó cho tôi. Cũng may là vợ tôi chữ cũng
đẹp. Suốt mấy năm trời, đột nhiên
một hôm vợ tôi thấy sao toàn vở của
mấy cô. Tôi cười giải thích, chỉ mượn
vở mấy cô mới dễ, khi đó tôi phải
cất đi chiếc nhẫn hôn nhân. Bây giờ không
biết các người đẹp đó nơi đâu?
Cho tôi xin một lần nữa đa tạ! Nguyễn Tường Tâm |