Một
lần chuyển trại Nguyễn Trăi |
Khi Trung Quốc đưa tin sẽ “dạy cho
Việt Nam một bài học” gần như tất
cả các trại Tù tại Miền Bắc Việt
đều chuẩn bị chuyển trại, và bàn giao
lại cho Công An coi tù, mà từ trước tới
giờ là do Đoàn 776 (Sư Đoàn 776) canh giữ. Tất cả chúng tôi gồm một toán 20 người
thuộc thành phần không lao động nặng v́
đau yếu bệnh tật đang bị ở riêng
trong một láng “cách ly” cũng thuộc Trại 9 Liên
Trại 4 Hoàng liên Sơn. Sỡ dĩ phải “cách ly” với cả
trại 9, thành phần khỏe mạnh v́ sợ lây
nhiễm. Huỳnh Công Ánh là tay c̣n tuơng đối
khoẻ và nhanh nhẹn lấy một lưỡi câu
tự chế móc con sâu vào lưỡi câu, cột ngoài
bụi cây. Thế là anh gà mổ dính chặt, Hà
Thế Cường vội vă chống cây nạgn bươn
bươn ra nắm đầu con gà vặn cổ
bỏ vô thùng đạn đại liên. Khoảng một giờ sau, cán bộ Quản Giáo
đến thăm coi anh em làm việc ra sao th́ bất
ngờ trong thùng đạn con gà sống lại
nhảy rầm rầm liên tục. Một ngày khác, buổi chiều sau khi nhận
phần bo bo xong, ăn vội vàng th́ được
lệnh “chuẩn bị hành quân” . Trong các trại giam dù là trong Nam hay ngoài Bắc
thường hay bị ám ảnh bởi bốn chữ
“chuẩn bị hành quân”. Hành quân thường lúc
ban đêm dễ bị giao động không biết
sẽ đưa ḿnh đi đâu, và thường
sợ nhất là giữa khuya bọn Quản Giáo đến
rọi đèn rờ chân kêu từng cá nhân riêng. Không
biết chừng mang đi bắn chăng. Chín giờ đêm, tất cả ra sắp hàng
ngoài sân lán, họ đọc từng tên tù và ai có tên
xếp hàng riêng. Trong tổ “cách ly” của tôi toàn là
loại sứt càng găy gọng. Huỳnh Công Ánh khai
rằng bệnh lao, Phạm văn Thái “Vệ Sinh Viên”
th́ hen suyễn. Vệ sinh viên, cái từ ghép rất
lạ tai ngộ nghễnh dành cho những tù viên có
nhiệm vụ lo về y tế chứ không phải
dọn dẹp vệ sinh. Trần Văn Hoà Không Quân
cụt chân, Hà Thế Cường bị thương
từ c̣n lính vào tù đă chống nạng từ đầu,
C̣n tôi bị té trên núi cao lăn xuống khi đi
chặt cây phát quang trồng ḿ, bị chấn thương
thần kinh tọa cốt, sau đó suy dinh dưỡng
tê liệt một chân cũng phải đi bằng
nạng gỗ. Tất cả trong tổ “Cách ly” ai cũng
đều có bệnh. thế nhưng khi đọc danh
sách chia toán chuyển trại th́ chỉ có tôi, Hà
Thế Cường, Trần Văn Hoà cụt chân
được xếp riêng. Những người
bệnh khác bị đưa qua những toán khác có
lẽ trong cánh quân lao động nặng. Măi bao nhiêu năm
sau khi được thả ra khỏi tù mới
biết người nào đi trại nào. Huỳnh Công Ánh không c̣n liệt vào loại tù
có bệnh nữa và chuyển về trại Nghệ Tĩnh,
sau đó trốn trại trót lọt về được
Sài G̣n và vượt biên thoát. Sau khi chia toán xong, có lẽ chưa phải
giờ lên đường nên được vào lán
nghỉ nằm chờ... Bốn giờ sáng bị đánh
thức dậy và tập trung chung với một toán tù
từ ở đâu chuyển đến trong đêm. Có
tất cả 37 người cũng toàn là thứ
bệnh nặng gần đất xa trời và một
ông Bác Sĩ Nguyễn Vĩnh B́nh hoàn toàn khỏe
mạnh. Chính Bác Sĩ B́nh là người đi theo
để săn sóc cả toán 37 người bệnh
nặng này. Tám người đi bằng nạng gỗ, ba
người bị bệnh Hansen (bệnh phong cùi họ
đă khai như vậy từ lâu trong trại của
họ), tám người bệnh lao phổi, hai người
bị sơ gan cổ chướng cái bụng to hết
chỗ nói. Chính hai người bệnh gan này mà
trại phải cho chở hai chiếc quan tài đóng sơ
sài đi theo, v́ họ sợ chết dọc đường.
C̣n lại nhiều người bị bệnh suyễn
và một số bệnh khác tôi không được
biết bệnh ǵ bên trong. Trong suốt thời gian chuyển trại
của 37 người bệnh tật này đă làm cho tôi
vô cùng cảm động trước tấm ḷng nhân
ái hy sinh của Bác Sĩ Nguyễn Vĩnh B́nh, chỉ
mỗi ḿnh ông ta là người khoẻ mạnh đảm
đương hết thảy những sự giúp
sức đối với toán tù bệnh tật,
nhứt là ông ta phải ẵm bồng hai người
bị sơ gan nặng nhứt cũng như tắm
rửa cho hai người này. Sau khi lên phà qua hồ Thác Bà rời Cẫm Nhân,
có hai chiếc xe Molotova chờ sẵn bến phà. Bác Sĩ
Nguyễn Vĩnh B́nh trợ sức giúp cho nhiều người
mới lên được xe v́ đau yếu bệnh
tật. Ḷng ai cũng biết sẽ đi về một
trại khác, nhưng không ai biết sẽ đi về
đâu. Xe chạy xuyên qua nhiều cánh rừng,
nhiều đồng ruộng làng mạc, Tôi thật
ngạc nhiên khi nh́n thấy cảnh điêu tàn vô cùng
nghèo khổ của đời sống người dân
Miền Bắc. Một anh Trung Tá Bắc Kỳ 54 di cư
nói với tôi: Tất cả những ǵ của trước
năm 54 vẫn c̣n y nguyên như vậy, không hề
thay đổi nhưng c̣n bị rêu phong bởi bụi
thời gian. Tôi không thể nào ngờ được
Miền Bắc khổ đến như thế. Họ
dồn hết mọi tài nguyên sức lực xua và Nam xâm
lược mà thôi. Không hiểu v́ đường quá xa hay xe
chạy chậm mà măi đến chiều xuống xám
xịt mới đến được trại
Tổng Hành Dinh của Sư Đoàn 776 Yên Bái. Nơi
đây có sẵn Đại Tá Thọ Nhảy Dù bị
bắt tù binh trận Hạ Lào, đă thả ra rồi
bắt lại những ba lần và c̣n đang ở
đây. Chúng tôi nhận ra ông nhờ những người
trong trại này cho biết. Đại Tá Thọ
sống trong một căn cḥi nhỏ như mấy cái
cḥi của người chăn vịt ở quê trong Nam.
Ông ta bị biệt lập và đang nuôi heo. Tưởng đến đây là được
dừng chân hẵn, Không phải, mà là nơi dừng
tạm chờ đi tiếp. Trại nơi đây là
trung tâm đầu nảo của Sư Đoàn 776 coi
hết thăy các tù nhân miền đất Bắc. Mười lăm ngày tạm nơi đây không
phải làm ǵ hết v́ họ biết chúng tôi là dân
gần chết. Có một bữa lùa lên hội trường
cùng với hơn năm trăm con người tù
khoẻ mạnh khác gọi là “bồi dưỡng tư
tưởng” v́ Trung Quốc sắp đánh VN. “Các anh biết không Đất nước ta
giàu Đẹp, rừng vàng biển bạc, cái ǵ cũng
có. Ta có mỏ dầu đầy dưới biển,
khi nào ta cần th́ chỉ việc cắm ống
nứa xuống lấy lên là xài”. Cả hội trường
cười ồ lên và im ngay sau đó khi tay Đại
Tá quát lớn “tại sao các anh cười”. Thật không thể nào tưởng tượng
được một tên Tư Lệnh Sư Đoàn mà
có thể nói như thế này: “Các anh biết không,
Quân đội ta anh hùng, anh hùng lắm, hồi năm
72 Đế Quốc Mỹ ném bom miền Bắc nước
ta, quân đội ta đă cho máy bay Mít 17 lên đậu
sẵn trên mây phục kích, chờ máy bay Mỹ bay ngang
qua là ta nhào ra bắn hạ thôi”. Lại một
trận cười nữa ồ lên. Suốt bốn
tiếng đồng hồ phải bị nghe những
điều khôi hài ngây thơ từ một người
có chức cao quyền lớn như tay Sư Trưởng
này. Thật không ngờ. Thiệt không c̣n cái ngu nào hơn. Bốn giờ sáng, cả đám tù bệnh
tật c̣n đang say ngủ, nhiều tên bộ đội
súng AK lăm le trong tay, vai mang balô nặng triũ
xuống quát tháo ầm ĩ : “Chuẩn bị hành quân,
chuẩn bị hành quân” Chúng tôi nhủ thầm
“rồi lại đi nữa” . Bọn họ giục thét làm ra vẽ như
trễ giờ, chúng tôi tưởng sẽ lên đường
đi nơi khác nên phải dọn hết mọi
thứ mà bọn họ thường gọi là quân tư
trang” không có thể giấu lại nơi này. Chính
bọn bộ đội cũng dàn dựng mang balô
nặng trĩu cho chúng tôi tin là hành quân đi xa
thực sự. Nhưng kỳ thật bên trong balô
chỉ toàn đất cát. Đến trước sân “Bộ Chỉ Huy”
trại, họ tuyên bố “trong các anh c̣n có người
không thật thà khai báo, c̣n giữ ṿng vàng đá quư
không giao nộp. Hôm nay chúng tôi tiến hành kiểm tra
các anh. Ngay từ bây giờ nếu các anh thực thà
giao nộp th́ sẽ được Cách Mạng khoan
hồng. Ngược lại các anh sẽ bị
“kỷ nuật lặng lề”. Tôi có chiếc nhẫn cưới trong tay mà
từ lúc ở trại Cẩm Nhân bị mọc
mụt nơi ngón tay đeo nhẫn nên không tháo ra
được. Bây giờ suy nghĩ măi, có nên giao
nộp hay cất giấu tiếp. Tôi định
nuốt vô bụng, nhưng nhà vệ sinh trại tù không
thể nào cho ḿnh t́m lại được, giấu
ở đâu cũng sẽ bị khám phá, v́ mỗi tù
nhân có tới hai tên cán bộ khám. Trời mùa đông đất Bắc lạnh
cắt da, có khi xuống Zerô độ C , thế
vậy mà họ bắt chúng tôi cởi hết áo
quần chỉ c̣n mỗi cái quần xà lỏn, nên ai cũng
run lập cập. Tôi quyết định liều không khai mà
giấu bằng cách nắm chặt trong tay khi tay ấy
cầm cái nạng gỗ rất tỉnh bơ. Khi
“Quản giáo” khám đến tôi, tôi vịn cớ
ngồi khó khăn nên phải đứng, có như
thế tay mới giữ được chiếc
nhẫn trong tay. Có một vài anh em bị bắt tịch thu
tiền và vàng, nhưng không ai bị đem đi
nhốt. Bọn CS chỉ giỏi hù doạ mà thôi.
Bọn họ chỉ cốt lục soát nhằm tịch
thu làm của riêng. Những cái lược, cái trâm cài,
những ống điếu thuốc lào làm bằng
ống nhôm bóng loáng được khắc vẽ
rất xinh đẹp đều bị tịch thu, mà cũng
chỉ cho chúng xài. Khi đến phiên khám tôi, tôi không giấu
những bản nhạc ngày xưa viết thành tập
mà liệng ra đống rác trước mặt.
bọn họ tưởng là rác không ḍm đến, c̣n
chiếc nhẫn th́ vẫn trong ḷng bàn tay. Khám xét xong tất cả trở về lán
của ḿnh và mọi thứ sinh hoạt trở lại
b́nh thường. Nói láo là chuyện chuyện
nghiệp của Cộng sản không bao giờ biết
trơ trẽn. Mỗi người một nhúm khoai ḿ luộc
ăn sáng, và một khẩu phần dành ăn trưa
mang theo. Xe chạy rất chậm có lẽ v́ quá cũ
hay đường xấu. Xe ngang qua những cánh
rừng bạt ngàn, xe len vào những phố thị
bụi đất mịt mù, nơi nào cũng phô bày
cảnh nghèo đói không thể nào tưởng ra
được. Nhà cửa loang lổ vết bom đạn,
vách tường rớt rụng lớp hồ tô bên ngoài
đâu đâu cũng như vậy phơi bày một
khung cảnh tổng thể xác xơ chưa từng
thấy bao giờ. Đến quá trưa, xe dừng lại giửa
cánh đồng ven hai bên đường, chỗ này là
miền đồng bằng. Tất cả những người
tù què quặt bệnh tật ngồi hoặc nằm dài
mép đường tay quơ quào những khúc khoai ḿ
cho buổi trưa. Một người dân, mặc áo quần lam lũ
dừng chiếc xe đạp đứng nh́n một
hồi lâu rồi bỏ đi. Không ngờ chửng
một giờ sau dân ở đâu kéo tới bu quanh
đông nghẹt chúng tôi. Người nào cũng nh́n chăm
chăm vào thân thể chúng tôi như muốn t́m
hiểu một điều ǵ. Bỗng tôi nghe được họ bàn tán
với nhau cũng vừa cho ḿnh nghe “Ủa cũng người
mầy ạ” Tôi nghe câu ấy tự nhiện ḷng chùng
hẳn xuống. Vậy là chính quyền miền Bắc
tuyên truyền chúng tôi không phải là con người,
là cái thứ quái vật nào đó, ăn gan uống máu
người. Nên chi bây giờ họ nh́n tận mắt
chúng tôi th́ mới vỡ lẽ chúng tôi “cũng là người
mày ạ”. Xe chạy từ tờ mờ sáng đến
tối mịt th́ chui vào một doanh trại có tường
gạch bao quanh kiên cố nằm giữa rừng
thuộc vùng đất Quảng Ninh. Nơi đây
biết được có 600 anh em “Nguỵ Quyền”
toàn là dân Hành Chánh mới vừa chuyển trại
rời khỏi đây. Chúng tôi được nhốt chung một pḥng
38 người, Không bị đi lao động, xung quanh
nhiều tiếng ồn ào của đám tù h́nh sự
mỗi chiều đi làm về. Từ bên kia bức tường
họ cũng cố nói sang cho chúng tôi hiểu đây là
trại tên ǵ ở đâu: Một trại tù H́nh
Sự kiên cố của tỉnh Quảng Ninh tận
trong rừng sâu. Gần sát ngày Trung cộng đánh VN, họ
chuẩn bị chuyển chúng tôi về một trại
khác. Trong những ngày ở Quảng Ninh, Bác Sĩ
Nguyễn Vĩnh B́nh đă phải cơng những anh em
bệnh nặng không đi được ra chỗ
hồ nước để tắm cho họ, và mỗi
ngày ngồi kiên nhẫn đút bo bo cho họ ăn. Trong hoàn cảnh khốn cùng này mới thấy
được tấm ḷng nhân ái của con người
với con người và đặc biệt Bác Sĩ B́nh
mà trong ḷng ai cũng khâm phục. Tôi từng chứng
kiến nhiều cảnh đời cư xử thật
tê giữa những người tù với nhau trong
một hoàn cảnh khốn cùng v́ cái bánh vẻ
hảo của bọn CS vẻ ra để dụ dỗ
mọi người “học tập tiến bộ để
Cách Mạng sớm tha về”, và có biết bao anh em
đă “sập bẫy” ấy. Hay v́ cái đói trong tù, nhất là tù ngoài
miền Bắc vùng sơn lam chướng khí đói
đến tận cùng bằng số, bất cứ lúc
nào cũng cảm thấy đói, dù vừa mới
bỏ vào miệng một chút ǵ như bo bo, như
sắn xắt lát phơi khô c̣n ẩm móc vẫn
thấy cồn cào đói như thường. Đói cho đến độ có “con ǵ nhúc
nhích th́ bắt ăn hết “, tôi không bắt an
hết mà thường khi đi lao động bên ngoài
chỉ quơ quà ít cây cỏ có thể ăn được
mà “cải thiện” cho bớt đói. Người ta thường nói nước
rặt mới biết cỏ thúi, đất nước
loạn mới biết quân trung. Trong cảnh tù khốn
cùng mới hiểu thấm thía thế nào là t́nh người
đối với nhau. Trong trại Quảng Ninh, Bác Sĩ B́nh phân công
tuỳ theo t́nh trạng sức khỏe từng người
một mà anh nào cơng anh nào, ai d́u anh nào c̣n đi
được nếu như Trung Quốc đánh và
đây (v́ Tỉnh Quảng Ninh nằm sát cạnh biên
giới Việt Trung) . Cũng may quân Tàu cộng chưa đánh th́
bọn CS đă di tản chúng tôi về Hà Nam Ninh.
Một con đường khá dài nên phải đi
từ sáng sớm đến 10 giờ đêm mới
tới Phủ Lư. Trại Phủ Lư là một trại do quân Pháp
xây cất dùng để nhốt bọn cán bộ CS ngày
trước. Xung quanh trại có tường gạch kiên
cố, và ngoài những pḥng giam bằng tường
gạch, có một khu biệt giam dành cho những tù nhân
đặc biệt. Chỉ bốn ngày đêm trong khu
biệt giam th́ khi thả ra không thể đứng
được nữa và thân người bị lở
loét. Chúng tôi những người bệnh bị
nhốt trong hai buồng 13 và 12. mỗi buồng 26 người,
đêm nằm phải nằm nghiêng v́ chỉ được
ba tấc chiều ngang chiếc chiếu. Tháng nóng, thường
hay nghẹt thờ v́ thiếu dưỡng khí nên hay
gọi cấp cứu... Tại trại Mễ - Phủ Lư một chi nhánh
thuộc hệ thống trại giam do Công An coi quản,
gồm có nhiều trại A, B C, D và Trại Mễ.
Trong các trại của Hà Nam Ninh th́ trại A lớn
nhất có tường kín bao quanh và là trai mẩu
của “Bộ Nội Vụ”. Mỗi khi có các phái đoàn từ các nước
khác muốn xem xét hệ thống giam giữ của CS
VN th́ Hà Nội đều đưa tới trại A- Hà
Nam Ninh. Ở Đây cũng từng có các tướng và
52 ông Đại Tá bị giam chung với chúng tôi nhưng
khác buồng. Thời gian bị nhốt tại trại Mễ
/ Phủ Lư, họ cho biết thư về Nam và cho phép
thăm nuôi. Lần đầu tiên vợ tôi và chị
vợ từ Sài G̣n ra Hà Nội rồi xuống Phủ
Lư thăm tôi. Tôi được gọi ra thăm nuôi,
ôi xúc động hồi hộp vô cùng, Hai người
thân vừa nh́n thấy tôi với cây nạng gỗ
đi khập khễnh bước đến gần khu
thăm nuôi là đă chảy nước mắt ra
rồi. Câu chuyện “thăm nuôi” cũng rất
hồi hộp và lư thú sẽ viết trong một bài khác. |