Nha Trang – thời tôi mới lớn Phạm Tín An Ninh |
Nha
Trang lúc nào cũng đẹp, nhưng với tôi Nha
Trang đẹp nhất ở vào cái thời tôi mới
lớn. Dường như lúc ấy biển xanh hơn,
bầu trời trong và bao la hơn, đă cho tôi
nhiều mộng mơ hơn. Lúc ấy tôi chưa
biết yêu để hiểu được cái nghĩa
thất t́nh nó ra sao, cái cảm giác “chết trong ḷng
một ít” nó đau đớn đến dường
nào; cũng chưa bước chân lên bến đời
để thấy cuộc đời này không phải
chỉ toàn màu xanh của biển và bầu trời trên
đầu lại có quá nhiều những đám mây
đen. Ngày
ấy, cũng đă có chiến tranh (quê hương tôi
th́ lúc nào lại không có chiến tranh), nhưng dường
như c̣n ở đâu đó, xa lắm. Tôi chỉ
biết người lính qua mấy anh SVSQ Hải Quân,
Không Quân oai phong tuấn tú trong những bộ quân
phục đẹp, mới toanh, thẳng nếp, dạo
phố với t́nh nhân vào những ngày cuối
tuần. Đâu có biết người lính gian khổ,
hiểm nguy và chết chóc ra sao. Khi ấy, Trịnh Công
Sơn cũng chỉ mới viết được
đôi ba bài t́nh ca, chưa có bản nhạc phản
chiến nào, Những bản nhạc viết về lính
lúc ấy cũng dễ thương, hiền lành và lăng
mạn lắm, chưa hề nghe Kỹ Vật Cho Em.
Ngày Mai Đi Nhận Xác Chồng, Anh Không Chết Đâu
Anh, Người Ở Lại Charlie…, nên cũng chưa
biết tiếng khóc năo nùng của những người
góa phụ. Những
chuyện xảy ra trong thành phố thời ấy
hấp dẫn tôi và đám bạn bè hơn. Chuyện
bà (vợ ông) bác sĩ, một mệnh phụ gốc Hà
thành nhan sắc mà mỗi lần trông thấy bà ngoài
phố, chúng tôi đứng lại tṛn mắt trầm
trồ như đang được chiêm ngưỡng
một pho tượng đẹp trong viện bảo tàng.
Chuyện của một bà dược sĩ, có t́nh nhân
là một ông đại úy phi công rất bô trai.
Mặc dù bà có chiếc xe hơi thể thao “trọc
mui” duy nhất ở thành phố biển này, nhưng
bọn tôi thường thấy ông phi công đèo bà sau
chiếc Vespa chạy ḷng ṿng trên đường
Duy Tân, Độc Lập. Cuộc t́nh lăng mạn
ấy rồi cũng đi vào ngơ rẽ. Bà dược
sĩ trở thành phu nhân của một ông tướng
nổi danh, c̣n chàng phi công hào hoa th́ rước về
dinh một cô ca sĩ chuyên hát những bản nhạc
buồn… vào hồn không tên… nào đó. Và “đ́nh
đám” nhất là chuyện t́nh của thầy tôi và
một cô học tṛ. Ông thầy mà bọn tôi thường
gọi là “thầy của những ông thầy khác” và
rất mê nghe ông đọc những bài thơ t́nh lăng
mạn của mấy ông Alphonse de Lamartine, Charles
Beaudelaire, Jacques Préver trong giờ Văn học sử Pháp.
C̣n cô học tṛ cũng rất tài ba, từng có bài
luận văn dài gần 20 trang giấy được
giáo sư nổi danh Thạch Trung Giă cho điểm
tối đa và đọc cho cả mấy lớp cùng
nghe. Không biết có phải nhờ ṿng tay ông thầy
của tôi mà sau này cô trở thành nhà văn nổi
tiếng với tác phẩm cũng bắt đầu
bằng hai chữ Ṿng Tay... Một ông thầy khác mê
đến si t́nh cô học tṛ “hoa khôi” Vơ Tánh, đóng
vai Trưng Trắc trong buổi lễ Hai Bà Trưng.
Những nữ sinh được chọn đóng vai Trưng
Trắc, Trưng Nhị thời ấy đều là
những mỹ nhân “vang bóng một thời”. Thời
ấy dường như chiến tranh c̣n ở đâu
đó, chưa tới Nha Trang, nhưng Nha Trang lại là
nơi có ba quân trường nổi tiếng.
Trung
Tâm Huấn Luyện Hải Quân đă đào tạo
hầu hết những sĩ quan Hải quân ưu tú.
Trong số ấy có rất nhiều đồng môn
của bọn tôi ở Trường Vơ Tánh, một
số đàn anh trở thành những hạm trưởng:
Trần Đức Cử, Phạm
Đ́nh San, Vơ Quang Thủ, Phan Hữu Niệm, Vơ
Văn Bảy…
Trung
Tâm Huấn Luyện Không Quân đào tạo hầu
hết những phi công tài hoa của đất nước,
trong số này cũng có rất nhiều cựu học
sinh Vơ Tánh. Sau này có người lên đến cấp
tướng.
Trường
Đồng Đế, đào tạo hầu hết các
hạ sĩ quan cho Quân Lực và những khóa sĩ quan
hiện dịch, mà một người sĩ quan tốt
nghiệp Khóa 2 đă trở thành một vị anh hùng
trong ḷng bao người dân Việt tha phương:
Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn. (Xa hơn một chút
là Huấn Khu Dục Mỹ, với các quân trường
nổi danh không kém, được thành lập từ năm
1960. Trường Pháo Binh chuyên đào tạo cá sĩ
quan có khả năng toán học, làm “đề lô” và
sau này trở thành các cấp chỉ huy của binh
chủng “ṇng dài”, tạo sấm sét lam khiếp vía
quân thù. Trung Tâm Huấn Luyện Biệt Động Quân,
được những người lính gọi là “Ḷ
Luyện Thép”. Có người c̣n gọi đùa là
“Trung Tâm Tàn Phá Sắc Đẹp.” Một nơi
huấn luyện cho người lính chịu đựng
gian khổ nhất, có khả năng vượt qua
mọi chướng ngại, để có thể
chiến đấu trong những điều kiện khó
khăn nguy hiểm nhất để đánh thắng quân
thù. Ngoài việc đào tạo các chiến sĩ Mũ
Nâu hào hùng, c̣n có các Khóa Rừng Núi Śnh Lấy,
Viễn Thám cho tất cả các quân binh chủng
thiện chiến khác.) Về
văn chương, ngoài một số nhà văn kỳ
cựu như Quách Tấn, Cung Giũ Nguyên, Thạch
Trung Giă, Vơ Hồng, lúc ấy có nhiều nhà văn nhà
thơ nổi tiếng sớm từ đám học tṛ:
Nguyễn Xuân Hoàng, Sao Trên Rừng (Nguyễn Đức
Sơn), Thanh Nhung (Tôn Nữ Nha Trang), Duy Năng
(Nguyễn Hữu Trí)…Nếu tính cả những người
từ các tỉnh lân cận đến học ở Nha
Trang th́ c̣n có Nguyễn Mộng Giác, Nguyễn Thị Hoàng,
Cao Hoành Nhân, Từ Thế Mộng, Trần Hoài Thư,
Sương Biên Thùy (Lê Mai Lĩnh sau này)… Thời
đó, Nha Trang có cô ca sĩ Thúy Vân, tuổi khoảng
14, 15, có ông bố phục vụ trong Lực lượng
Bảo An Đoàn, có tay trống Minh Châu số 1 của
Ban Văn Nghệ Ty Thông Tin , sau này cũng gia nhập
Bảo An, làm sĩ quan Tâm Lư Chiến. Bọn tôi thường
được tham dự những đêm văn nghệ
do Ty Thông Tin tổ chức, nghe ca sĩ Bích Sơn hát bài
Cô Gái Xuân và đóng kịch “Ông Ninh Ông Nang” với
anh hề Ngọc Trai. Được xem phim Chúng Tôi
Muốn Sống , mê ông Lê Quỳnh đẹp trai và bà
Mai Trâm với má lúm đồng tiền và hai lọn tóc
thắt “con rít” thả xuống bờ vai. Thời
ấy cũng có rất nhiều cái tên “mỹ nhân”
truyền tai nhau trong đám học tṛ: Cẩm Vân,
Bạch Yến. Như Bá, Bích Tùng, Mỵ Cơ, Xuân Thùy,
Hồng Nữ, Xuân Hoa, Bích Khuê, Như Ư, Hồng Huê,
Lệ Son, Mỵ Hảo… Và ngay trong lớp tôi cũng
có những giai nhân đă làm khuấy động trái
tim của biết bao ông thầy và cả học tṛ, mà
đến hôm nay vẫn c̣n được bàn căi
rất sôi nổi mỗi lần bọn tôi có dịp
gặp nhau kể lại chuyện xưa: Thúy Liệu,
Minh Châu, Kim Anh, Kim Thoa, Túy Ngọc, Như Bá… Đám
bọn tôi cũng biết danh ông Lê Bá Chẩn, không
phải v́ ông là phó tỉnh mà v́ ông bà có mấy cô
con gái đẹp, từng đóng vai Trưng Trắc, Trưng
Nhị. Và có lẽ không ai mà không biết hiệu
Đông Quang nằm bên tiệm chụp ảnh Mai Ngôn trên
đường phố Phan Bội Châu, bởi mỗi
lần đi qua nh́n thấy chị Thuần Hậu,
sắc nước hương trời, ngồi bên
một cái giá dựng đủ các thứ gươm
đao thời Tam Quốc (?) Thời
đó Nha Trang có khá nhiều nhà sách, nhưng bọn tôi
thường lui tới Nguyễn Lê và Vĩnh An Thành, nơi
nào cũng có cô con gái đẹp. Riêng Nguyễn Lê
thỉnh thoảng có mấy cô bán sách cũng làm điêu
đứng đám học tṛ mới lớn. Nha
Trang lúc ấy có khá nhiều rạp ciné. Rạp Moderne
của ông Bác Ái không hiểu v́ sao đóng cửa
sớm. Rạp Tân Tiến thường chiếu phim
Ấn Độ. Rạp Minh Châu th́ thường có
những đoàn hát cải lương – Dạ Lư Hương,
Kim Chung, Thanh Minh Thanh Nga. Rạp Thạnh Xương th́
chuyên hát bội. Chỉ có rạp Tân Tân và Tân Quang thường
chiếu những phim hay: Cuốn Theo Chiều Gió, Gió
Đồng Nội, Vũ Điệu Trong Bóng Mờ,
Mặt Trời Vẫn Mọc, Lưới T́nh Khó Thoát,
Ben- Hur, The Vikings…Thời nổi danh của các cô đào
Vivien Leigh, Marylin Monroe, Brigitte Bardot, Sophia Loren, Audrey Hepburn,
Elizabeth Taylor, Gina Lolobrigida… Thỉnh
thoảng có các đoàn mô tô bay tŕnh diễn trong Sân
Vận Động. Tôi không c̣n nhớ là trong số người
đẹp biểu diễn ấy có cô Bạch Yến,
sau này trở thành ca sĩ, nổi tiếng với
nhạc phẩm Đêm Đông, theo chồng là ông
nhạc sĩ Trần Quang Hải sang Pháp, để cho
ông nhạc sĩ Lam Phương sáng tác bài Phút
Cuối. Chỉ
c̣n gần em một giây phút thôi. Những
giờ nghỉ học, bọn tôi đạp xe thơ
thần trên con đường Duy Tân, con đường
đẹp nhất của Nha Trang, ngồi dưới
mấy lùm dương, ngắm biển xanh mà nói
chuyện trên trời. Có một đồng bạc
đủ để mua một trái cóc khía ngâm
đường của mấy người đẩy xe
bán dạo. Có khi trèo rào vào Viện Pasteur để hái
trộm mấy trái tra. Nha Trang diễm phúc có ông bác sĩ
Yersin từ Pháp đến lập các viện nghiên
cứu y học, lập Viện Pasteur.Ông đă nằm
lại với Nha Trang. Mộ ông ở Suối Dầu và
tên ông được đặt cho một trong
những con đường “thế giá” nhất Nha
Trang. Hồi
ấy bọn con trai chúng tôi cũng thường nghe nói
đến các “băng”: Băng thằng Liên Xóm
Mới, Băng Thằng Điền, Băng thằng Quách
Thanh, Băng Ḷ Heo…, nhưng không biết các “băng”
này chọc trời khuấy nước ra sao, và
những vị yên hùng này có giống Điền
Khắc Kim, Dũng Đa Kao được nhà văn Duyên
Anh đem vào truyện hay không? Nha trang cũng có
những ḷ luyện vơ của vơ sư Trọng Đăi
hay Huỳnh Tiền ǵ đó, và dưới bờ
biển có Judo Club của anh Hàn Phong Cao, con ông chủ khách
sạn Phụng Hoàng nằm trước ga xe lửa. Sau
này anh là thiếu tá Kỵ Binh Thiết Giáp và làm
quận trưởng ở Phan Thiết. Bọn
tôi thường ghé lại các tiệm chè bên cạnh
Rạp Ciné Tân Tiến, một đồng một ly mà
thấy ḿnh sang lắm. Thỉnh thoảng được
cha mẹ thưởng cho ít tiền mới dám đến
“kéo ghế” ở phở Hợp Lợi, nem Mỹ
Hạnh trên đường Trần Quư Cáp, ḿ Lợi Kư,
sữa đậu nành và Pate Chaud trên đường
Độc Lập. Ngày
ấy đám con trai bọn tôi rất mê đá banh. Nha
Trang có đội Công Chánh với ông bầu Năm. Có
vài lần thi đấu ngang ngửa với các đội
Thương Cảng, AJS Sài g̣n, gồm nhiều
tuyển thủ quốc gia, có thủ môn Phạm Văn
Rạng vang tiếng một thời. Trường Vơ Tánh
bọn tôi cũng có những cầu thủ nổi danh;
các anh Lư Văn Thành, Nguyễn Văn Sự, Ngô
Lam…tham gia trong đội bóng. Những
ngày cuối tháng chạp, bọn tôi rủ nhau dạo
qua chợ Tết. Các gian hàng được bày ra ngay
giữa ḷng đường Phan Bội Châu, từ trước
nhà sách Nguyễn Lê cho đến ngă tư cuối
chợ Đầm. Bọn tôi thường đứng tán
gẫu với cô bạn cùng lớp trông hàng cho mẹ.
Ở tuổi ấy, chúng tôi không c̣n nô nức chờ
đón Tết như thời tuổi thơ, lúc c̣n
sống ở quê. Nha
Trang có chùa Hội Phật Học, nằm trên Mă Ṿng
đường lên Thành. Cách đó không xa, bên sườn
đồi có chùa Hải Đức. Sau này trên đỉnh
núi có xây tượng Phật khá lớn. Trước
ngày khánh thành, mấy ông VC nằm vùng treo sau lưng tượng
Phật lá cờ đỏ sao vàng thật to.Khi cảnh
sát đến lấy xuống, bị nổ lựu
đạn gài sẵn, h́nh như có người
chết hay bị thương. Tôi nghiệp, chỉ có
bọn người man rợ mới lợi dụng
cả tượng Phật để giết người.
Trước đó, tại rạp Tân Tiến, có
lần VC ném lựu đạn làm chết và bị thương
khá nhiều người, Đó là hai lần bọn tôi
biết được, người CS đă đem
chiến tranh và chết chóc đến trong ḷng thành
phố đẹp đẽ hiền ḥa, khuấy động
cuộc sống hồn nhiên yên ả của bọn tôi.
Nha
Trang có nhà thờ đá, có người gọi là nhà
thờ núi, v́ nằm trên đỉnh đồi hướng
ra Ngă Sáu, giữa góc đường Gia Long - Phước
Hải. Những đêm Giáng Sinh, dù không phải người
Công Giáo, bọn tôi cũng rủ nhau đến đây
xem người ta đi lễ, mừng Chúa ra đời.
Sau đó kéo nhau về nhà một thằng nào đó
ăn réveillon.Về sau, trong đám bọn tôi có
thằng mê một cô bé có đạo ḍng, xinh như
mộng, bọn tôi thường nghe nó hát “lạy Chúa,
con là người ngoại đạo, nhưng con tin có
Chúa ngự trên cao…” Cuối cùng nó cũng cưới
được cô bé và hai vợ chồng sống
rất hạnh phúc cho đến bây giờ. Đi
về hướng Đồng Đế, qua khỏi
cầu Xóm Bóng, Tháp Bà Ponagar đứng trên đồi
cao nh́n xuống ḍng sông Cái chảy lững lờ. Di tích
của đế chế Chiêm Thành c̣n lại. Giờ là
nơi để nhiều người đến xin xăm,
cầu nguyện một ân sủng từ bà Thiên Y Thánh
Mẫu Ana hiển linh nào đó. Cũng là nơi
hẹn ḥ, thề non hẹn biển của những
cặp t́nh nhân vào những ngày vắng khách nhàn du. Về
hướng biển có Ḥn Chồng, với dấu bàn
tay in trên tảng đá đă được thêu
dệt thành nhiều huyền thoại, chứng
kiến lời hẹn thề của bao cặp t́nh nhân,
và chắc chắn cũng từng thấm đẫm
nhiều nước mắt của những cuộc t́nh
không trọn. Nhưng
trong tất cả các cái tên để nhớ, bọn tôi
nhớ nhất là tên của những ngôi trường;
Lê Quí Đôn, Kim Yến, Tương Lai, Văn Hóa,
Đăng Khoa, Bồ Đề, Bá Ninh, Vơ Tánh, Nữ
Trung Học, … Ở mỗi ngôi trường, tôi đều
có bạn bè những năm đệ nhất
cấp. Sau này hầu hết đều chuyển sang Vơ
Tánh. Ngôi trường công lập lớn nhất và
nổi tiếng ở vùng duyên hải miền Trung. Nơi
ước mơ của đám học tṛ, đặc
biệt từ những vùng quê như bọn tôi
thuở ấy. Sau
bậc trung học, đám bọn tôi tản mác
khắp nơi. Một số vào Sài G̣n, ra Huế hay lên
Đà Lạt tiếp tục học đại học,
đa số nhập ngũ, vào các quân trường,
rồi ra đi khắp bốn Vùng Chiến thuật.
Chiến tranh ngày càng khốc liệt cuốn chúng tôi
theo như cơn lốc xoáy. Kẻ chết, người
bị thương. Những người may mắn c̣n
sống th́ miệt mài ở các chiến trường
khói lửa. Năm tháng chỉ c̣n có súng đạn và
mục tiêu trước mặt. Nha Trang, thành phố
đẹp đẽ với những hang động
tuổi thơ một thời cũng đành bỏ
lại phía sau lưng. Có c̣n, chỉ trong vài phút giây
hồi tưởng. Rồi ước mơ trở
về sống với Nha Trang sau chiến chinh, khi giă
từ vũ khí, lại đến trong đớn đau
tức tưởi. Cuối tháng 3/75, Cộng sản
chiếm Nha Trang, phủ lên thành phố này cả
một trời tóc tang buồn thảm. Nha Trang không c̣n
đẹp, thơ mộng. Và không c̣n là của chúng tôi.Bọn
tôi phải ra đi, đành ḷng bỏ lại NhaTrang. Thành
phố đẹp đẽ suốt một thời tôi
mới lớn, măi măi chỉ c̣n trong kư ức. Những
người đặc biệt tôi đă nhắc tên.
Một số đă mất, người c̣n lại th́
hầu hết đang sống tha phương, nhưng có
lẽ bây giờ tóc ai cũng bạc. Tôi may mắn
được gặp lại vài người. Ai cũng
tiếc nuối một thời đẹp đẽ,
dễ thương của chính ḿnh, của bạn bè và
của cả Nha Trang, xót xa cho một quê hương
bỏ lại, giờ vẫn c̣n khốn khổ dưới
bàn tay của những người Cộng sản đang
học đ̣i làm những tên trùm tư bản, trên máu
và nước mắt của dân tôi, của những người
Nha trang hiền ḥa dễ thương ngày trước. Phạm
Tín An Ninh
|