Nghiệp Hải Hồ Màng Vơ |
Gần
về hưu, ngẫm nghĩ lại thấy mấy câu
thơ cuối trong "Truyện Kiều" của
Nguyễn Du, tôi giật ḿnh; không ngờ nó lại áp
dụng vào đời ḿnh! “Đă
mang lấy nghiệp vào thân, Cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa.”
Tôi
không có tài. Tiếng Anh th́ bập bẹ khi c̣n ở trường
trung học dưới quê. Khi vào Hải Quân (HQ) th́ không
đủ điểm đi học trường OCS (US
Navy's Office Candidate School). Ở Mỹ gần 2 năm nhưng
tôi cũng không có một ngày học tiếng Anh
của giới học đường mà chỉ học
những từ ngữ ngoài phố (street language). Thế
th́ làm ǵ tôi có “tài” mà vào được ngưỡng
cửa đại học? Nhưng… có lẽ tôi vướng
phải cái "nghiệp" mà nghiệp đó đă
đưa đẩy tôi vào trường Hàng Hải Thương
Thuyền để theo nghề đi biển (US Merchant
Marine). Năm
1976, tôi bắt đầu t́m hiểu về
“nghiệp” sông nước. Vào thời đó không có
Internet, không có Google nên muốn t́m tin tức, học
hỏi thêm th́ phải vào thư viện. Nơi tôi
ở là vùng quê - Newton, New Jersey - cách New York City (NYC)
khoảng 100 cây số về hướng Tây. V́ ở
xa thành phố nên nhân viên thư viện vùng nầy không
thuộc hàng thông thái lắm. Khi vào thư viện
hỏi về US Merchant Marine, họ chỉ tôi đến
chỗ đăng đi US Marines (Thuỷ Quân Lục
Chiến)! Tôi đâu muốn đi lính. Tôi vừa
rời khỏi HQ mà! Nhưng sau đó “định
mệnh đă đưa đẩy” tôi đi về
nghề cũ! Định mệnh bắt đầu trên
một chuyến xe bus. Một
hôm khi đang đi xe bus từ NYC về quê, tôi
thấy một anh chàng người Mỹ khoảng 30
tuổi cầm trên tay quyển sách “Nautical Almanac” - sách
giúp định vị trí ngoài biển. Tôi thầm nghĩ:
“À, anh nầy thế nào cũng biết về US
Merchant Marine.” Tôi làm quen, từ đó học hỏi thêm
rất nhiều. Tôi được biết nước
Mỹ có 7 trường Merchant Marine Academy. Ngọai
trừ US Merchant Marine Academy nằm tại Kings Point NY là
dành riêng cho công dân Mỹ, 6 trường kia ở
nhiều tiểu bang khác nhận non-US citizen cũng
dạy tương tự nhau. Kings
Point là do chánh phủ Liên Bang đài thọ (federally
subsidized) tức là sinh viên sĩ quan (SVSQ - cadets) học
miễn phí. C̣n 6 trường kia là do Tiểu Bang
quản trị. Phần lớn chi phí do sinh viên chịu
trách nhiệm. Lúc
đó tôi không phải là công dân Mỹ nên chỉ xin vào
State Academy mà thôi. Tuy nhiên tôi phải dự định
như thế nào để khi ra trường tôi
phải là US Citizen. Nếu không, US Coast Guard (USCG) sẽ
không cấp bằng lái tàu. Sinh viên nam / nữ sau khi
tốt nghiệp một trong những trường trên
sẽ trở thành sĩ quan làm việc trên tàu dân
sự, nôm na là tàu buôn của Mỹ, hay là làm trên
bờ. SV vào trường Maritime Academy đều
phải qua 2 giai đoạn: Thứ nhất là huấn
nhục, thứ hai là văn hoá. THỜI
KỲ HUẤN NHỤC Khi
vào các trường academy trên, cadets đều phải
mặc quân phục, phải qua thời gian huấn
nhục 1-2 tháng tuỳ theo trường. Sau đó
họ sẽ bắt đầu học văn hoá như
chương tŕnh đại học dân sự - tuỳ
theo nghành ḿnh chọn. Loại trường nầy
chỉ đào tạo hai ngành chính. Một là ngành
chỉ huy (deck officer or Mate), hai là ngành cơ khí
(Engineer). Tôi chọn ngành chỉ huy! Trong lúc học, SVSQ
phải tuân theo kỷ luật của quân đội như
tôn trọng đàn anh “quay” đàn em, bị thanh tra
quân phục, tóc tai, điểm danh, sắp hàng chào
cờ...v.v. Chương tŕnh học là 4 năm cộng
thêm 3 mùa hè đi tàu huấn luyện thực tập:
“gơ sét, châm dầu nhớt, học đi ca, định
vị trí…v.v.” Tổng số tín chỉ (credits) mà
cadets cần đạt được khoảng 155-160 trước
khi ra trường. Trước
khi tốt nghiệp SVSQ sẽ tham dự một kỳ
thi toàn khoa để lấy bằng làm việc gọi
là “mates or engineer’s license” do USCG tổ chức
tại khuôn viên của trường vào năm cuối.
Cuộc thi kéo dài khoảng 3-4 ngày. Nếu đậu
tất cả các môn th́ sau khi ra trường cadets
sẽ có hai mảnh bằng. Một là degree chứng
minh họ tốt nghiệp đại học. Hai là
license chứng nhận là họ đă được chánh
phủ Liên Bang chứng nhận (Federal government certified)
để lên tàu Mỹ làm việc. Nếu không đậu
license mà chỉ có degree th́ chỉ được làm
việc trên bờ. C̣n xuống tàu th́ chỉ làm “lính”
vài tháng sau về thi tiếp. C̣n nếu “bựa”
chỉ lo lấy license, mà không có đủ credits để
lấy degree th́ trường sẽ giữ (hold) license
lại cho dù đă đậu license. Sau
khi thông hiểu chương tŕnh, tôi bắt đầu
xin (apply) vào 2 trường thuộc state academy. Một là
trường NY Maritime Academy ở NYC c̣n trường kia
là Massachusetts Maritime Academy ở Cape Cod (Boston). Tôi cũng
phải “trầy da tróc vẩy” thi toán, thi Anh Văn,
liên lạc Thượng Nghị Sĩ lấy giấy
giới thiệu mới có đủ giấy tờ
cần thiết khi nộp đơn. Đă vậy tôi c̣n
mang “bịnh” nghèo và sợ mất tiền
“non-refundable application fee” khi nộp đơn nên tôi
chần chờ. Một hôm bạn Phan H. Hải (K.19)
đến chơi, nói: “Tao sẽ kư tặng mầy cái
check $50 kèm theo application của mầy. Vào pḥng đem
giấy tờ ra đây tao phụ đọc cho.” 3 tháng
sau tôi nhận được giấy mời lên trường
NY State Maritime Academy gọi lên interview. Như trong thơ
dặn, khi đến nơi tôi t́m gặp Commander (HQ Tr.
Tá) Cerny, đương kim là director của Admission
Office. Cũng hên, ông nầy có tham dự chiến tranh
VN, cũng là HQ nên dễ thân mật hơn. Tôi bảo
tôi là cựu SQHQ từng phục vụ HQ 3 (ex WHEC 380 -
Yakutat của USCG) ông ta có cảm t́nh ngay. Sau khi kiểm
soát giấy tờ, nói chuyện bâng quơ về HQ, ông
bảo tôi về đi, chờ thơ của trường.
Hai
tháng sau, tức là khoảng tháng 3 năm 1977, tôi
nhận được thơ của trường thông
báo: “Welcome you to the Regiment of Cadets…” và đồng
thời cho biết ngày “tŕnh diện”. Tôi vào hăng báo
cho xếp biết là sẽ nghỉ việc vào mùa hè.
Đến giữa tháng 7 tôi trả căn nhà trọ, bán
chiếc xe Mustang cũ - mua hùn với người
bạn - gọi bạn bè đến apartment cho hết
đồ đạc trong nhà rồi cuốn gói lên
đường “nhập ngũ”. Hành trang của tôi
chỉ là một cái valise nhỏ chứa đựng
vật dụng cá nhân và đồ lót. C̣n tất
cả quần áo, giày vớ th́ khỏi lo. Trường
sẽ cung cấp quân phục theo tiêu chuẩn “nhà
binh”. Sáng
sớm ngày Chủ Nhật 24 tháng 7, năm 1977, bạn tôi,
ông Đỗ K. Tiếng (K18), t́nh nguyện chở tôi
“nhập trại”. Tôi đang suy nghĩ không biết
đàn anh của Mỹ huấn nhục ḿnh như
thế nào. Tôi vừa lo, vừa run. Lo v́ không hiểu
tiếng Anh như Mỹ, run v́ sợ ḿnh học không
qua khỏi một mùa học mà bị đuổi
nửa chừng lại vác gói về hăng cũ làm “cu
li” tiếp th́ “mấy em cười thúi đầu.”
C̣n chuyện huấn nhục th́ tôi không ớn. Cùng
lắm là giống như VN thôi. Tôi nghĩ ḿnh cứ làm
theo đám đông là OK.
Location
of NY Maritime In NYC, Bronx, Long Island Sound “Tới
cổng trường rồi. Tụi đàn anh đang
chờ mầy ḱa. Ráng lên nha. Một tháng nữa Minh,
Vạn, và tao vào thăm nuôi mầy. Good luck, nha
mậy”.
Ông Tiếng nói xong, quay đầu xe Capri, trở về
trường New Jersey Institute of Technology nơi mà ông ta
đang học. Vừa
xuống xe, một sinh viên (SV) khóa đàn anh chỉ vào
mặt tôi: “You! You follow me to pickup
uniforms and then get a nice and GOOD haircut. You sloppy punk!”
Tôi trả lời: “Yes, Sir”
rồi ngoan ngoăn đi theo một SVSQ đàn anh trước
tôi hai năm. Chức vụ của anh ta là IDO
(indoctrination officer). Cũng cần nói thêm là khoá tôi có
khoảng 200 cadets một nửa là cơ khí (Engineer),
c̣n nửa kia là chỉ huy (Mate). Trong số 200 người,
chúng tôi được chia ra làm 10 trung đội,
mỗi trung đội khoảng 20 cadets do 2 IDO quản
trị. Trung đội chia theo vần ABC. Nếu last name
bắt đầu bằng chữ A th́ chắc chắn
sẽ vào trung đội 1. Tôi họ Vơ nên vào trung
đội 10. Sau
khi lănh quân phục, hớt tóc xong, chúng tôi sắp hàng
vào trung đội của ḿnh, chờ lịnh. Một
anh IDO thấy tôi “không giống ai - người VN
đầu tiên lúc đó”, anh ta tiến đến
gần, đứng trước mặt tôi cách không
đầy 3 inches, mũi anh gần đụng mũi tôi,
nh́n tôi sừng sộ. Tôi đứng thế nghiêm nh́n
vào mắt của anh. Anh ta bảo tôi:
“Don’t stare at me, boy!” Tôi hăi quá nh́n thẳng,
anh ta tiếp: “Go to your room on the
double, throw your hippy pants (quần ống loa), and
your disco shoes (giày cao gót) to a
dumpster. We only wear uniforms here. UNDERSTAND?” “Sir, Yes sir.” Sau
chỉ thị “Fall out - tan
hàng”. IDO cho chúng tôi 10 phút chạy về pḥng thay quân
phục “áo thun, quần shorts, vớ trắng, giày bata
xuống sân trường tŕnh diện, ngay”. Hôm đó,
chúng tôi bị quay từ 8 giờ sáng cho đến lúc
ăn trưa. Sau đó, chúng tôi có 30 phút để
về pḥng làm giường chuẩn bị pḥng,
chờ IDO thanh tra. Cả bọn bị “quần” cho
đến 2300 giờ th́ có lịnh tắt đèn đi
ngủ. Mỗi
ngày chúng tôi thức dậy lúc 0500 giờ, tập
họp điểm danh, chạy tập thể dục
chung quanh trường, ca hát vang trời. Ngày th́ mang súng
đi diễn hành (không có đạn); ngày khác th́
học chèo xuồng (monomoy rowing); ngày th́ xuống tàu
huấn luyện - tại cầu tàu của trường
- học cách kéo dây, chầu dây; ngày th́ lên đài
chỉ huy vẽ lại hoạ đồ của đài
chỉ huy kê khai dụng cụ trang bị trên tàu…v.v.
Ngoài ra chúng tôi phải học thuộc ḷng nhiều bài
hát như: “The Bells of St. Mary’s” (Alma Mater of the Maritime
College); “Anchors Aweigh”…v.v.
NY
Maritime College – Monomoy Rowing Điều
mà tôi nhớ nhất là chuyện học thuộc ḷng bài
Sallyport Saying: “Sir, but men and officers
must obey, no matter at what cost to their feelings. For obedience to
orders, instant and unhesitating, is not only the lifeblood of armies, but
the security of states, and the doctrine that under any conditions whatever,
deliberate disobedience can be justified, is treason to the Commonwealth,
Sir.” Đoạn văn nầy là của Col. G.
Henderson - a British Soldier - viết during American Civil War. Ông
rất ưng ư, nên ra lịnh nhân viên khắc những
chữ đó, mạ vàng, trên cổng đá của
cổ thành tên Ft. Schuyler nằm trong trường
nầy. Tôi phải thuộc ḷng đoạn văn trên
mà lúc đó tôi cũng không hiểu 100%! Xin nói thêm Ft.
Schuyler cũng là nickname ám chỉ SVSQ tốt nghiệp trường
nầy. C̣n
vài chuyện quan trọng nữa mà cadets phải có
đó là trong túi lúc nào cũng phải có “change
for a dollar, và một con dao - knife”. Tiền
lẻ để giúp đàn anh đổi tiền. Dao th́
dùng để cắt dây khi cần - nhất là làm
việc trên tàu. Miệng th́ sẵn sàng tŕnh diện
theo nguyên tắc “nhà binh”. Tức là khi ai gọi tŕnh
diện như: “You. Sound off”
th́ cứ “sủa” thuộc ḷng: “Sir
/ Ma’am: Cadet Vo, fourth-class, Sir / Ma’am”. Tiếng
Anh không cần giỏi trong lúc huấn nhục. Khi IDO
hay SQ cán bộ hỏi ǵ th́ ḿnh chỉ “sủa”
những câu nằm ḷng căn bản như sau: "Sir,
yes, Sir” or “Ma’am, yes, Ma’am", or "Sir, no, Sir” or
“Ma’am, no, Ma’am". "Sir, no excuse, Sir” or “Ma’am,
no excuse, Ma’am". "Sir, I will find out, Sir” or “Ma’am,
I will find out, Ma’am" "Sir, I do not understand, Sir” or
“Ma’am, I do not understand, Ma’am" or “Request permission to
...” Mỗi
ngày chúng tôi bị “quay” từ cách ăn, cách nói, cách
đội nón, xếp quần áo, mang giây giày, thắt
cà vạt, cách làm giường, cách chào... nói chung là
học theo etiquette copied từ US Navy. Khoảng 1 tháng sau
- ngày làm lễ măn khoá huấn nhục - chúng tôi
sắp hàng, đi diễn hành ra sân vận động
để làm lễ “mang pad màu đen, không có gạch
vàng nào cả, đội nón có dây vàng, mang súng, mang
cờ, chào kíếm...”. Sau
lễ xong, tôi đi t́m thân nhân xem có ai đến không?
À có mấy người bạn HQ đây! Tôi mừng
rỡ khi gặp ông Đỗ K. Tiếng (K.18), Trần
P. Vạn (K19), Lợi C. Minh (K.19). Tôi và bạn “đồng
đội” được 3 ngày nghỉ phép để
sau đó trở vào trường học văn hoá. Tôi
theo bạn tôi về nhà Minh ở Queens, NYC. THỜI
KỲ HỌC TẬP VĂN HÓA Tuy
đă qua thời gian huấn nhục, nhưng v́ chúng tôi
là lớp thấp nhất - gọi là Mug (fourth class,
nicknamed Mug - Freshman) - nên khi ra khỏi building là phải
chạy lúp xúp. Không được đi xéo mà
phải đi thẳng 90 độ. Không được
đi tắt ngang mà phải đi ṿng. Khi đến góc
đường là phải bẻ góc (square that corner). Khi
gặp đàn anh, hay SQ cán bộ là phải đứng
lại chào, sau đó chạy tiếp. Mugs chỉ đi
hàng dọc không được cặp kè hàng ngang...
Những luật lệ nầy chúng tôi phải tuân theo
cho đến hết năm đầu. Chuyện nầy
coi như không khó đối với tôi. Bây giờ
đến lúc khó hơn - học văn hoá. Đến
thời kỳ nầy th́ trung đội của tôi phân
tán ra. Chúng tôi phải đi học riêng theo ngành ḿnh
chọn như ngành cơ khí hay chỉ huy. Ngành chỉ
huy có nhiều phân khoa khác nhau nhưng khi ra trường
th́ ai cũng có Bachelor of Science degree. Phân khoa chuyên
về đi tàu gọi là Marine Transportation, c̣n những
phân khoa khác th́ có nhiều “đường binh” hơn
- tức là họ có thể đi tàu, có thể làm trên
bờ trong ngành Metrology and Oceanography, Computer Science
Mathematics. C̣n
ngành cơ khí th́ nếu đi tàu sẽ làm SQ cơ khí,
c̣n khi về bờ th́ xin làm Engineer của nhiều
corporations khác nhau. Ra trường họ đều có
Bachelor of Engineering degree.
NY
Martime Academy Logo Ngành
Marine Transportation học chữ th́ nhiều nhưng
học số như toán, vật lư, hoá học, …v.v. th́
lại ít. Sinh viên với sức học trung b́nh theo
học đông. Tôi th́ v́ cái “nghiệp” sông,
biển nên cũng gia nhập nhóm nầy. Semester đầu
của chương tŕnh nầy chúng tôi phải ghi danh
5 lớp. Lớp mà tôi thích là Calculus I (toán), và Nautical
Science 101 - Operations. C̣n 3 lớp kia (Principle of Economics I,
English Composition I, History 101 - American History I) th́ ... nếu
nói là không thích th́ tôi xạo. Tôi sợ rớt “điên
người” luôn. Sau hơn 1 tháng học, tôi cảm
thấy ḿnh chọn lầm phân khoa! Tôi
phải làm sao? Bỏ học, đáo về quê cũ,
xin trở lại hăng Mack Wayne Plastic Company làm thợ
đúc (molder), hay là xin “Drop American History class”, đến
mùa hè xin vào Community College học dễ hơn. Nhưng
không được v́ mùa hè tôi c̣n phải đi theo tàu
thực tập 2 tháng. Tính tới, tính lui, sau cùng tôi
quyết định ở lại trường tiếp
tục học. Hàng
ngày, sau khi cơm chiều xong, tôi khệ nệ mang
quyển tự điển Anh Việt dầy 5 inches
của Nguyễn V. Khôn do nhà sách Khai Trí xuất
bản, cộng thêm hai quyển “Macro Economics” và
“American History I”, chạy lúp xúp đến thư
viện. Đọc hơn 1 trang American History, tra tự
điển nhiều chữ khó, mất cả tiếng
đồng hồ, vậy mà tôi vẫn chưa hiểu
rơ. Tôi ráng đọc tiếp, cố gắng tra
khảo nhưng vẫn mù mờ. Tôi bèn đổi qua sách
Macro Economics. Ở đó cho đến 2200 giờ th́ thư
viện đóng cửa. Nếu về pḥng th́ 2300
giờ là phải tắt đèn, tôi quyết định
chạy qua lớp học (classroom) mở đèn lên,
học tiếp cho đến gần nửa đêm.
Về pḥng, tôi lén vào pḥng dùng đèn pin ṃ mẫm
đi ngủ. Gần đến ngày thi midterm tôi nhờ
một người bạn Mỹ (Mark Wollman) đến
classroom giải thích những ǵ tôi đọc mà không
hiểu. Nhờ tính kiên tŕ, rồi tôi cũng qua
được semester đầu. Như vậy là tôi
đă hoàn thành được 17 tín chỉ. Đến
semester thứ hai th́ tiếng Anh tôi đă khá hơn nhưng
chương tŕnh học cũng khó dần. Lần
nầy tôi phải lấy 18 tín chỉ, đó là: Eco.
102, Principle of Eco. II. English
102, English Composition II. American
Hist 102, Amer. Civil. II Calculus
II Comp.
Sci. 122, Computer
Sci. I Nav.
205, Terrest. Nav Thấy
English 102, và American Hist tôi mừng. Tôi nghĩ các
lớp nầy là chỉ dạy tiếp lần trước
nên tôi bắt đầu “chĩa mũi dùi” vào
lớp mới lạ - computer. Măi đến lần thi
“hỏa tốc - 15 minute-quiz” tôi mới “tá
hỏa”. Bà thầy dạy English phát bài thi bắt
đầu từ chỗ tôi ngồi - bàn đầu, cho
đến bàn cuối. Khi trở lên, khoảng 10 phút
sau bà thâu bài bắt đầu từ chỗ tôi
ngồi đi xuống dưới. Tôi ngớ người
v́ viết chưa đầy 1/4 trang trong khi đó bà
“required 250 words” - khoảng nửa trang giấy. C̣n
lớp computer th́ lại “thần sầu quỉ
khốc” hơn. Quá trừu tượng mà lại
mất rất nhiều th́ giờ trong pḥng lab. Tôi
cố gắng vượt bực nên đă qua được
2 semesters đầu.
NY
Maritime Training Ship Empire State VI. Displacement 17,000 tons. LOA 565
ft, Beam 76ft, Draft 25 ft., Speed 22 Kts Tính
tổng cộng tôi có được 35 tín chỉ. Sau
đó tôi chuẩn bị đi theo tàu school training ship
đi biển thực tập 2 tháng để lấy thêm
3 tín chỉ nữa. Như vậy tổng cộng là 38
tín chỉ. Đến
tuần lễ đầu tháng 5 năm 78, hè đến,
cả 3 khoá của trường khoảng 500 Cadets, cùng
SQ huấn luyện lên tàu training ship của trường,
ra khơi đi thực tập. Chương tŕnh năm
đó đi Italy, Portugal, và Spain nên ai cũng hớn
hở. Lúc nầy tôi như “cá về với nước.”
Tôi đă từng làm SQ trưởng phiên trên chiến
hạm HQ 3 th́ chuyện đi ca không có ǵ xa lạ. Tuy
nhiên “tôi không ra mặt” mà chỉ làm những ǵ
trong phạm vi và trách nhiệm của ḿnh. Trong 4
giờ đi ca, chúng tôi thay phiên nhau làm quan sát viên,
tập làm thủy thủ vận chuyển lái tàu,
tập làm points cận duyên (định vị trí
của tàu khi thấy hải đăng, núi...), tập
xài hai thước tam giác (triangles), quan sát radar. Có
một lần, tôi nh́n radar muốn học hỏi thêm,
th́ 1 đàn anh bảo tôi: “You don’t know radar, so don’t
touch it. Wanted to try it, let me know”. Tôi bảo “Sir, yes
Sir”. Đàn anh không ai biết tôi đă đi tàu cho
đến một hôm tàu chúng tôi gặp tàu HQ Mỹ! Trong
lúc khoá đàn anh - First Class cadets (seniors) - thực
tập “đánh đèn”, th́ “xui thay” có một tàu
HQ của Mỹ muốn liên lạc với tàu chúng tôi.
Lúc đó khoảng 2000 giờ, trời vừa chập
tối. Tàu chúng tôi đang chạy chung quanh đảo
Mallorca (Đảo của Spain in Mediterranean) cho cadets
thực tập làm points th́ chiến hạm của HQ
Mỹ đánh đèn cho tàu của tôi. Thấy ai cũng
“quíu” hết, tàu không có nhân viên giám lộ, tôi ra
tay nghĩa hiệp: “Sir, if you don’t mind, I will take it
over”. Chỉ làm 1 chuyện nhỏ thôi, tiếng đồn
vang cả trường! Đèn
cờ th́ tôi có khiếu. Tôi nhớ lại đêm 30 tháng
4 năm 75, tôi đă đánh đèn trả lời 1
chiến hạm HQ Mỹ khi họ muốn HQ3 “put out
ladders” cho Đ/Uư Phú lên tàu! Sau nầy tôi mới
biết được Đ/Uư Phú chính là Richard Armitage
- người đă phụ trách dẫn đoàn tàu
HQVNCH qua Phi Luật Tân. Chuyến đi nhớ đời
đó có Tr/Tá Nguyễn K. Triệu (K7) làm Hạm Trưởng
cùng đi với Th/Tá Quyền và những bạn đi
cùng tàu Đ/Uư Vơ H. Thông (K19), Tr/Úy Phan H. Hải (K19),
Thiếu Uư Hoàng (Đà Lạt), …v.v. Đến
năm thứ hai th́ chúng tôi có đàn em (Next class
arrived) chúng tôi không c̣n chạy lúp xúp nữa. Tuy nhiên
năm nay tôi phải lấy nhiều tín chỉ hơn.
V́ không muốn bạn đọc chán với những
chi tiết về các lớp học, tôi chỉ kể
vắn tắt các lớp học cho 3 năm c̣n lại mà
thôi. Năm
thứ nh́ (Total 41 credits): Fall
semester: 19
credits. English
201, Hum. I Language,
Spanish Math
215, Statistics Nautical
Sci 206, Ops II Phys
209, College Phys I Spring
semester:
19 credits. Engr
301, Ship Construction & Stability Language,
French Meteology
311 and Lab; Meteo for mariners Nav301,
Nauti. Astro, Celes. Nav. Phys
210, College Phys. Summer
sea term: 3
credits. Training
ship ports: Montreal, Quebec, Charleston, Ft. Lauderdale, Bahamas... Năm
thứ ba: (Total 44 credits) Fall
semester:
20 credits Acct
301, Accounting I Eco
301, Theo Inter. English
202, Human II Mar.
Trans 201, Mar. Cargo Oper Engr
321, Basic Marine Engineering Naut
304, Rules of the road Nav
311 Princ. Mar. Elec. Spring
semester:
18 credits Eco
303, Money and Banking Eco
401, International Eco. Eco
409 Financ. Anal Mar.
Trans 202, Ocean Trans; Naut
306, Oper III Nav
312, Elec. Nav. Sys. Summer
sea term (last summer sea term):
6 credits. Training
ship ports: Naples, Italy; Lisbon, Portugal, Copperhangan, Denmark. Năm
thứ Tư - last year. Total 33 credits Fall
semester:
17 credits Computer
Science 437, Linear prog & Games Theory Eco
402, Labor Eco Eco
404, Ship management Law
403, Maritime Law Naut
Sci 408, Lic Seminar Nav
402, Advanced Nav Naut
Sci 405, MMO II. Spring
semester: 16 credits Oceanography
411E, Oceanography For Mariners Seminar
in Eco., Mar. Trans Law
404, Maritime Law Mar
Trans. 402, Mar. Trans. Ins. Như
vậy là tôi phải lấy 156 credits. Thời gian là 4 năm
và 3 mùa hè - Summer Sea Term, mà mỗi mùa hè đi thực
tập khoảng 2 tháng. Ngoài mùa hè đi thực
tập, chúng tôi c̣n phải đi gác đêm (Night Watch).
Tùy theo sự chia cắt của “Xử Lư Thường
Vụ” đại đội, chúng tôi thay phiên nhau
trực hàng đêm từ 1800 giờ cho đến sáu 6
giờ sáng hôm sau cho nhiều vị trí khác nhau. Trung b́nh
khoảng 2 lần mỗi tháng, mỗi lần 4
tiếng. Khi nào trúng ca “graveyard” - từ 0200-0600 - th́
sáng hôm sau đi học “ngáp dài”. BUỒN
VUI “ĐỜI THỦY THỦ
NY
Maritime Academy Yearbook Picture - Taken 1980 Những
kỷ niệm buồn vui của thời SVSQ ở trường
NY Maritime Academy rồi cũng đến ngày cuối.
Kỷ niệm mà tôi không quên lúc ở quân trường
là thời gian nghỉ hè sau khi đi tàu thực tập
về. Lúc đó trường đóng cửa 1 tháng cho
sinh viên “nghỉ xả hơi” cho đến mùa
học tới nên kư túc xá (dorms), nhà bàn (food services),
đóng cửa. Gần như hầu hết sinh viên
trở về đoàn tụ với gia đ́nh. C̣n tôi v́
“con bà phước” nên tôi xin trường cho tôi
ngủ trên tàu, c̣n chuyện ăn uống th́ tự túc.
Có một lần tôi lười biếng đi chợ (đi
bộ cách tàu khoảng 3 miles one way), tôi “tử
thủ” trên tàu, ăn ḿ gói “Kung Fu” 1 tuần
lễ. Đến ngày thứ 8 tay tôi run lập cập
khi cầm muỗng. Tôi “teo” quá lội bộ ra
đường chính, mua 2 cái “big mac”, tôi “Dzứt
hết luôn”! Hôm sau là lại sức ngay. Cuối
cùng ngày vui đă đến. Tôi may mắn vượt
qua tất cả các kỳ thi của trường cùng
cuộc thi của USCG nên ngày lễ ra trường, tôi
nhận được hai mảnh bằng chính trong tay.
Một là USCG license chứng nhận tôi “Licensed to serve
as Third Mate of United States Steam or Motor Vessels of Any Gross Tons upon
Oceans.” Mảnh bằng thứ hai là degree của trường
và nhiều certificates khác.
In
HQ 3 Officer’s Mess: L to R: Tr/úy Đức k1/70 (K. 1 ĐB),
Th/Úy Hoàng (Đà Lat), Tr/Uy Xuyên (Đà Lạt), Tr/Uy Màng
K6/69, K. 2ĐB…etc... Tàu HQ 3 neo ở Namyit (Một đảo
của quần đảo Trường Sa – August 74) Nhận
license làm SQ tàu biển đă nhắc tôi một kỷ
niệm lúc tôi c̣n trong HQ. Tháng 5, năm 73 sau khi tốt
nghiệp “Khoá 2 Đặc Biệt Nha Trang” tôi đă
cởi chiếc áo HQ Tr/ úy CB, mà bọn tôi dí dỏm
tự đặt ḿnh là “đám SQ Lưu Đày”
sống ngang tàng nơi sông rạch hay trong đám
Hải thuyền, v.v. để trở thành HQ Tr/úy
của Tuần Dương Hạm Trần Nhật
Duật (HQ 3). V́
mang “nghiệp” sông biển “di truyền” của cha
ông, nên chuyện làm việc trên tàu - sông, biển, dây
cột...- không lạ ǵ với tôi. Sau gần 2 tháng
đi biển - được ông bạn Đoàn X. Sơn
(K.18) huấn luyện - tôi được lên làm SQ Trưởng
Phiên và giữ chức vụ Trưởng Ban Vận
Chuyển. Ban nầy cũng quá dễ đối với
tôi v́ ba tôi làm nghề “đi ghe chài” - loại ghe
lớn chở hàng trong sông rạch miền Nam mà tôi
đă theo phụ cha trong lúc nghỉ hè ở trung
học. Sau khoảng 1 năm trên HQ 3 tôi được
giao phó nhiệm vụ Trưởng Khối Trọng Pháo
/ Vận Chuyển cho đến tháng 5 năm 1975! Ngày mà
tôi nghiêm chỉnh chào quốc kỳ VNCH lần
cuối, trong buổi lễ bàn giao HQ 3 cho US Navy, lúc tàu
chúng tôi cách Manilla không đầy 10 hải lư. Đó là
ca gác sau cùng (last watch) mà tôi “cẩn” trên chiến
hạm. Sau
khi lá cờ Mỹ tung bay trên cột cờ chính (forward
mast), tôi quay sang vị SQHQ Hoa Kỳ nghiêm chỉnh chào
anh ta và nói: “She’s all yours!” Sau đó, tôi lê bước,
ngậm ngùi rời khỏi “đài chỉ huy”.
Exxon
Charleston. LOA: 636 ft, Beam 106 ft, Draft 42 ft. Speed: 16.8 kts.
Displacement: 62,500 tons. New owner 2004 Tưởng
rằng đời Thuỷ thủ đă chấm dứt
từ đó, nào ngờ 6 năm sau, cũng vào tháng 5,
của năm 1981 tôi chính thức trở lại
nghiệp sông biển! Tôi rất vui mừng khi nhận
được tin Exxon đồng ư mướn tôi
với chức vụ Sĩ Quan Đệ Tam - 3 rd mate (SQ
chỉ huy cấp nhỏ nhất). Tôi vác sac marin (sea bag)
đi lêu nghêu dưới cầu tàu, nhưng khi bước
lên hạm kiều (gangway), tôi không sao quên được
h́nh ảnh ngày tôi cũng vác sac marin bước lên
hạm kiều của HQ 3, cũng vào tháng 5, năm 1973
- đúng 8 năm về trước.
Exxon
Long Beach. LOA: 987 ft, Beam 166 ft, Draft 64 ft. Speed: 16.0 kts.
Displacement: 240,000 tons. New owner 2010 Sau
18 năm làm việc (6 năm ở bộ tư
lịnh), và sau nhiều cuộc thi lên cấp của
USCG, cuối cùng năm 1999 tôi đạt được
nguyện vọng cao nhất trong cuộc đời
thuỷ thủ. Năm đó, tôi đậu bằng
Thuyền Trưởng - với “Licensed to serve as Master of
United States Steam or Motor Vessels of Any Gross Tons upon Oceans”.
Khoảng 6 tháng sau Exxon cử tôi làm Thuyền Trưởng
lần đầu tiên trên chiếc tàu tên Exxon Charleston
mà tôi đă làm thuyền phó (chief mate) gần 10 năm.
Đây là cỡ tàu mà dân Merchant Marine của chúng tôi
gọi là Panama class. Lư do là chiều ngang của tàu là
106 ft đủ để đi qua locks của kinh đào
Panama rộng 110 ft. Exxon
Charleston trọng tấn 65,000 tons, dài (LOA) 635 ft, ngang
(Beam) 106 ft, sâu (Draft) 42 ft, vận tốc tối đa:
16.8 gut). Tính ra, trong suốt thời gian làm việc cho
Exxon, chiếc tàu lớn nhất mà tôi được
vinh hạnh đảm nhận chức vụ Thuyền
Trưởng là chiếc VLCC (Very Large Crude Oil Carrier) Exxon
Long Beach trọng tấn 240,000 tons, dài 987 ft, ngang 166 ft, sâu
64 ft. V́ tàu nầy chỉ có 1 lớp vỏ (single-hull
tanker) nên năm 2010 đă ngưng chở dầu và Exxon
đă bán lại cho một chủ nhân khác. Đây cũng
là năm tôi được đổi về hậu
cứ để giữ chức vụ Senior Marine Advisor
cho Tư Lịnh Hạm Đội. Nói là Tư Lịnh
cho oai thôi, lúc nầy Exxon chỉ c̣n lại 4 chiếc tàu
để chở dầu mà thôi. Cuộc
đời ngang dọc rồi th́ cũng có một ngày
“gác mái chèo”. Hiện tại tôi cố gắng duy tŕ
bằng Master license mà USCG đă cấp cho tôi. Mặc dù
không c̣n làm Thuyền Trưởng nữa nhưng Exxon
vẫn muốn tôi đảm nhận những công tác
đặc biệt như những lúc tàu, mà Exxon mướn
chở dầu, bị tai nạn. Tôi
mang ơn Exxon đă giúp tôi đạt được
ước nguyện sau cùng của đời thuỷ
thủ, nên nếu hăng cần “help during an emergency
event” là tôi lên đường ngay. Tôi cám ơn NY
Maritime Academy đă cho tôi cơ hội thực hiện
“nghiệp” sông biển của ḿnh. Và cũng v́
muốn “pay back to school” tôi đă trở về School
Training Ship làm việc - coi như là volunteer - để
dạy lớp “Advanced Navigation” vào 2 mùa hè liên
tiếp. Mỗi lần đi th́ 2 tháng mới về nhà.
Tôi
xin cám ơn tất cả người thân và bạn bè
đă khuyến khích tôi trong lúc “bơ vơ” nơi
cổng trường xa lạ. Cám ơn anh Lương
Q. B́nh (TN SVSQ K21 NT, K.1/70 TĐ, K. 1 ĐB NT), và nhiều
bạn khác, đă khuyến khích tôi viết bài nầy
cho thế hệ sau. Nếu con cháu bạn cần
biết thêm, muốn theo nghề nầy, cứ tự
nhiên liên lạc với tôi qua chủ nhiệm quyển
HTLĐ hoặc qua quý anh phụ trách trang
facebook nầy. Màng Vơ |