Đi nhận xác Thầy Tôn Thất Sang |
|||
Kính dâng hương
hồn các vị Giáo Sư Đức Quốc:
Giáo
Sư Gunther Krainick và Phu Nhân: -Thạc
sĩ Y Khoa Đại Học Greifswald 1943 -Thạc
sĩ Y Khoa Đại Học Freiburg 1951 -Giáo
Sư Nhi Khoa Đại Học Freiburg 1954 -Giáo
Sư Nhi Khoa Đại Học Y Khoa Huế... Giáo
Sư Raymund Discher: -Giáo
Sư Bệnh Lư Nội Thương Đại Học Y
Khoa Huế -Trưởng
Khu Bệnh Lư Nội Thương Đại Học Y
Khoa Huế Bác
Sĩ Alterkoster: -Phụ
Tá Giáo Sư Bệnh Lư Nội Thương -Bác
Sĩ thường trú khu Truyền Nhiểm ...là
những vị đă đóng góp công lao và tâm trí
rất nhiều vào việc khai sáng Đại Học Y
Khoa Huế... Những
vị, với lương tâm chức nghiệp cao quí và
ḷng vị tha vô bờ đối với bệnh nhân,
đă măi là gương sáng của chúng tôi. Những
vị đă bỏ ḿnh nơi quê người v́ tâm
hồn bác ái và t́nh nhân loại (Tết Mậu Thân
1968) Lần
giở những trang trân trọng đầu tiên của
cuốn luận án Y Khoa; nh́n tên, tước vị
của các Giáo Sư người Đức, bỗng nhiên
tôi thấy ḷng bồi hồi dâng lên niềm đau xót
vô vàn với những tiếc nuối khôn nguôi.
Những thương yêu, kính mến, với biết bao
kỷ niệm và ḷng tri ân với các vị; đă v́
thiện tâm, chấp nhận hy sinh, xa gia đ́nh, xa
bạn bè, xa tổ quốc thân yêu, để đem
sở học và nguyện ước của ḿnh, đi
truyền rao để khai hóa tận một xứ
sở kém mở mang, xa xôi hẻo lánh, đầy
dẫy hiểm nguy, ở tận bên kia bờ Đại
Dương. Ước nguyện của quí vị
thật dễ thương và hiền ḥa là làm sao
tạo dựng những bác sĩ Y Khoa tài năng, để
đem sở học phục vụ bệnh nhân, phục
vụ con người, phục vụ Y đạo ở
ngay xứ sở họ. Thế
nhưng, những hy sinh cao quí, từ những con người
nhân ái đó, đă bị trả một giá quá đắt
- bằng chính mạng sống của họ - bởi
một chính quyền gọi là phát xuất từ nhân dân,
v́ hạnh phúc của nhân dân “chính quyền Cộng
Sản”; đă lạnh lùng ra lệnh thủ tiêu
họ, không chút tiết thương, trong biến động
do chúng gây ra, cái gọi là “Mặt trận Toàn dân
nổi dậy tổng công kích”vào cố đô
Huế; trong dịp hưu chiến Tết Mậu Thân!? Hạ
tuần tháng 4, năm 1968. Khoảng
gần hai tháng, sau Tết Mậu Thân, cố đô
Huế đă được quân lực VNCH tái
chiếm (25 tháng 2 – 1968 dựng lại cờ tại
kỳ đài chính của cố đô Huế; VC khai
hỏa trong đêm Giao Thừa 29-1-68) Huế,
sau những ngày bị bọn quỉ đỏ tràn
ngập, đă nhuộm máu đào và nước
mắt! Không
có phường nào, xă nào, không có xóm nào, không có gia
đ́nh nào, là không có người thân ngă gục, cha
xa con, vợ mất chồng hoặc bằng viên đạn,
hoặc bằng con dao, hoặc bằng cán cuốc...Có hàng
loạt ngựi bị chôn sống, sau khi bị cột
thành từng “xâu người”, nối kết lại
bằng dây dừa, dây điện thoại... -Nào
Phú Thứ oán khí ngất trời, với tiếng khóc
và màu tang phủ trắng cánh đồng! -Nào
chùa Áo Vàng (Tăng Quang Tự), nào lăng Tự Đức. -Nào
Trung Học Gia Hội, với hầm chôn tập
thể, nơi mà trường học biến thành ḷ sát
sinh, nơi mà bọn “phản sư diệt tổ Hoàng
Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân...và
Lê Văn Hảo (Chủ Tịch Lực Lượng Dân
Tộc, Dân Chủ và Hoà B́nh tại Huế), đă
triệt để vâng lời bác Hồ dạy: "Trăm
năm trồng người” để chôn sống hàng
loạt con người bằng xương bằng
thịt với nỗi đau kinh khiếp, rợn người
mà oán khí chất ngất của họ chắc sẽ
đời đời theo níu chân bác và gia đ́nh mà
đ̣i nợ xưong máu!.. -Nào
Khe Đá Mài, Băi Dâu, Tây Lộc..., mà mỗi địa
danh là một âm vang của loài quỉ đỏ!! Huế
tang thương lầy lội Huế
rách như xơ mướp! Huế
tiêu điều với tường xiêu, mái đổ Huế
với thép gai giăng mắc Huế
như mặt kẻ bị đậu mùa!! Huế
với B40, với AK47, với CKC báng đỏ, Huế
đầy nước mắt với khăn tang, Máu
đỏ tanh hôi chảy ngập đàng, Hoa
cúc, mai vàng sau chẳng thấy? Chỉ
c̣n hoang lạnh với ly tan?!! Trong
cái cảnh hổn mang ấy, tôi đi giữa kinh thành
Huế tang thương, đổ vỡ, lạc
lỏng, bơ vơ, không định hướng như
bị mộng du. Tôi đi mà ḷng ngậm ngùi thương
tiếc như lạc mất người yêu xưa! Tôi
đi, nh́n, nghe, phân vân, bồng bềnh như trong cơn
ác mộng!
Mậu
Thân 1968: "Huế đầy nước mắt
với khăn tang" Bỗng
tôi hoảng hồn v́ tiếng Vespa rít lên bên cạnh,
đồng thời với cái vỗ vai làm tôi giật
bắn người: -Đă
biết tin ǵ chưa? Tôi
định thần nh́n lại, th́ ra Đặng
Ngọc Hồ, tôi hỏi. -Tin
ǵ mà có vẻ gấp rút thế? -T́m
thấy xác của các thầy Krainick, Discher, Alterkoster và
cả xác bà Krainick nữa! -Trời
ơi, có chắc không, ở đâu? -Nghe
đâu gần chuà Tường Vân, phía trên giốc Nam
Giao. Rồi Hồ nói luôn: -Ban
đầu dân họ tưởng Mỹ, họ báo
với tiểu khu. Tiểu khu liên lạc với Lănh
sự Mỹ, th́ biết Mỹ tuy có thiệt hại khá
nhiều, nhưng không có mất tích. Sau liên lạc
với viện Đại Học ḿnh và với Lănh
Sự Quán Tây Đức th́ biết Đức bị
mất tích 4 công dân: 3 nam và 1 nữ. Bây giờ th́ trùng
khớp. Tôi
chưa kịp đ́nh thần, th́ trong tiếng c̣i inh
ỏi, đă trông thấy Bùi Hửu Út xuất
hiện như một cơn lốc trên chiếc xe
gắn máy, lạng và thắng nhanh như chớp! Tôi và
Hồ vừa vội vàng nhảy tránh cú lạng
vừa nói cho Út biết...Đằng xa lại thấy
Lê Đ́nh Thiềng, chở Nguyễn Quang trờ
tới... Bọn
tôi, vội vàng làm cuộc họp “bỏ túi” trên
lề đường Trần Hưng Đạo,
gần chi Thông Tin ở chân múi cầu Trường
Tiền, bay giờ đă găy một nhịp – vết
ô nhục do đoàn cán binh Bắc Việt để
lại, khắc một vết nhơ sâu đậm trong
ḷng người dân xứ Huế. Khi đó vào khoảng mười giờ sáng, cái lạnh của những ngày đầu Xuân len lén như dao cắt vào da thịt, lại thêm cái nắng quái của ngày Xuân, sao hôm nay lại khác thường, nó nhợt nhạt, vàng vàng, tai tái như da của một xác chết. Nó như bàn bạc mùi tử khí của một thành phố đang ung mủ, đă có lắm người chết oan khiên uất hận; chúng tôi chợt nghĩ đến các thầy và thương quá là thương Tôi đề nghị anh Hồ qua tiểu khu
hỏi lại t́nh h́nh an ninh vùng đó đă ổn chưa;
C̣n chúng tôi, lên xe, chở nhau, nhắm vùng Nam Giao
trực chỉ. Một
hồi sau, Tiểu Khu cho một tiểu đội, trên
chiếc xe Dodge, với vũ khí đầy đủ
đi mở đường, nhắm hướng vùng chùa
Tường Vân. Anh Thiếu úy bảo bọn tôi
ngồi chờ ở ngă ba đường Nam Giao,
ngả rẻ vào chùa Tựng Vân để chờ
họ báo tin. Khoảng nữa giờ sau, viên sĩ quan
trở lại bảo t́nh h́nh an ninh an toàn, ụ không có
ḿn bẩy và hiện tiểu đội ông vẫn bám
sát địa h́nh. Đột
nhiên ông buồn bă, ngậm ngùi nói: -Quân
tôi, cùng một số dân trong xóm, đang đào đất,
thấy nhô lên bốn đầu tóc, trong đó có
một đầu tóc màu bạch kim, thật tội
nghiệp quá! Bọn
tôi nh́n nhau thở dài: -Chắc
là thầy Discher rồi! Mái
tóc màu bạch kim, hơi dợn sóng của người
thầy tài ba thưong mến học tṛ, xem học tṛ
như con, không ngừng ám ảnh tâm hồn chúng tôi
đến xót xa. Bọn
tôi cám ơn viên Sĩ Quan và tất cả lên xe,
nhắm hướng chùa Tường Vân trực
chỉ. Chùa
Tựng Vân nằm về hưóng tây nam núi Ngự B́nh
(hưóng Nam Giao, từ phố đi lên), đi quá chùa
Sư Nữ một quảng xa th́ rẽ phải, con
đừờng ṃn đất đỏ, thoai thoải
dốc với nhiều ổ gà và nhiều bụi
rậm. Ngôi
chùa với mái rêu phong, cỗ kính, chung quanh sân rộng
là những ngọn trúc la đà. Ở giữa là
ngọn giả sơn Ngư Tiều Canh Độc. Xa
xa, về phía dưói ruộng là hàng tre bao phủ, xanh
ngắt một màu, xen kẻ mấy cây lồ ô, thân vàng
có sọc xanh, dịu dàng lay động trứoc gió.
Cảnh chùa tuy đẹp, nhưng bọn tôi không c̣n ḷng
dạ nào thưởng ngoạn khung cảnh nên thơ!
Vừa xuống xe tại sân chùa, đă nghe tiếng
cuốc xẻn và thấy vài người dân địa
phưong tụm năm tụm ba, cùng một vài anh em quân
nhân đang xúm xít đào bới tận bờ hào tre, cách
sân chùa khoảng 200 mét. Bọn tôi vội vàng chạy
lại: -Tội quá các anh ôi, 3 ông, 1 bà. Tất cả đều bị bắn giống nhau. Tụi VC thật quá dă man, côn đồ! tiếng một quân nhân phát biểu. “...
Trong chiếc hầm chật hẹp đó, 4 ngựi
ngoại quốc đều bị trói thúc ké, hai tay
bị bẻ quặc ra sau lưng, bị siết
chặc bằng giây điện thoại truyền
tin...” Tôi
vội vàng nh́n theo tay anh chỉ, thấy ba quân nhân
đang cùng một vài ngựi dân, tay cuốc, tay
xẽng, nhẹ nhàng xúc đất và cát lên từ
một chiếc hầm đào vội; bề dài
khoảng 3.0m, bề ngang khoảng 1.0m và bề cao
khoảng 1.0m, vừa đủ cho thế qú thẳng
đứng của một ngựi ngoại quốc!
Trong chiếc hầm chật hẹp đó, 4 ngựi
ngoại quốc đều bị trói thúc ké, hai tay
bị bẻ quặc ra sau lưng, bị siết
chặc bằng giây điện thoại truyền tin. Nh́n
mặt họ đều bị biến đổi. Thái
dưong trái là lỗ đạn vào, thái dưong
phải là lỗ đạn ra, nên bị phá ra toang hoát;
mắt lồi hẳn ra ngoài! Đựng đi ngọt
xớt của viên dạn do chính kẻ luôn luôn rêu rao
lấy lưọng khoan hồng và nhân đạo làm
nền tảng để xử thế, đă làm méo mó,
biến dạng những khuôn mặt hiền hoà của
các vị thầy chúng ta. Các Thầy đă “được
giải phóng” bởi cái gọi là Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam của Bắc Bộ Phủ!! Chúng
đă đang tâm đi “giải phóng” những con ngựi
chỉ biết đem t́nh thương và ḷng nhân ái ra
cứu chữa cho mọi ngựi bệnh tật, nghèo
đói.. Sau
đó, chúng tôi cùng nhau, ngươi một tay phụ giúp
anh em chuyển xác quí thầy lên xe của tiểu khu và
đưa vào nhà xác của Bệnh Viện Trung
Ương Huế.
"...
Các Thầy đă “được giải phóng”
bởi cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam của Bắc Bộ Phủ!!!..." Cả
thành phố Huế xôn xao, cả bệnh viện xôn
xao! Nhiều ngựi đă khóc nức nở. Có
nhiều tiếng khóc thầm lặng ở khu nội thưong,
pḥng cấp cứu, khu truyền nhiểm, khu nhi đồng….. -Ôi,
c̣n đâu nữa vị Bác Sĩ trưỏng đoàn,
luống tuổi, hồn nhiên, thưong yêu sinh viên,
đă luôn luôn tận tụy trong bài giảng, trong lâm
sàn, suốt đêm ngày khám bệnh ở khu Nhi Đồng.
Thân mật với sinh viên, vui đùa, xem như con; chúng
tôi thựng gọi ông là Bon Papa. Có
lần, trong khi chuông reo, chờ giáo sư đổi
giờ vào giảng, chúng tôi thuờng nghịch ngợm
“câu giờ”; mặc dầu chuông reo, nhưng chưa
chịu vào lớp. Tôi cùng Lê văn Mộ, Trần Xuân
Thắng, Hoàng Thế Định…đứng cheo leo trên
mép thành cửa sổ lầu hai, nói chuyện phiếm.
Ông đi lại nhắc nhở: -C’est l’heure! Chúng
tôi giả bộ không nghe, ông vội trờ tới,
nheo mắt, lo lắng mĩm cựi nói: -N’avez
vous pas peur de tomber du ciel? Tôi
làm bộ sắp rơi từ cửa sổ đáp: -Si,
mais je veux voler dans le ciel plein de beaux nuages, mon bon papa. Ô ng
vội vàng chạy lại, hai tay nhẹ nhàng nhất
bỗng tôi lên, đặt xuống sàn nhà, hào hển nói: -Oh,
Il faut faire attention, mon pauvre enfant! Bọn
chúng tôi cười sảng khoái v́ câu đựoc
giờ, ù chạy vào pḥng học. Bon Papa mệt
nhọc theo sau! C̣n đâu những kỷ niệm êm đềm
bên ngựi Thầy yêu quí, ngựi đă đem
hết cuộc đời tận tuỵ để
phụng sự khoa học. Lẽ ra Thầy phải
về nước dương bệnh một thời gian,
sau khi bị cơn bệnh “Japanese Encephalitis” vật vă
một thời, tưỏng như gần “đi đứt”.
Tuy nhien ông đă ở lại vào dịp Tết Mậu
Thân nghiệt ngả và bọn quỉ đỏ đă
bắt Thầy cùng vị phu nhân can đảm, yêu thưong
chồng, xin được đi theo để chăm sóc
chồng cho đến ngày cuối cuộc đời th́
Bà cũng bị xử bắn luôn! Xin
vĩnh biệt thầy cùng phu nhân. Nguyện
cầu Thầy cùng phu nhân thanh b́nh trong cơi vĩnh
hằng, ở nơi không c̣n hận thù, ở nơi mà
bọn quỉ đỏ phải lánh xa. -Ôi,
c̣n đâu nữa, Bác Sĩ Raymund Discher - ngựi BS
trẻ tuổi, điềm đạm và trầm tĩnh,
vui tính và nhân hậu nhưng nghiêm khắc, ngày đêm
ở khu truyền nhiễm, với tương lai đang
rực sáng, Nhớ lại những “Family Party”
thầy và cô thỉnh thoảng mở ra, mời sinh viên
một vài lớp đến dự trong căn apartment
nhỏ ấm cúng, bên bờ sông Bến Ngự.
Thầy và cô hạnh phúc bên nhau như đôi vợ
chồng mới cưói, thức ăn nhẹ, ruợu
chát đỏ, vừa chuyện tṛ với đám sinh viên
và nghe những tấu khúc bất hủ của Mozart
trong không gian của buổi chiều đang tắt
nắng, chỉ c̣n lại ánh đèn vàng của gian pḥng
ấm cúng.. Hạnh phúc của thầy cô b́nh yên và miên
viễn đến chừng nào. Tuy
nhiên định mệnh năm Mậu Thân đă
khắc nghiệt cướp đi mạng sống
của người chồng tài hoa. Thầy vừa
mới đưa vợ về nước, và đáng
lẽ thầy c̣n được nghỉ, mọi ngựi
đều khuyên nên ở lại, nói t́nh h́nh ngoài
Huế không an ninh, nhưng thầy lại t́m đủ
mọi cách ra Huế để giảng dạy sinh viên
cho kịp thời khoá biểu riêng mà thầy đă
lập sẳn! Bọn
quỉ đỏ đă nhẫn tâm hành quyết
thầy bằng viên đạn xuyên thái dương
đầy thù hận! Nguyện
cầu linh hồn Bác Sĩ Raymund Discher sẽ măi măi b́nh
yên ở chốn vĩnh hằng. -Ôi,
c̣n đâu nữa Bác Sĩ Alterkoster, ngựi Bác Sỉ
trẻ tuổi, đẹp trai, tận tâm ở khu
truyền nhiễm. Alterkoster với bộ râu quai nón
đầy vẻ giang hồ của một tay hải
tặc khí phách “Le Viking”, đôi mắt xanh biếc
ánh lên nét thông minh và nhân từ; nh́n chung rất lôi
cuốn và nhất định phải là một “good
guy”. Alterkoster rất thân mật và hoà đồng
với sinh viên, ông thựng rũ sinh viên lên Kim Long,
Thiên Mụ ăn chè, ăn bánh bèo ..Tướng ông
rất tốt, xem qua không thể chết yểu
được, ngờ đâu lại bại dưới
tay “sát thủ” của đảng và bác! Nguyện
cầu BS. Alterkoster sẽ măi măi ở nơi chốn Thiên
Đàng. Tối
hôm đó, chúng tôi, hầu như tất cả các sinh
viên Y khoa c̣n tại Huế, đều tề tựu
đến bệnh viện trung ưong. Từ Đại
Học Xá Nam Giao, trung tâm Xavier, trường Nữ
Hộ Sinh Quốc Gia, Cán Sự Y Tế... các bạn
ở mọi nơi trong thành phố, lần lượt
biết tin, tập trung tại pḥng trực bệnh
viện để phân chia công việc và trực xác quí
thầy, đang tạm quàng tại nhà xác bệnh
viện. Mờ
sáng hôm sau, quan tài quí thầy được đưa
lên quàn tại Toà Viện Trưỏng Viện Đại
Học Huế. Sinh
viên Y khoa chúng tôi, quần sẩm, áo chemise trắng dài
tay, cravat đen; nghiêm trang ṿng tay đứng thành hai hàng,
trực bên quan tài quí thầy. Những tràng hoa phúng
điếu rải rác của các Toà Lănh Sự, các Trựng,
các Hội Đoàn, Đoàn Thể, các Phân Khoa
bạn...
Không
khí lắng đọng, cảm xúc và trang nghiêm. Mắt
mọi ngựi đều rưng rưng, tiếng máy
quay phim đều đều, âm thanh trầm buồn như
lời nguyện cầu. Đột nhiên, có tiếng
thổn thức ở phía cửa chính, mọi ngựi
xôn xao nh́n ra; nhiều ống kính hưóng theo, ánh sáng
máy ảnh lập loè: Một thiếu nữ, trong
bộ đồ đen tuyền, khăn tang trắng
bịt ngang đầu, nức nở lăo đảo
tiến vào; hai tay ôm chặc ṿng hoa tím – Couronne
Mortuaire – kết cườm đen có đính dăi băng
màu tím với gịng chữ trắng “To You With All My
Sacred And Humble Love” Đức Tổng Giám Mục
lặng lẽ nh́n, nét mặt ngài dịu đi. Mọi
ngựi xúc động bàng hoàng cùng với nhiều
tiếng nức nở. Ai đây? Ngựi thiếu
nữ nhẹ đặt ṿng hoa trước linh cữu
của BS. Alterkoster rồi phủ phục xuống, ôm
quan tài khóc nức nở! Mắt
tôi mờ đi, cảm xúc đến lặng ngựi;
nh́n người thiếu nữ, không c̣n trẻ
lắm, với nét thuỳ mị, đoan trang và kín
đáo, kín đáo như trong t́nh yêu thiêng liêng của
chị, thắm thiết và buồn như màu tím
của vành Couronne mortuaire. Những giọt nước
mắt xót thương chị đang gởi cho ngựi
ḿnh yêu vừa ngă gục trên mănh đất của quê
hương nầy. Máu đào của anh, vô t́nh đă
tô thắm lên quê hưong Việt Nam mến yêu của
chị! T́nh
yêu của hai người kín đáo và thầm lặng
như gịng sông xứ Huế, rất ít người
được biết. Ở
đây, tôi xin phép chị Thảo – vâng, người
ấy chính là chị – cho tôi viết ra điều;
phải chăng đó là những kỹ niệm cao quí
nhất và thiêng liêng nhất của cả cuộc
đời chị; mà tôi tin rằng, nếu mọi người
biết đến, cũng sẽ làm tâm hồn họ
thăng hoa, bâng khuâng và xúc động, như khi
họ khám phá ra một khu vườn hoa đầy hương
sắc, kỳ bí, mong manh, dễ vở. Họ sẽ
ngạc nhiên thích thú và trân trọng giữ ǵn... (Chị
là chuyên viên pḥng thí nghiệm trường Y, nhưng
chị thường lên thư viện để t́m sách
đọc nghiên cứu, và tṛ chuyện cùng chị Hựng
nên nhiều người cứ tưởng chị là
quản thủ thư viện - là chị Hường). Sáng
hôm sau, hai chiếc máy bay màu trắng bạc “Air
America”đưa bốn quan tài vào phi trường Tân
Sơn Nhất. Ở đó, ngoài phái đoàn Đại
Học Y Khoa Huế, c̣n có phái đoàn của sinh viên
Đại Học Y Khoa Saigon chờ đón với ṿng
hoa phân ưu và biểu ngữ lên án bọn quỉ
đỏ đă ra tay thảm sát những người làm
công việc y tế, chỉ biết phụng sự khoa
học, phụng sự nhân loại. (**)
Linh cữu của bốn vị được
đưa ra phi cơ về cố quốc trên chiếc
xe có bốn ngựa kéo, theo sau là 250 sinh viên Y Khoa
Huế và Saigon, đội đưa tang và đội
quân danh dự của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa.
Bia tưởng niệm các GS, BS Krainick, Raymund Disher và ALois Altekoester như trong h́nh đă bị đập và vất xuống hồ rau muống nằm giữa trường Y Khoa Huế và trường Cán sự Điều dưỡng sau ngày đất nước thống nhất. "Qúy Thầy đă bị chôn hai lần (1968 và 1975), nhưng măi măi tập thể Y Khoa Huế không bao giờ quên ơn của qúy Thầy đă góp công xây dựng trường, đào tạo những Bác Sĩ tài năng và đă hy sinh đời ḿnh cho lư tưởng phụng sự Y đạo ngay trên quê hương chúng tôi." Một
biểu ngữ ghi “Đại Học Huế không quên
các giáo sư người Đức”. Trước khi
linh cữu được đưa lên máy bay, nghi
lễ tiễn biệt diễn ra thật cảm động.
Ông Trân, thứ trưởng bộ giáo dục và
kỹ thuật phát biểu: "Bao nhiêu năm, tôi
đă từng tham dự nhiều buổi lễ ghi
nhớ các anh hùng hy sinh cho tổ quốc, nhưng chưa
bao giờ cảm động như hôm nay, khi tiễn
biệt những người Bác Sĩ dân sự này
đă chết cho lư tưởng cao cả v́ tha nhân và
nhân loại. " (**)
Trích “Cái chết của Bác Sĩ Krainick” của Elje
Vannema, trang 98 – 99 (Cuốn Thảm sát Mậu Thân ở
Huế) Máy
bay rời phi đạo, cất cánh lên cao dần và
mất hút, mọi người vẫy tay tiễn
biệt lần cuối, ánh mắt đỏ hoe, mờ
lệ... Vĩnh biệt từ nay bóng dáng
thầy T́nh sư nghĩa phụ sáng
trời mây Thương người viễn
xứ thân tan nát Lưu lại danh thơm với
tháng ngày! Tôn Thất Sang Cali, ngày 22 tháng 3 năm 1991 |
|||