Lên núi t́m chồng |
...."Phải
chăng những người đàn bà Việt Nam chúng
tôi, những người vợ lính Việt Nam
Cộng Ḥa, là người bị đọa đầy
hơn tất cả mọi người của thế
gian?" Trần
Thị Đông Phương
Tôi
thu xếp hàng, đem gởi nhà người quen, để
về sớm hơn thường lệ. Trong nỗi
khốn cùng, tôi cũng gặp được điều
may - Chị Liệu, vợ anh Lượng, họ là
bạn của gia đ́nh tôi - Anh chị Lượng
trước 30-4-75, có tiệm buôn bán xe gắn máy, xe
đạp và phụ tùng, thuộc loại lớn
ở Ngă Bảy, ngay đầu đường Minh
Mạng - Từ lúc 9 giờ sáng ngày 30-4-75, Anh Lượng
cũng là quân nhân, chạy ra bến Bạch Đằng
và biệt tích đến bây giờ -Thoát hay chết
chưa ai biết -Chị Liệu là bạn học
của tôi, ở lại với 6 đứa con,
tiếp tục bán đồ xe đạp, chỉ là
đồ xe đạp thôi, v́ nhà cửa kho hàng
bị tịch thu - Liệu thương t́nh đă
gọi tôi lên chỗ chị ta, nhường lại
cho tôi một số phụ tùng để bán lẻ nơi
lề đường - Hai chị em mỗi sáng
trải chiếc poncho của chồng để
lại, bầy lên đó những thứ phụ tùng
xe đạp - Trời cũng c̣n thương kẻ
khốn cùng, nên những chú Bắc kỳ vào Sàig̣n
vẫn thích t́m mua, nhờ vậy mẹ con tôi vẫn
c̣n được ngày hai bữa cơm ăn. Tôi
về sớm v́ con gái lên chỗ tôi bán hàng cho hay:
“Mẹ! có thư của Bố, kèm theo phiếu thăm
nuôi, Bố dặn cách xin giấy đi thăm, mẹ
về coi th́ mới biết được”- Sáu năm
xa cách, tuy chẳng hề được nh́n mặt
một giây, nhưng dù vài chữ tôi vẫn thấy
ấm ḷng, nh́n nét chữ của anh, tôi h́nh dung ra khuôn
mặt yêu dấu của chồng, nhất là nghe
thằng con út đọc thư oang oang, tôi cũng vui
được đôi chút và cầu nguyện xin ơn
trên che chở cho chồng, cho đồng đội
của anh sống sót trở về - Lần này th́
đúng là thư thật v́ được viết dài
hơn một trang giấy - Tuy không được
kể lể tâm t́nh, thương nhớ, khoẻ,
yếu - Bù lại, anh hướng dẫn tôi phải
làm những ǵ để được chấp
thuận cho đi thăm. Việc
đầu tiên là tôi phải mang thư, giấy thăm
nuôi của trại cải tạo gởi về, kèm
theo hộ khẩu, đến phường, nơi cư
ngụ để được xác nhận là tất
cả những thứ mang theo đó là đúng - T́nh
trạng cư trú của gia đ́nh đúng, là vợ
chính thức của anh ấy. Phường chứng
thực xong, viết cho mấy chữ giới thiệu
lên Quận, để chính thức cấp giấy
đi đường, cho phép đến trại
cải tạo thăm chồng đang “học tập
cải tạo”. Lên tới Quận, lại thêm
một lần may mắn, trong lúc ngồi chờ
duyệt xét giấy tờ, tôi gặp được
các chị cũng xin giấy đi thăm nuôi
chồng, hỏi ra th́ được biết, các
chị ấy là vợ anh Tâm (KQ), vợ anh B́nh (BĐQ),
chị Đỗ văn Nhĩ (SĐ.18BB) và cô
Tuyết, đi thăm hai người anh ruột, anh Lê
Hoàng Nghi, cùng trại Lam Sơn, Thanh Hoá. Sau đó
Tuyết lại c̣n đi tiếp ra trại Ba Sao thăm
anh hai là Tướng Lê Minh Đảo, chưa lên
đường, chúng tôi đă thấy mối cảm
thương dành cho Tuyết, lặn lội, cơ
cực, đi thăm hai người anh đang trong tù
cộng sản, khoảng vài phút làm quen, cùng cảnh
ngộ, nên chúng tôi thân nhau nhanh chóng và hẹn nhau mua
vé xe lửa, để được đi cùng
chuyến và cùng toa xe, để chuyện tṛ hàn huyên,
hy vọng quên vất vả dọc đường. Có
giấy phép cho đi Thanh Hoá thăm nuôi chồng
rồi, tôi bắt đầu lo tiền để mua
sắm thức ăn, chẳng c̣n ǵ ngoài mấy lon
gạo, vài kư khoai ḿ hợp tác xă bán theo hộ
khẩu - Vật dụng th́ c̣n cái tủ lạnh,
biết bán nó cho ai bây giờ? Nh́n quanh, tôi đang trơ
trọi một ḿnh, gia đ́nh chồng th́ chưa liên
lạc được, suy nghĩ đến đau
cả óc, cuối cùng tôi phải cầu cứu
mẹ: -
Mợ ơi! tuần sau con đi thăm chồng ở
Thanh Hoá, con chỉ c̣n đúng 30 $ và mấy lon
gạo, phải làm ǵ bây giờ hở mợ! -
Mẹ tôi im lặng, suy nghĩ giây lát rồi nói: Tủi
thân thế đấy! lấy chồng làm quan, bao nhiêu
năm, giờ đây lại vẫn phải dựa
trong ṿng tay cha mẹ để nương nhờ. Bán
chiếc máy ảnh, tôi bán luôn chiếc nhẫn cưới
một chỉ vàng đang đeo trên tay. Tạm đủ
để mua vé xe lửa và ít đồ khô, theo
sự ấn định cho phép của “cách
mạng” - Các em tôi được mẹ tôi hô hào,
đă xúm nhau mỗi đứa cho ít đồ ăn
khô và chút tiền. Tôi tưởng tượng
thật nhiều về chuyến đi t́m chồng
lần đầu, bao nhiêu ngày đêm ṃn mỏi
nhớ thương, lo âu và cả hận thù, oán ghét
kẻ đă giam cầm chồng tôi - Tôi suy đoán,
gặp nhau chắc anh mừng lắm - Tôi sẽ
được sờ lên mặt, cầm tay chồng, dù
chỉ chốc lát cũng đă cho tôi nhiều an
ủi và yên tâm tần tảo nuôi con chờ ngày anh
về - Đă sáu năm, cả hai chúng tôi đang
bắt đầu vào tuổi già - Chúng tôi cùng ngoài
bốn mươi. Đúng
5 giờ sáng Chủ nhật, tôi và thằng con thứ
ba, sau hai chị nó, mang đồ đạc lên ga xe
lửa, thật ra đồ thăm cũng chỉ có
trong hai cái giỏ đệm (bao bị cói) và một
túi nhỏ đựng vật dụng riêng của hai
mẹ con, cháu đeo sau lưng - Tới ga, tôi gặp
đủ những chị đă gặp ở quận
hôm đi xin giấy, ngoài ra c̣n có các chị đi thăm
chồng, nhưng khác trại như Thanh Cẩm, Thanh Lâm,
Kỳ Anh (Nghệ Tĩnh) v..v.. Có
lẽ đây là lần đầu, nên số người
đi ra Bắc t́m thăm chồng khá đông. Chúng tôi
không đủ tiền mua vé tàu suốt, nghĩa là
chạy thẳng từ Sàig̣n, không ngừng các ga
nhỏ - Chúng tôi mua vé tàu chợ, thời gian đến
sẽ kéo dài hơn v́ tàu ngưng nhiều ga, để
khách buôn lên xuống. Chúng tôi chen chúc nhau lên tàu,
quả thực là vất vả, trong toa, kẻ nằm
người ngồi ngổn ngang, đủ các
loại hàng, từ thú vật như gà, vịt,
lại có cả hai con heo con, cũng được
bỏ rọ mang đi - Mùi phân thú, mùi mắm, mùi người
nồng cả toa, mỗi lần bị đụng
chạm hay xô lấn, lũ gà, vịt kêu réo oang oác,
hai con heo cũng eng éc phụ họa - Từ thuở bé,
tôi chưa được đi xe lửa lần nào,
nay là lần đầu tiên, cảm thấy hơi khó
chịu, nhưng tự an ủi: “Có
chỗ cho ḿnh đi là may rồi” - Chị vợ anh
Nhĩ thật nhanh nhẹn và mau mắn, chị vượt
lên trước, loay hoay thế nào kiếm được
một chỗ trong góc toa, chị gọi chúng tôi mang
đồ để chung vào một nơi, dễ canh
chừng. Chị Nhĩ dặn: “Chị em ḿnh có
ngủ th́ chia làm hai, một nửa thức giữ
đồ đạc, lơ đễnh chúng nó lấy
mất” -
Tiếp theo chị ghé tai từng người nói
thật nhỏ: “Nếu có tiền hay vàng giữ
thật kỹ, coi chừng bị cắt túi đó,
mấy thằng móc túi nó lẹ và ma mănh lắm”. Chúng
tôi cố thu xếp cho nhau để mỗi người
có một chỗ ngồi, lúc ngủ th́ dựa người
trên mấy cái giỏ đồ, hoặc tự
gục trên hai gối của ḿnh, nhưng có lẽ không
ai ngủ đúng nghĩa, mà chỉ thiếp đi
trong cơn mệt, phần háo hức mong gặp
mặt chồng, phần lo lắng nên chỉ chập
chờn theo âm điệu của tiếng bánh sắt
nghiến trên đường ray. Con trai tôi th́ quên
cả chật chội, chẳng quan tâm đến mùi
hôi hay thơm trên tàu, cháu len ra chỗ hai toa tàu
nối nhau, có chỗ cho người đứng, nó
đứng giữa hai người đàn ông để
an toàn và dơi mắt nh́n say mê cảnh vật dọc
đường, chỉ lúc thật mỏi mệt và
mỏi mắt, cháu mới trở vào chỗ, tội
nghiệp cháu, nó sợ tôi mệt, đói, nên
thỉnh thoảng lại nhắc chừng: “Mẹ
ăn ǵ chưa? Mẹ có khát nước không?” Hành
tŕnh khởi sự từ ga Hoà Hưng Sàig̣n, đến
ga Thanh Hóa vừa mất đúng 3 ngày, 3 đêm, tàu vào
ga Thanh Hóa lúc 9 giờ sáng. Chúng tôi vội vàng
phụ nhau khiêng vác đồ thăm nuôi xuống,
đặt cạnh đường ray. Tất cả
đều ngơ ngác, chốn lạ xứ người,
chúng tôi lấy thư của chồng ra coi lại,
trong đó có chỉ dẫn của trại tù viết
trên giấy. Chúng tôi đi về cuối ga, gặp
hai tù h́nh sự do một công an có súng đă đợi
sẵn - Một trong hai anh tù hỏi: “Các chị có
phải “nà” người đi thăm cải
tạo, trong trại “lăm Nam Sơn” (5, Lam Sơn)
không?” chúng tôi trả lời đúng, lúc đó người
công an mới lên tiếng: -
Bọn tôi đợi ở đây để giúp các
chị chở tiếp phẩm vào trại - Hai
thằng này sẽ đánh xe trâu đến để
xếp đồ lên, chỉ chở đồ đạc
thôi nhé, người đi bộ theo sau - Đường
khá xa và qua phà nữa đấy. Để tranh
thủ, bây giờ là 10 giờ - Đúng 10 giờ 30 ta
sẽ về trại - Các chị vào trong lều
gần xe trâu nghỉ đi. Khoảng
đường từ Thanh Hóa vào đến trại 5
Lam Sơn thăm thẳm, qua đồng, qua ruộng,
hết ruộng đến núi, lại rừng - Nàng
chinh phụ trong Chinh phụ ngâm, má hồng truân chuyên
như thế nào, chỉ đọc, chỉ nghe mà không
thấy. Bây giờ, chúng tôi, những người
vợ lính đi lên núi, vào rừng t́m chồng, có
lẽ cơ khổ và truân chuyên hơn bà vợ chàng
hào kiệt của Chinh phụ ngâm khúc, gấp mấy
lần. Dọc đường, ai cũng phải
ngồi xuống xoa bóp chân ḿnh nhiều lần. Tôi có
cảm giác như mấy chục mũi gai đâm vào
ḷng bàn chân, chị Nhĩ khóc mếu máo: “Cha
ơi! Mẹ ơi! sao lúc nhỏ cha mẹ không
tập cho con đi bộ” - Cũng c̣n may, chúng tôi ai
cũng đi giày vải (Bata), nếu đi giày khác
chắc chết. Cả bọn ai cũng lặc lè,
sắp qụy, duy nhất có con trai tôi, v́ tuổi
nhỏ, mong gặp Bố, lại được đi
xa lần đầu, lạ cảnh, thỉnh thoảng
cháu liều lĩnh đu lên sau xe trâu ngồi đỡ
vài phút, cũng không bị quở trách, v́ thế, cháu
có vẻ chưa đau chân và mệt - Cố gắng
cách mấy, chúng tôi cũng không thể nào đến
trại Lam Sơn kịp trong ngày, đường
đi khá xa, có lẽ cũng vài chục cây số,
mặt trời đă tụt sau dăy núi phía Tây, dăy
đồi thấp, hàng cây hai bên đường
bắt đầu nḥa bóng, thỉnh thoảng mới
gặp hai, ba người đi thồ hàng, đạp
xe vội vă vượt qua hoặc ngược ra ga
Thanh Hóa. Chúng
tôi đi thêm được chừng hai cây số,
đến một khu phố buôn bán, có ngôi chợ
nhỏ đă họp xong buổi sáng. Người công
an áp tải cho lệnh hai “tài xế xe trâu”
dừng lại nghỉ, đường c̣n xa, không
đi kịp. Họ chỉ cho chúng tôi khu nhà trọ,
dặn ḍ: “ Các chị thuê chỗ ngủ trọ, sáng
mai tập trung tại quán nước chè, ta sẽ
đi tiếp”. Mẹ
con tôi đă trải qua một đêm chưa bao
giờ khiếp hăi đến thế - Bộ ván,
chiếc chiếu ước chừng đă khá lâu không
được làm vệ sinh, giặt giũ - Thật
mệt, nhưng giấc ngủ vẫn không đến
với chúng tôi, v́ nhiều lư do. Nỗi sợ ám
ảnh, phải đối phó với hàng trăm, hàng
ngàn con rệp, chị em đành ngồi kể
chuyện cho nhau nghe chờ sáng. Khoảng
12 hay 1 giờ trưa hôm sau th́ chúng tôi tới
trại 5 Lam Sơn, con đường ngoằn ngoèo, ṿng
qua dăy núi đá không cao lắm, xuyên qua một khu
đất rộng đang canh tác, nh́n từ xa, không
ai biết, tới gần, chúng tôi mới nhận ra -
Họ là tù, toàn thể là nữ tù, chia thành
nhiều tốp, trồng đậu phọng, cấy lúa
v...v... Đám người này khá đông, nhưng dường
như họ là những bộ máy, lạnh lùng làm công
việc của ḿnh, âm thầm như những
chiếc bóng, đầu phủ kín bằng những
tấm khăn vải để chống nắng. Người
cuốc đất, người nhổ cỏ, hoàn toàn
lặng lẽ, đến cả hai giám thị công an,
một nam và một nữ, như hai pho tượng,
ngồi kế bên nhau trên bờ đường. Trên
lưng áo vải mỗi người đều có hàng
chữ Lam Sơn 5, chúng tôi c̣n gặp thêm hai toán người
đang đập đá để nung vôi - Nhận ra
chúng tôi, một vài anh cũng lên tiếng hỏi: “Các
chị đi thăm ai?”, nhưng chỉ có thế, v́
các anh đă buộc phải im tiếng. Sau
khi làm những thủ tục của trại tù xong,
đă vào buổi chiều, hết giờ thăm nuôi,
chúng tôi phải chờ qua ngày sau. Người cán
bộ phụ trách thăm nuôi, dẫn chúng tôi ṿng ra
sau căn “nhà việc” (văn pḥng) để đến
nhà văng lai - Sáu người ở chung một gian nhà,
vách ván, mái ngói, kê ba chiếc giường tre, trong
trại tương đối sạch hơn, chiếu
c̣n mới - Họ cho mượn mùng, nếu ai không có,
chúng tôi rủ nhau xuống bếp, ngay đầu nhà,
có sẵn củi, nồi - củi phải mua mỗi người
5 đồng, nồi cho mượn, vợ B́nh (BĐQ)
đem lon mắm ruốc xào thịt ra xào lại để
tiếp tế cho chồng, tôi cũng xào lại lon gà
kho gừng cho khô thêm. Thời
gian chờ đợi, dằn vặt, xao xuyến trong
ḷng chúng tôi không ít, cứ đứng lại
ngồi - Mỗi lần có anh “cải tạo viên”
đến, chúng tôi lại rướn cổ nh́n, nhưng
vẫn là chồng người ta - Mấy ông tuy là
mặc đồ lành lặn, sạch sẽ, nhưng
nh́n bóng dáng đi, bộ điệu cố ưỡn
ngực thẳng lưng, vẫn chẳng dấu
được cái tiều tụy, tàn tạ, trên thân
thể. Ai cũng giống nhau, sự hành hạ qua năm
tháng đă làm họ mất thật nhiều phong
độ, cố giữ cho thẳng mà vẫn xiêu
vẹo - Giờ này qua giờ khác, lại mất
một ngày nữa chờ. Chúng tôi an ủi nhau, ḿnh
tới trại sau, nên được gặp sau,
chắc chắn ngày mai sẽ đến lượt ḿnh. Ngày
thứ ba, kể từ ngày chúng tôi bưóc vào khu thăm
nuôi của trại 5, chừng 10 giờ sáng, cán
bộ thăm nuôi đến gọi chi Tâm (KQ) và
Tuyết, em anh Lê Hoàng Nghi lên pḥng thăm nuôi, mọi
người vui hẳn lên và hồi hộp - Mười
lăm phút sau, việc thăm nuôi xong, chị Tâm và
Tuyết trở lại, mặt đỏ v́ vừa khóc
xong - Tuyết vội vàng thu xếp đồ và nói:
“Em chào các chị, em phải đi ra Ba Sao ngay bây
giờ, may quá, có xe của trại ra Thanh Hóa, họ
cho em quá giang” - Nh́n theo Tuyết quảy đồ ra
cửa, chúng tôi không ngăn được xúc
cảm - Tội nghiệp cô bé, lặn lội, tất
tả, đi thăm hai anh ở cách nhau hàng trăm cây
số. Cuối
cùng rồi cũng đến phiên ḿnh, sáng ngày
thứ tư ở trại (thật ra mới có ba ngày
rưỡi) vợ B́nh, vợ anh Nhĩ và tôi, cùng
được gọi lên nhà thăm nuôi một lượt,
ba người ngồi một bàn, con trai tôi ngồi
sau lưng tôi - Chừng 10 phút sau th́ một tên công an
bước vào pḥng, anh cán bộ thăm nuôi vội
đứng dậy chào rồi nói: “Báo cáo anh, các
chị ấy đă tập họp đủ”, chúng tôi
chưng hửng, tự hỏi: “sao lại thế này,
chồng tôi đâu?, thằng quỷ dịch này là
đứa nào? bước vào chẳng chào hỏi,
mặt như âm binh, lạnh ngắt “. Một chút
sau hắn mới lên tiếng: -
Chào các chị - Các chị đi đường
chắc vất vả lắm, nhưng nghỉ mấy
ngày, chắc cũng khỏe rồi - Tôi là Bắc, cán
bộ chấp pháp trại, hôm nay đến đây có
mấy điều quán triệt với các chị -
Hắn ngừng lại, nh́n mặt chúng tôi thật
chậm và làm oai - Tôi cũng nh́n lại hắn, quan sát
và nghĩ: “Hèn chi nó làm chấp pháp (an ninh) là đúng,
mặt tái xanh, mắt như hai lằn chỉ, môi
dầy và đen như hai miếng thịt trâu phơi
nắng” - Tên Bắc chợt hỏi: -
Chị nào là vợ “cải tạo viên” B́nh,
chị nào là vợ “cải tạo viên” Đỉnh?
- Chúng tôi dơ tay - Lại im lặng và hồi
hộp. -
Thật là quá đáng, từng ấy năm học
tập cải tạo, uổng công “cách mạng”
quan tâm giáo dục, chưa nói tốn cơm, tốn
của - Chồng các chị thuộc loại không
thể cải tạo, “cách mạng” rồi sẽ
phải xử lư. Tôi và X. rụng rời, nghẹt
thở, há miệng mà không thở được -
Giọng tên Bắc lại cất lên ch́ chiết: -
Một bọn phản động, ngoan cố, cấu
kết với nhau, ra sức chống phá “cách
mạng”, cách này, cách khác - Bọn phản động
ấy có chồng hai chị - Tụ họp lại bày
đặt tuyệt thực, yêu cầu cải
thiện, cho nên trại đă tạm thời kỷ
luật các tên này, để tạo cơ hội
hối lỗi cho bọn họ - Các chị không tin
lời tôi nói à? Đây, để chứng minh, tôi
đọc cho các chị nghe lệnh tạm giam
những tên phản động. Cấm thăm nuôi
bốn lần. Hắn đọc tên từng người:
Nguyễn Xuân, Hồ văn Phước, Phan Nhật
Nam, Hồ Công B́nh và chồng tôi, có tất cả trên
10 người, nhưng tới lúc này th́ tôi mắt
hoa, đầu váng, mọi vật quay như chong chóng
- Vẫn giọng tên Bắc: -
Đấy bọn phản động, nguyên cả
một buồng, các chị hiểu không? Giờ phút này
rồi, c̣n ǵ nữa đâu mà vọng động - Các
chị về viết thư động viên chồng
hối cải, lao động, học tập cho
tốt, để c̣n về chứ - Trại lần này
họp, các đồng chí lănh đạo đă
nhất trí để hai chị đi về, lần
sau sẽ thăm nuôi. Tôi
cố chơi tay, để đầu không gục
xuống bàn, đưa tay trái véo nhẹ lên tay vợ
B́nh - Cần phải can đảm - Lát sau vợ B́nh
hỏi: -
Trại không cho gặp, vậy xin cho chúng tôi gửi
thuốc và chút đồ ăn cho chồng tôi có
được không? -
Không được, đă là kỷ luật th́
phải cấm hết, mang về đi các chị -
Trại đă lo đủ cả, thuốc men, ăn
uống không lo. Biết là vô ích khi ḿnh đang nói
với một xác ướp, nên chúng tôi càng im
lặng. Tên Bắc đăi bôi: -
Các chị yên tâm, động viên chồng học
tập cho tốt, biết đâu chừng sau lần
kỷ luật này, các anh tiến bộ, lại
được tha về sớm. Tôi
có ư nghĩ muốn trở thành người đàn bà
đanh đá, chửi vào mặt thằng xác ướp
này vài câu, nhưng nghĩ lại, làm vậy là
dại - Thôi! - Liếc qua vợ B́nh cười
nửa miệng - Muôn ngàn cơ cực, đến mà
không gặp. Niềm đau, nỗi buồn đă
đóng băng trong ḷng hai người chúng tôi. Bắc
hướng qua chị Đỗ Văn Nhĩ,
giọng trở nên dịu dàng -
Chào chị Nhĩ, hết mệt rồi phải không?
Vất vả quá đấy nhỉ - Chị vui ḷng cho
tôi xem thư và giấy thăm nuôi từ trại
gửi về cho chị nào - Liếc đọc lá thư,
tờ giấy thăm nuôi, tên Bắc hỏi tiếp: -
Chị nhận được thư này lúc nào? -
Tháng 8, cán bộ. Trong thư đề tháng 3, nhưng
tháng 8 tôi mới nhận được, có sao không cán
bộ? - Tên Bắc thở dài, cố làm vẻ trang
nghiêm: -
Tiếc quá, chị nhận thư anh Nhĩ hơi
muộn, sớm hơn th́ chị đă gặp
chồng, bây giờ th́ quá muộn. -
Trời, sao vậy cán bộ, chồng tôi làm sao, anh
ấy bị cái ǵ? Anh Nhĩ làm sao rồi? -
Trời ơi là Trời! chồng tôi sao lại
chết - Ba mẹ ơi! chồng con chết rồi!
Anh ơi! Tưởng ra đây gặp anh, bây giờ
anh đi mất, bỏ mẹ con em, bỏ ba má sao anh
-Chồng tôi năm nay mới có 32 tuổi, làm sao mà
cao máu? Anh ơi, anh chết oan rồi! Hai
chúng tôi cùng chồm qua, ôm lấy vai chị Nhĩ,
cố kềm, nhưng rồi cũng khóc theo, vợ
anh B́nh mếu máo khuyên: “Chị nín đi, chị nín
để hỏi cán bộ anh ấy chôn ở đâu
chớ” - Chị Đỗ văn Nhĩ rũ
xuống như tàu lá, toàn thân lạnh và mềm
oặt, hơi thở đứt quăng. Chị Nhĩ
đă mê đi trong cơn đau mất chồng.
Vợ B́nh vội lần trong túi áo bà ba lấy ra chai
dầu gió thoa lên trán, thái dương cho chị Nhĩ
miệng vẫn gọi liên hồi - “Tỉnh đi,
dậy đi để đi t́m mộ chồng
chứ! Tỉnh dậy đi chị Nhĩ!”. Im
lặng một lúc, khoảng năm, mười phút, tên
cán bộ Bắc lại nói: Mấy
chị em chúng tôi quay về Sàig̣n lúc mờ sáng ngày
hôm sau - Ngày thứ năm ở trại “cải
tạo” của chồng, nh́n những dăy nhà cũ
kỹ, khóa kín cửa, tôi tưởng tượng là
chồng tôi đang phải bị giam nhốt trong
những ngôi mộ đó, gần ngay kế bên mà cách
biệt muôn trùng. Ngày đi náo nức, mong ngóng hy
vọng bao nhiêu, nay trở về, cơi ḷng tan tác,
sự thất vọng chiếm hết mọi suy tư
- Chúng tôi đi trong vô thức - Tội nghiệp
chị Đỗ văn Nhĩ, nếu không có bạn
đồng hành chúng tôi phụ giúp, không hiểu có c̣n
đủ sức, đủ nghị lực để
về với các con không - Điều an ủi là ngày
về, nhân chuyến xe trâu đi không, họ đặc
ân cho chúng tôi quá giang, với giá 10 đồng
một người đến ga Thanh Hoá. Phải
chăng những người đàn bà Việt Nam chúng
tôi, những người vợ lính Việt Nam
Cộng Ḥa, là người bị đọa đầy
hơn tất cả mọi người của thế
gian. Trần Thị Đông Phương |