|
Năm
2020 đang có một biến cố quá lớn lao
khiến ngày 30/4 đối với người Việt
từ quốc nội cũng như khắp thế
giới: đó là đại dịch COVID-19 mà sau hơn
4 tháng vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt
trong thời gian gần. Người Việt tại
hải ngoại trong thời gian cách ly có được
thêm thời gian để suy ngẫm về cuộc
chiến Việt Nam và thân phận của người dân
Việt trong cơn lốc xoáy của dân tộc. Người
phụ trách vào You Tube xem lại được
đường phố Sài G̣n trong ngày 30/4/2020.
Đường phố ít người qua lại mang
lại kư ức của thành phố đổi tên ngày
30/4/1075. Người dẫn chương tŕnh là một
trung niên cho biết vào năm 1975, anh mới có 2
tuổi. Dù chẳng biết ǵ về cuộc chiến
Việt Nam, trong cách nói của anh vẫn phảng
phất đôi chút hoài niệm những mất mát
của người miền Nam.
Ngày
30/4 tại Hải ngoại BÊN
THẮNG CUỘC Người
phụ trách trong những lúc rănh rổi có nghiên
cứu về lịch sữ Hoa Kỳ nhất là
cuộc nội chiến 1861-1865. Người Mỹ
gọi chiến tranh giữa 11 tiểu bang miền Nam và
23 tiểu bang miền Bắc là Civil War, chính quyền và
quân đội miền Nam gọi là Confederate c̣n chính
quyền và quân đội miền Bắc là Union. Tháng
tư 1865 đánh dấu sự thất trận của
phe miền Nam. Khi ra hàng, tướng Lee đâu có nghĩ
đến sự rộng lượng của tướng
Grant đối với những người thua trận.
Những sĩ quan của miền Nam được
giữ súng tùy thân và tất cả binh lính đều
được nhận lương y cấp cứu và
được phép mang về nhà ngựa hay lừa
của họ để kịp khởi đầu
vụ canh tác mùa xuân. Tướng Grant đă cấm
binh lính của ḿnh ngược đăi tù binh và ḥ hét
hoan hỷ mừng chiến thắng. Năm 2005, cố Thủ tướng Vơ Văn Kiệt, từng có một lời phát biểu khiến nhiều người bừng tỉnh khi nói về ngày 30/4. Ông trải ḷng trên tuần báo Quốc tế (của Bộ Ngoại giao) trong bài phỏng vấn vào ngày 30/3/2005. Bài báo có tựa đề “Những đ̣i hỏi mới của thời cuộc”. Ông bày tỏ: "Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay v́ lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu ... Đối với Việt Nam, nhất là ở miền Nam, tôi thường biết và hiểu nhiều gia đ́nh đều có hai bên hết. Chính trong thân tộc của tôi, các anh em tôi, các cháu ruột của tôi cũng có số bên này và số bên kia. Cái đó có hoàn cảnh của nó. Có những gia đ́nh một người mẹ có con đi chiến đấu, chết ở bên này và đứa con khác th́ đi chiến đấu chết ở phía bên kia ...". Rồi tiếp đó, đến 30/4/2007, trả lời phỏng vấn BBC, ông Vơ Văn Kiệt lại phát biểu: "Tổ quốc là của ḿnh, dân tộc là của ḿnh, quốc gia là của ḿnh, Việt Nam là của ḿnh, chứ không phải là của riêng của người Cộng Sản hay của bất cứ tôn giáo hay phe phái nào cả ... Hơn 30 năm rồi, năm nay nữa là 32 năm, không có lư do ǵ giữa chúng ta với nhau không ḥa giải được ... Tôi đă đặt vấn đề này và cũng viết trong một số bài rằng có một cách nh́n méo mó từ phía một số người Cộng Sản rằng yêu nước và yêu chủ nghĩa xă hội là đúng, c̣n những người yêu nước khác mà không yêu chủ nghĩa xă hội th́ không yêu nước đủ như ḿnh ... Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ quốc Việt Nam không của riêng một đảng, một phe phái, tôn giáo nào ... ". Ông Vơ Văn Kiệt cho rằng đă tới lúc bỏ lại phía sau những chia rẽ và "chính kiến khác nhau, ư kiến khác nhau là b́nh thường, và điều quan trọng là cần phải có đối thoại, nói chuyện với nhau một cách ṣng phẳng ... Chính phủ không nên áp dụng biện pháp hành chính đi đầu với họ, trừ phi là con người hoặc sự việc đó có nguy hại đối với đất nước, nhưng không được quy chụp người ta ...”. Ngày
30/4/2020, trao đổi với BBC News Tiếng Việt hôm
30/4/2020 từ California, Hoa Kỳ, bác sỹ Bùi Thị
Quỳnh Hoa, con gái của Đại tá Bùi Văn Tùng nói:
"Ngày 30/4, phía Việt Nam Cộng Ḥa ở quốc
ngoại th́ gọi là “ngày Quốc hận”, phía kia
gọi là “ngày Thống nhất, ngày Chiến thắng
…” Thế nhưng ở Mỹ người ta có “ngày
Tưởng nhớ” (Memorial Day), tôi nghĩ câu đấy
là câu vô cùng chính xác cho người Việt ḿnh.
Cần tưởng nhớ mấy triệu người,
con dân Việt Nam, chiến sĩ hai miền đều
chiến đấu thật là dũng cảm, và người
Việt Nam hai miền đều đă nằm xuống
mảnh đất này. Lịch sử hiện nay vẫn
là lịch sử có tính cách hoàn toàn xuyên tạc. Tôi
nhớ một đồng nghiệp của tôi ngày xưa
ông Douglas Pike có nói một cách chua chát rằng là
"lịch sử là một cuộc nói dối tập
thể - a lie agreed upon", một cuộc nói dối mà
mọi người đều đồng ư, tức là
những người chiến thắng đồng ư. Thành
ra, người dân một dân tộc mà không cùng
một lịch sử, th́ không thể là một dân
tộc gắn bó với nhau được. Cho nên
việc xét lại lịch sử để bỏ đi
những sự việc hoàn toàn xuyên tạc là việc
rất là quan trọng, việc lâu dài, việc chắc
chắn sẽ xảy ra”. Cũng
cần nói thêm bà Quỳnh Nga là con gái của ông Vũ Văn Tùng, cựu trung tá chính
ủy, thuộc Quân đội Cộng Sản Việt
Nam từng tham gia “tiếp quản” chính quyền
Việt Nam Cộng Ḥa từ nội các Tổng
thống Dương Văn Minh.
Chiến
xa của Bắc Việt tiến vào dinh Độc
Lập 30/4/1975 Càng
nhận thức càng thêm ngậm ngùi và tiếc
nuối, là tâm trạng của cựu binh Nguyễn
Khắc Toàn 42 năm sau, khi quyết định trở
thành một người hoạt động cho dân
chủ và dân oan ở Hà Nội: “Đi vào miền
Nam dưới khẩu hiệu giải phóng, thống
nhất đất nước, chống Mỹ cứu nước,
nhưng bây giờ nh́n lại cuộc chiến đă
kết thúc cách đây 42 năm th́ rất buồn
bởi đó là cái bi kịch lớn của dân
tộc. Lẽ ra cuộc chiến này không nên có. Đất
nước th́ cần phải thống nhất nhưng
thống nhất bằng con đường ḥa b́nh, thương
lượng, đàm phán như tấm gương
của Cộng Ḥa Liên Bang Đức và Cộng Ḥa Dân
Chủ Đức th́ tốt hơn. Gọi là đi
giải phóng miền Nam mà chế độ miền Nam
và Việt Nam Cộng Ḥa lúc đó đă có đầy
đủ những đặc trưng của một xă
hội tiến bộ, người dân được
tự do làm ăn kinh doanh, một xă hội văn minh.
Tiến hành một cuộc chiến để thu
hồi nốt miền Nam, để nhuộm đỏ
toàn bộ đất nước theo con đường
xă hội chủ nghĩa. Xă hội chủ nghĩa
chỉ là một ảo vọng, chỉ là một
thử nghiệm th́ nay cũng đă sụp đổ
hết”. Đọc
được từ một nữ bộ đội
miền Bắc, sau này là nhà văn nổi tiếng Dương
Thu Hương:
“Lần thứ nhất khi đội quân chiến
thắng vào Sài G̣n năm 1975, trong khi tất cà mọi
người trong đội quân chúng tôi đều
hớn hở cười th́ tôi lại khóc. V́ tôi
thấy tuổi xuân của tôi đă hy sinh một cách
uổng phí. Tôi không choáng ngợp v́ nhà cao cửa
rộng của miền Nam, mà v́ tác phẩm của
tất cả các nhà văn miền Nam đều
được xuất bản trong một chế độ
tự do; tất cả các tác giả mà tôi chưa bao
giờ biết đều có tác phẩm bầy trong các
hiệu sách, ngay trên vỉa hè; và đầy rẫy các
phương tiện thông tin như TV, radio, cassette.
Những phương tiện đó đối với người
miền Bắc là những giấc mơ”. Một
bà sơ tại B́nh Thuận là giám đốc một mái
ấm t́nh thương tiếp chuyện phóng viên BBC
News Tiếng Việt qua điện thoại, kể
rằng năm 1975, bà mới là nữ tu 20-21 tuổi,
đến giờ vẫn không quên cuộc vật đổi
sao dời. "Các ngài chết trong chiến trận,
rồi thời cuộc đổi thay, mộ các ngài
bị bỏ hoang. Tôi cùng các sơ ở đây quy
tập về, khâm liệm tươm tất, mồ
mả đàng hoàng," bà chia sẻ. Năm 2000, bà cùng
các sơ tại mái ấm t́nh thương bắt đầu
quy tập các mộ phần vô danh. Đến năm
2003, bà phát hiện các khu nghĩa trang hoang phế
của quân đội Việt Nam Cộng Ḥa và một
hành tŕnh mới bắt đầu. Chúng tôi quy tập
mộ cho những người tứ cố vô thân,
chứ không chỉ quân nhân VNCH. Bà kể: "Đa
phần là mộ vô danh. Chỉ một số ít có bia
hoặc có thẻ bài th́ mới xác định danh tính
được." "Khi đưa các ngài về
đây, chúng tôi tổ chức tang lễ trang
trọng," bà nói. Các ngôi mộ ở đây đều
có màu xanh, và được đặt tên là
"mộ t́nh thương". Ở
đây luôn có khói nhang, có hoa và người thăm
viếng," bà nói khi đứng giữa những ngôi
mộ màu xanh được đặt tên là
"mộ t́nh thương". Đa phần
"mộ t́nh thương" là của tử sĩ
VNCH, có hàng trăm ngôi mộ như vậy được
cải táng về đây. Những con người đă
ra đi trong "cuộc chiến 10,000 ngày", họ
chết trong bom đạn, trong khói súng. Sau khi được
các sơ và người thân t́m kiếm hài cốt,
họ mới thực sự được an nghỉ.
Họ nằm bên nhau, bốn bề cây cối, núi đồi
chở che. Những ân oán của cơi dương gian không
c̣n quấy rầy họ. Chiến tranh Việt Nam,
một trong những cuộc chiến tranh thảm
khốc nhất thế kỷ XX, để lại
mất mát cho tất cả các bên. Quân nhân tử
trận, dù là của Việt Nam Cộng Sản,
Việt Nam Cộng Ḥa hay Mỹ th́ đều c̣n
rất nhiều người mất tích, nằm lại
nơi rừng sâu, hoặc dưới những ngôi
mộ vô danh. Tuy
nhiên, trong khi hai nhóm kia được các chính quyền
tổ chức kiếm t́m với nguồn tài lực,
vật lực, công nghệ đồ sộ th́
những quân nhân VNCH tử trận, ở về phía bên
thua cuộc và chính thể mà họ phụng sự không
c̣n nữa, bị đẩy ra bên lề của các
mối quan tâm ḍng chính. Các cuộc t́m kiếm hài
cốt lính VNCH hoặc quy tập, sửa sang mộ
phần ở các nghĩa trang bị bỏ hoang thường
được tiến hành trong thầm lặng, lễ
tưởng niệm được tổ chức kín
đáo, tránh sự để ư của chính quyền.
Cho đến hôm nay, 45 năm đă trôi qua kể
từ khi chiến tranh kết thúc, những nỗi lo
sợ vẫn c̣n ám ảnh nhiều quân nhân, người
thân trong hành tŕnh t́m kiếm hài cốt. Có rất
nhiều những uẩn ức, những nỗi niềm
trong các cuộc kiếm t́m. Bà sơ ở B́nh Thuận
đă khóc khi nói về thân phận những người
lính trong các mộ phần ở nghĩa trang bị
bỏ hoang. "Các ngài có người chết từ năm
1960, có người chết sau đó. Hơn nửa
thế kỷ rồi, phải có ai chăm sóc
chứ," bà chia sẻ. Năm 2007, nhà thơ Linh Phương,
người từng được biết đến
với bài thơ "Để trả lời một câu
hỏi" được nhạc sĩ Phạm Duy
phổ thành bài hát "Kỷ vật cho em" rất
nổi tiếng, đă viết những ḍng đầy
day dứt: Những người lính
Bắc Việt chết - đều được
trở về nhà Những người lính
Mỹ chết - đều được trở về
Tổ quốc Những người lính
Việt Nam Cộng Ḥa chết
- vẫn c̣n nằm nơi rừng thiêng, nước
độc
Các
"ngôi mộ t́nh thương" của quân nhân VNCH
tại B́nh Thuận 45
năm sau sự kiện 30 tháng 4, tướng Nguyễn
Chí Vịnh có cuộc tṛ chuyện với truyền thông
trong nước và ông cho rằng tiến tŕnh hoà
hợp dân tộc đă hoàn thành. Ông nói: “Quan điểm
của tôi là chúng ta đă thành công. Thành công nhờ
chính sách khoan dung của đảng và Nhà nước.
Nhưng quan trọng nhất là nhờ sự phát
triển của đất nước. Nó chứng minh
chiến thắng ấy đem lại cho đất nước
ta một sự phát triển mới mà không người
dân Việt Nam nào cũng như bạn bè quốc
tế không nhận thức được. Tôi cho là như
vậy”. NHỮNG NGƯỜI
RỜI BỎ QUÊ HƯƠNG Một
số người Việt rời Việt Nam đi
tị nạn kể từ sau năm 1975 nói với VOA
rằng họ chưa về lại lần nào,
“vẫn sẽ không về nếu đảng Cộng
Sản vẫn c̣n cầm quyền ở Việt Nam” và
mô tả điều mà họ cho là “t́nh h́nh tối tăm”
ở trong nước hiện nay. Tháng Tư này đánh
dấu tṛn 45 năm ngày Sài G̣n sụp đổ mà chính
quyền Hà Nội gọi là “ngày thống nhất
đất nước”, nhưng hàng triệu người
Việt phải bỏ nước ra đi lánh nạn
chế độ Cộng Sản xem là ngày “ngày
quốc hận,” với làn sóng di tản ồ ạt
của nhiều người Việt, mà phần đông
là đến Hoa Kỳ. Đài
VOA đă liên lạc với hai người trong số
đó là ông Đinh Hùng Cường, hiện sống
ở tiểu bang Virginia, và ông Vơ Thành Nhân, hiện
sống ở bang Maryland, để t́m hiểu lư do v́
sao hai ông quyết định không về Việt Nam. Ông
Đinh Hùng Cường, trước năm 1975 nguyên là
Quận trưởng Quận Thủ Thừa và có tham
gia một trong những trận chiến cuối cùng
với quân Bắc Việt vào những ngày cuối tháng
Tư năm 1975, cho biết cả gia đ́nh ông ‘đều
chống Cộng’. Ông nói trong 45 năm qua, những người
thân của ông c̣n lại ở Việt Nam như cha
mẹ, anh em hay thân hữu “đa số đều
đă chết hết rồi” và mỗi lần có người
thân qua đời ở Việt Nam, ông đều không
về dự tang. “Tôi không về khi người thân
qua đời bởi v́ tôi không bao giờ tin tưởng
Cộng Sản”, ông nói. “Mặt khác, tôi là người
chống Cộng ở hải ngoại nên nếu tôi
về sẽ bị họ làm khó dễ nên tôi quyết
định không về.” Ông Cường, từng là
chủ tịch cộng đồng người Việt
Quốc gia tại vùng Washington D.C., Maryland và Virginia, nói
việc ông không về nước cũng là “một cách
đối kháng với chính quyền Cộng Sản”. C̣n
ông Vơ Thành Nhân, đại diện của Đài
truyền h́nh SBTN tại vùng thủ đô Washington D.C.,
nói một trong những nguyên nhân chính khiến ông không
về nước trong 40 năm qua là v́ ông “sợ lá
cờ Việt Cộng”. “Về nước sẽ nh́n
thấy nhiều cờ Việt Cộng, những bích chương,
biểu ngữ họ tuyên truyền nên tôi không thích,”
ông Nhân, người vượt biên sang Mỹ vào năm
1980 khi ông mới 23 tuổi, nói với VOA. Một
câu chuyện mà đến hôm nay người phụ trách
mới đọc được là câu chuyện
của ông Bùi Kiến Thành. Ông sinh năm 1931 ở
Quảng Nam là con cả của bác sĩ Bùi Kiến Tín,
một doanh nhân - nhân sĩ uy tín ở Sài G̣n trước
năm 1975. Ông là một trong số không nhiều
doanh nhân từng sống dưới nhiều chế
độ và có cơ hội chứng kiến những
biến động dữ dội của lịch sử.
Năm 1954, ở tuổi 23, ông Bùi Kiến Thành
được mời về nước làm việc cho
Thủ tướng Ngô Đ́nh Diệm và cố vấn
Ngô Đ́nh Nhu. Năm 1956, ông trở lại Hoa Kỳ
học nâng cao và thành lập Văn pḥng Đại
diện Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Những mâu
thuẫn trong nội bộ của Chính phủ Việt
Nam Cộng Ḥa kéo dài và ngày càng sâu sắc khiến
quyền lực của Tổng thống Diệm bị
lung lay. Đỉnh điểm của những mâu
thuẫn đó là cuộc đảo chính lật đổ
chính quyền Ngô Đ́nh Diệm do các tướng lĩnh
Việt Nam Cộng Ḥa thực hiện với sự làm
ngơ của Hoa Kỳ vào ngày 1/1/1963. Kết thúc
cuộc đảo chính đó, những người thân
tín của ông Diệm bị liên lụy. Ông Bùi
Kiến Thành bị bắt nhốt gần hai năm.
Rồi ông cũng có cơ hội trốn thoát và vượt
biên năm 1965. Định cư tại Pháp, ông làm
đủ nghề để mưu sinh rồi trở thành
một doanh nhân đầu tư bất động
sản tại miền Nam nước Pháp. Doanh nghiệp
của ông có ảnh hưởng rất lớn trong
cộng đồng người Việt tại Pháp. Đầu thập niên
1980, ông được Chính phủ Việt Nam liên
hệ mời tư vấn cho tiến tŕnh đổi
mới nền kinh tế đất nước. Năm
1991, ông trở về Việt Nam tham gia các chương
tŕnh nghiên cứu chính sách kinh tế và chính thức
sinh sống tại quê nhà từ năm 1993. Bằng
tri thức, uy tín và các mối quan hệ, ông cũng
đă góp công trong tiến tŕnh b́nh thường hóa
quan hệ Việt - Mỹ và đề xuất cũng
như tham gia rất nhiều chương tŕnh kinh
tế chiến lược. Ông từng tham gia tư
vấn về nhiều chính sách kinh tế - xă hội
cho Chính Phủ Việt Nam qua ba đời thủ tướng
là Vơ Văn Kiệt, Phan Văn Khải, Nguyễn
Tấn Dũng. Điều ngạc nhiên là dù khác nhau
về ư thức hệ, về phương pháp luận
nhưng Bùi Kiến Thành luôn đưa ra được
giải pháp để những người cầm
quyền có thể chấp nhận và vận dụng
một cách có hiệu quả, đưa nền kinh
tế Việt Nam thoát khỏi những khúc cua một cách
ngoạn mục. Ông Bùi Kiến Thành được
phỏng vấn nhân ngày 30/4/2020. Ông nói: “Giờ đây,
ở độ tuổi U-90, con cháu đều thành
đạt và định cư ở nước ngoài nhưng
ông vẫn chọn Việt Nam để sống.
Được hỏi: “Là một trong số những
người hiếm hoi sống qua nhiều chế độ,
bây giờ bác nghĩ ǵ?”. Ông trầm ngâm trả
lời mà như tự hỏi: “Ba chục năm
chiến tranh, tiếp theo là 10 năm bao cấp, và
tiếp theo là 20 năm đổi mới để
học hỏi các phương thức hội nhập
với nền kinh tế thị trường và ḥa
đồng cùng với các chế độ dân chủ,
tự do, ta đă học được những ǵ?
Việt Nam đang đứng trước ngưỡng
cửa mới. Nhân ngày 30 tháng 4, người Việt chúng
ta, bất kỳ ở nơi nào, cũng nên kiểm
điểm lại những cơ hội đă bỏ
lỡ, những quyết định sai lầm và rút
kinh nghiệm để phát huy đến đỉnh cao
nhất nền độc lập, tự do, dân chủ,
để đồng bào ta trong nước và khắp nơi
trên thế giới luôn đoàn tụ dưới
một mái nhà chung, tôn vinh tổ tiên, động viên
con cháu, vui vầy hạnh phúc ... Lịch sử không bao
giờ dừng lại, chúng ta không thể quay ngược
bánh xe lịch sử nhưng suy ngẫm về nó
một cách cẩn trọng để khỏi lặp
lại những sai lầm của quá khứ là điều
rất cần thiết”. Đó cũng là tâm niệm
của ông Bùi Kiến Thành, một doanh nhân, một tri
thức gắn với vận mệnh của đất
nước. THẾ
HỆ TRẺ Nhà
văn Lê Hữu Nam, 34 tuổi, cây viết trẻ
nhiều sách được công chúng đón nhận như Con đến như
một phép màu, Mật ngữ rừng xanh, Xứ mộng
hồn hoa ... chia sẻ với BBC News Tiếng
Việt từ Sài G̣n hôm 29/4: "Thuộc thế
hệ sinh ra sau cuộc chiến và được giáo
dục bởi những người thắng cuộc, tôi
được dạy ngày 30/4 lúc bấy giờ là “ngày
giải phóng - ngày thống nhất đất nước”.
Tuy nhiên, khi đọc nhiều hơn, gặp gỡ và
tiếp thu hơn, tôi nhận ra rằng người
miền Nam trước 30/4/1975 đă có một chính
quyền chính danh, họ hưởng một nền
độc lập với một nền Cộng ḥa
hợp pháp, như người dân miền Bắc
với nhà nước Xă hội chủ nghĩa. Đối
với tôi bây giờ, gọi 30/4 là ngày “thống
nhất đất nước” th́ chưa chính xác.
Theo nhà văn, "là một người luôn quan tâm
đến những ǵ đă và đang xảy ra trên
đất nước ḿnh, ngày 30/4 với tôi là
một ngày buồn". Nhà văn Lê Hữu Nam chia
sẻ dấu mốc dẫn tới những đổi
thay nội tâm của anh: "Vào ngày 30/4 năm mười
bảy tuổi, tôi đến nhà một cậu bạn
chơi, th́ thấy ba cậu ta đang ngồi uống rượu
và khóc một ḿnh. Tôi mới hỏi tại sao, th́
cậu ta giải thích do ba cậu ngày xưa là
“ngụy” nên ông xem đây là ngày “mất nước”.
Từ đó h́nh ảnh một người đàn ông
gầy g̣, hiền lành nhưng đến ngày 30/4
chỉ uống rượu và khóc đeo bám tôi, gợi
cho tôi những câu hỏi. Liệu đây có thực
sự là “ngày chiến thắng” không, nếu là
“chiến thắng” th́ tại sao một dân tộc
lại có người cười, kẻ khóc? Từ
đó tôi luôn cố gắng t́m hiểu nhiều hơn
từ hai phía, và không c̣n xem 30/4 là ngày vui của dân
tộc nữa". Nguyễn
Vi Yên, 25 tuổi, nhà hoạt động xă hội và
hiện là chủ nhiệm nhóm Tinh thần Khai Minh,
hiện đang sống ở Philippines, chia sẻ
rằng dù sinh sau chiến tranh nhưng "trong cả nhà
nội lẫn nhà ngoại đều có những người
đă hy sinh cho nền độc lập của Việt
Nam Cộng Ḥa". Vi Yên cho biết: "Trong những
buổi chuyện tṛ nhắc nhớ thời xưa cũ,
ba má tôi thường kể về biến cố
30/4/1975 như một vết thương khó lành gây ra
bởi sự khắc nghiệt của chiến tranh,
vốn được tô vẽ bởi ngôn từ và lư
tưởng. Song họ không gởi gắm vào chúng tôi
bất cứ t́nh cảm yêu ghét hận thù nào. Có chăng,
câu chuyện cũng chỉ mang hơi hướm
luyến tiếc một cái ǵ đó đẹp đẽ
đă vĩnh viễn mất đi". Lớn lên trong
một gia đ́nh như vậy, Vi Yên xem "biến
cố 30/4 được khắc họa như một
sự kiện lịch sử của dân tộc giữa
vô vàn sự kiện khác". Nhà
quan sát thời cuộc Quang Hữu Minh từ Sài G̣n
nhận định: “Sự kiện 30 tháng 4 chỉ
thống nhất được lănh thổ chứ không
thống nhất được ḷng người. Đến
bây giờ nó vẫn là như thế. Theo tôi thấy,
chính sách thời hậu chiến của ĐCSVN về
ḥa hợp ḥa giải dân tộc đến nay vẫn
chưa thành công. Việc cần làm đầu tiên là
phải bỏ khái niệm “giải phóng” trong
lịch sử đối với ngày 30 tháng 4 đi.
Chuyện quá khứ ḿnh không nói nhưng bây giờ
nếu dùng từ “giải phóng” có nghĩa mặc
nhiên ĐCSVN thừa nhận miền Nam Việt Nam
thuộc về miền Bắc lúc đó th́ mới có
vấn đề giải phóng. Cái thứ hai là nhà nước
sau phải nhận trách nhiệm của nhà nước
trước. Nếu bỏ khái niệm “giải phóng”
th́ đây chỉ là cuộc nội chiến và nhà nước
sau phải có trách nhiệm với những thương
phế binh VNCH. Nếu làm được hai điều
đó th́ nó sẽ tác động căn cớ đến
ḥa hợp và ḥa giải dân tộc. Và cần phải
có chính sách, tư duy then chốt chứ không thể
chỉ ḥa giải trên báo, ḥa hợp trên miệng
được.” Người
phụ trách có 3 cậu con trai và 2 đứa cháu
gọi bằng Bác. Khi gia đ́nh rời Việt Nam năm
1975 th́ cháu trai đầu mới 6 tuổi. Trong năm
2019, các cháu lần đầu tiên về thăm
Việt Nam, không hỏi ư kiến vợ chồng tôi mà
dù có hỏi th́ chúng tôi cũng sẽ để cho các
cháu tự quyết định. Các cháu đă có
những trải nghiệm tốt đẹp tại Nha
Trang, Đà Lạt, Sài G̣n và quyến luyến với các
anh chị em họ tại Nha Trang. Về lại Hoa
Kỳ, cô con dâu tôi, một giáo sư Anh Văn tại
Hoa Kỳ, có viết một bài trải nghiệm
bằng tiếng Anh nhan đề “The price of Freedom” và
sau đó dịch sang tiếng Việt đăng trên báo
Người Việt. Đặc biệt, tôi có một
đứa cháu gọi tôi bằng Bác. Cháu sinh tại
Hoa Kỳ, không biết nói một chữ tiếng
Việt mà cho đến năm nay đă về Việt
Nam mổi năm một lần trong suốt 5 năm
vừa qua. Bà con nghĩ rằng cháu bị các cô gái
Việt Nam hớp hồn nhưng trong những lúc tâm t́nh
giữa 2 bác cháu với nhau, cháu nói rằng mổi
lần về cháu đều có ghé Thái Lan, Hồng Kông,
Đài Loan. Cháu nhận xét ở các quốc gia này khá
hơn Việt Nam nhiều nhưng trong ḷng cháu tại
Việt Nam vẫn có những t́nh cảm trong tâm mà cháu
không giải thích được. Những lần 2 bác
cháu nói chuyện với nhau, tôi vẫn thường
lắng nghe để cho cháu nói ư nghĩ của ḿnh.
Cháu thấy rơ những điều không vừa ḷng
tại Sài G̣n. Trong thời gian ở Việt Nam, cháu thích
sống như những ông Tây ba lô, thích những món
ăn đường phố và có một bộ h́nh
ảnh đầy đủ các quán ăn bụi đời
tại Sài G̣n. LỜI
KẾT Tôi
chỉ là một sĩ quan trung cấp của Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa. Sinh trưởng tại
miền Nam, chúng tôi chiến đấu cho sự tự
do của miền Nam. Chiến tranh đến một lúc
nào đó cũng phải chấm dứt. May mắn
được qua Hoa Kỳ từ năm 1975, làm
việc hết sức để tạo dựng một
cuộc đời mới trên quê hương thứ hai
của ḿnh. Năm 2005, tôi quyết định về hưu
để làm vài chuyện trong đời ḿnh muốn làm.
Trong vài lần hiếm hoi nói chuyện với vài người
bạn thân, tôi phân biệt rơ ràng dân tộc và
chế độ. Dân tộc Việt Nam vẫn luôn luôn
trường tồn c̣n chế độ chỉ là giai
đoạn. Năm
nay đánh dấu 45 năm nước Việt Nam
được sống trong ḥa b́nh, nhưng đâu
đó mỗi gia đ́nh Việt Nam đều có câu
chuyện đau thương để kể. Có
những nỗi niềm vẫn cứ gợn lên trong ḷng,
dù ở phía bên nào. Thuyền
nhân vượt biển Những
lời nói gần đây của ông Nguyễn Chí
Vịnh vẫn mang vẻ kiêu căng của kẻ
thắng cuộc. Cho đến nay, vẫn
chưa có ḥa giải ḥa hợp dân tộc thực
sự giữa chính quyền bên thắng cuộc với
người Việt ở nước ngoài. Tôi
đọc cuốn sách “Bên thắng cuộc” của
nhà văn Huy Đức nhiều lần. Chỉ mượn
lời của ông Chu Hảo, Nhà Xuất bản Tri
Thức, Hà Nội, Việt Nam: “Có công minh lịch
sử mới có ḥa giải dân tộc thực sự.” Việt
Nam đă đạt được sự ngưỡng
mộ của thế giới trong việc đối phó
với đại dịch COVID-19. Trả lời kênh
truyền h́nh BBC World News vào ngày 29/4, Thứ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Phương Nga nói chính phủ
Việt Nam đă "chiếm được niềm
tin và sự ủng hộ của toàn dân trong nước”.
Chỉ cần thêm một vài hành động tượng
trưng đối với người Việt hải
ngoại như tuyên bố Nghĩa trang Quân đội
Biên Ḥa là di tích lịch sử quốc gia, sự kính
trọng của các tướng lănh VNCH tuẫn tiết
ngày 30/4/1975 th́ sự ḥa giải có thể xảy ra
trong thời gian rất ngắn. Nếu
phải
đợi 1,2 chục năm nữa khi những thành
phần dính dáng đến cuộc chiến, quốc
nội cũng như hải ngoại, chết đi
để cho những thế hệ tiếp nối
sẽ giải quyết vấn đề trong t́nh tự
dân tộc th́ đó cũng là chuyện sẽ phải
xảy ra dù rằng rất nhiều cơ hội đă
bị những người có trách nhiệm hiện nay
bỏ lỡ. THAM
KHẢO 1)
You
Tube: Thành phố Sài G̣n 30/4/2020. 2)
Bài
viết “Hồi
tưởng của cựu binh miền Bắc 42 năm
sau chiến tranh” của Thanh Trúc, phóng viên RFA ngày
27/4/2017. 3)
Bài
viết “30/4: Người Việt trẻ hải
ngoại và hành tŕnh t́m bản sắc” của tác
giả Lê
Viết Thọ trên đài BBC News Tiếng Việt ngày
29/4/2020. 4)
Bài
viết “Người Việt trẻ gọi 30/4 là
một biến cố buồn” của tác giả Bùi
Thư trên mạng BBC News Tiếng Việt ngày 30
tháng 4 2020 5)
Bài
viết “Con
gái Đại tá QĐND: 30/4 hăy gọi là ngày Tưởng
niệm” của
tác giả Lê
Viết Thọ trên đài BBC News Tiếng Việt ngày
29/4/2020. 6)
Bài
viết “Bùi
Kiến Thành - vị doanh nhân đi xuyên qua nhiều
chế độ” của tác giả Phan Thế Hải
trên
mạnh Doan Nhân Sài G̣n ngày 1/5/2020. 7)
Bài
viết “Phải
làm sao để những ai c̣n chưa là bạn chúng ta
thành bạn chúng ta
của tác giả Quốc
Phong trên mạng Viet Times ngày 30/4/2020. 8)
Bài
viết Những
người ‘chưa từng về lại Việt
Nam từ sau năm 1975”
trên đài VOA ngày 30/4/2020. 9)
Bài
viết “Có
đúng là ḥa hợp, ḥa giải dân tộc đă thành
công như lời ông Nguyễn Chí Vịnh?”
của tác giả Diễm
Thi trên mạng RFA ngày 30/4/2020. 10)
Bài
viết “30/4:
Đi tới tương lai từ quá khứ 45 năm trước
thế nào?” của
tác giả Quốc
Phương BBC News Tiếng Việt ngày
30/4/2020. 11)
Bài
viết “Những
ngôi mộ t́nh thương của người lính
VNCH” của tác giả Bùi Thư - BBC News Tiếng Việt ngày 1/5/2020.
|