NHẠC SĨ LÊ THƯƠNG : Chúng ta đă biết ǵ về phẩm cách, tài năng của ông ? Đặng Phú Phong |
I.
Tóm lược tiểu sử. Từ
khoảng 1933-1934 ở Việt Nam, sự ra đời
của những "Bài hát ta điệu tây" do các
nghệ sĩ tiền phong như Tư Chơi (Huỳnh
Hữu Trung) và Năm Châu (Nguyễn Thành Châu) đề
xướng trên các gánh Trần Đắt và Phước
Cương, gọi là “Âm nhạc cải cách” có
thể được xem như là thời phôi thai
của nền Tân nhạc Việt Nam. Đến
năm 1937, những bài hát này được phổ
biến rộng răi hơn. Tại đài phát thanh Radio
Saigon cũng như tại Hà Nội, Huế, đâu
đâu cũng thấy ca hát theo giọng Tino Rossi, từ
các rạp hát, tiệm khiêu vũ, quán rượu,
đến thư pḥng, gác trọ. Nhiều hăng dĩa
như Béka, đă bắt đầu tung ra thị trường
những bài hát ấy do các cô Ái Liên và Kim Thoa ca. Trong
thế hệ những nhạc sĩ tiên phong của
nền tân nhạc Việt như: Dương Thiệu Tước,
Văn Chung, Lê Yên, Thẩm Oánh, Nguyễn Xuân Khoát, Dzoăn
Mẫn, Hoàng Quư, Hoàng Phú (tức nhạc sĩ Tô Vũ),
Phạm Ngữ… có một nhạc sĩ lấp lánh tài
ba xuất hiện, đó là nhạc sĩ Lê Thương.
Từ những nhạc phẩm Tiếng Đàn Âm
Thầm (1934) và Trưng Vương (1937) sau đó là
Bản Đàn Xuân, Một Ngày Xanh, Trên Sông Dương
Tử, Tiếng Đàn Đêm Khuya, Thu Trên Đảo
Kinh Châu… tên tuổi nhạc sĩ Lê Thương đă
rất quen thuộc, được dân chúng hết
sức mến mộ. Và, sau đó trở nên sáng chói
trên ṿm trời âm nhạc nhờ trường ca Ḥn
Vọng Phu. Bài Ḥn Vọng Phu I (c̣n có tên là Đoàn Người
Ra Đi) ra đời năm 1943. Bài Ḥn Vọng Phu II (c̣n
có tên Ai Xuôi Vạn Lư) năm 1946 và Ḥn Vọng Phu III
(c̣n gọi là Người Chinh Phu Về) viết năm
1947. Tên tuổi của nhạc sĩ Lê Thương vang
dội từ bấy đến giờ (hơn 70 năm)
và vẫn c̣n tiếp nối nhiều thế hệ
nữa. Bút
danh Lê Thương là ông ghép họ của mẹ
với tên con sông Thương, ḍng sông của tuổi
thơ đầy ắp kỷ niệm trong những
dịp nghỉ hè ở một đồn điền
tại Đồng Đăng của gia đ́nh một
người bạn học. Nơi đây ông cũng có
dịp nh́n ngắm tượng đá vọng phu,
nội dung của huyền thoại Tô Thị đă in vào
ḷng ông, để sau này thành một trong những
tố chất làm nên trường ca Ḥn Vọng Phu
bất tử. Nhạc
sĩ Lê Thương tên thật là Ngô Đ́nh Hộ,
sinh ngày 8 tháng 1 năm 1914 tại Yên Viên, Hàm Long, Hà
Nội. Ông mồ côi mẹ từ năm chín tuổi,
cha tục huyền, bốn anh em gồm ba trai một gái,
được bà nội đem về nuôi. Bà nội là
Trùm một họ đạo Thiên Chúa ở khu phố Hàm
Long thời ấy nên Lê Thương được bà
dưỡng dục trong môi trường của gia
tộc sùng đạo. Kiến thức âm nhạc do năng
khiếu bẩm sinh và hấp thụ trong môi trường
nhà Ḍng, chứ không được học ở
một trường lớp nhạc lư nào khác. Khi tu
ở nhà Ḍng ông có tên là Bénilde (theo nhà thơ Huy Trâm)
tu được một thời gian rồi hoàn tục,
1935 ông đi dạy học. Thuở c̣n đi học, Lê
Thương rất tích cực tham gia các phong trào ca hát.
Khoảng năm 1937, khi thuyên chuyển về dạy
học ở Hải Pḥng, ông đă cùng với Văn
Cao, Hoàng Quư, Hoàng Phú, Phạm Ngữ, Canh Thân… cùng
với một số ca sĩ thời bấy giờ thành
lập nhóm Đồng Vọng để sáng tác và hát
phụ diễn cho ban kịch của Thế Lữ
mỗi khi ban kịch này có chương tŕnh biểu
diễn tại Hải Pḥng. Năm 1941 Lê Thương vào
Nam dạy học ở tỉnh Kiến Ḥa và Sài G̣n. Ngày
23/9/1945 Pháp đánh Sài G̣n, ông chạy xuống Mỹ
Tho, theo kháng chiến ở các vùng quê, bị Pháp
ruồng đuổi, phải chạy trốn trở
lại thành phố Mỹ Tho để rồi ngồi tù
vào khoảng cuối 46 qua 47. Cuối 1947 ông được
thả và trở về Sài G̣n. Năm
1938, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tuyên ra Hải Pḥng
diễn thuyết, Lê Thương đến dự và do
thính giả yêu cầu, Lê Thương có tŕnh bày
một bản tân nhạc. Theo cách phân chia của Lê Thương
trong bài viết “Nhạc Tiền Chiến- Lời
thuật của Lê Thương” th́ nền Âm Nhạc
Mới (Tân Nhạc) của Việt Nam bắt đầu
vào thời điểm này: “Năm
xuất hiện chánh thức của phong trào Âm Nhạc
Mới là tháng 3 năm 1938, khi nhạc sĩ Nguyễn Văn
Tuyên từ Saigon ra hô hào tại đất Bắc.”
Ông giải thích thêm : “Ông
Tuyên được thống đốc Nam Kỳ
thời đó là Rivoal trợ cấp để đi
diễn thuyết về âm nhạc cải cách tại
Bắc Hà.”, “Sau đó nhân kỳ hội của trường
Nữ Học Hoài Đức, ông Tuyên c̣n tŕnh bày
nhạc mới tại rạp chớp bóng Palace một
lần nữa. Lần này cử tọa rất tán thưởng
giọng hát của ông trong bài “Bông Cúc Vàng”. Đến
đây báo Ngày Nay, một cơ quan ngôn luận rất
được đọc thời bấy giờ,
mới nhóm khởi việc hô hào và đăng tải
những “tác phẩm đầu” của nền
nhạc mới.”, “Một cái dây bứt động
cả rừng, người ta mới thấy những người
yêu nhạc đăng và xuất bản những bài hát
mới để dùng vào khiêu vũ hay để ḥa
nhạc vui vẻ. Từ
đầu 1939, một số bài nhạc của vài nhóm
đă thấy treo bán tại các hiệu sách.” Tháng
9 năm 1938, trên Báo Phong Hóa do nhà văn Nhất Linh làm
chủ bút đăng các nhạc phẩm như "Bông
Cúc Vàng", "Kiếp Hoa" của Nguyễn Văn
Tuyên, "B́nh Minh" của Nguyễn Xuân Khoát, "Khúc
Yêu Đương" của Thẩm Oánh… Và ca khúc
"Bản Đàn Xuân" của Lê Thương.
Bản Đàn Xuân là nhạc phẩm chính yếu giúp tên
tuổi ông nổi trội lên. Ca từ và âm điệu
của bài này đều mang tính trữ t́nh rất
vừa phải, nhẹ nhàng, quyện với nhau nghe
rất du dương thơ mộng. Âm hưởng ngũ
cung mang tính hoài niệm rất hợp với cách vui xuân
của dân Việt. Xin dẫn nguyên bài để độc
giả lăm tường: “Đàn
xuân tủi ḷng nẩy cung đợi mong/ Reo ai oán trong
khuê pḥng/ T́nh tang tang tính tính t́nh/ T́nh tang tang tính tính
t́nh/ Lạnh lùng hơn gió ngoài đồng/ Ngồi se
chỉ hồng/ Hỏi ai hiểu không/ Tiếng oanh
muốn nhắn lời thay những tiếng ngân/ Như
chiếc bóng người chưa dám nhắc chân/
Chờ tin thơ chim hoàng oanh đưa/ C̣n xa bay trong áng
sương mờ. Đàn
ca cảnh vườn/ Nhủ hoa thả hương/ Hương
hoa luyến theo cung đàn/ T́nh tang tang tính tính t́nh/T́nh
tang tang tính tính t́nh/ Để cùng bay khắp trần
hoàn/ Lời hoa kể rằng/ nhiều đêm rạng
trăng/ Thấy ai ướm má hồng ru những
tiếng êm/Hoa cũng muốn trời cho có trái tim/
Để yêu riêng nhân t́nh hoa/ Và xuân tươi, tươi
đến muôn mùa Đàn
bao tuổi rồi, đàn ca chẳng ngơi/ Bao giây
đứt trong quăng đời/ T́nh tang tang tính tính t́nh/
T́nh tang tang tính tính t́nh/ Của t́nh duyên số
mạng người/ Đàn ca nửa lời/ Để
cung nhẹ lơi/ Có dây nắn tiếng cười dây
nắn tiếng than/ Dây nắn tiếng trầm dây
nắn tiếng vang/ Tuỳ theo dây tơ t́nh tơ duyên/
Và theo dây lưu luyến u huyền.” (http://lyric.tkaraoke.com/
10650/ban_dan_xuan.html) Lời bài hát Bản Đàn Xuân (Lê Thương) [có nhạc nghe] Lê
Thương cũng là nhạc sĩ đi tiên phong trong
thể loại “truyện ca” như Nàng Hà Tiên (1940)
rồi được tiếp nối với Hoa Thủy
Tiên, Lịch Sử Loài Người, Truyền Kỳ
Lịch Sử… Thời kỳ kháng chiến, ông có
soạn một ca khúc rất nổi tiếng Ḷng Mẹ
Việt Nam hay Bà Tư Bán Hàng nói về một bà
mẹ thành phố có các con tham gia kháng chiến. Và bài
hát đó là một trong những lư do Lê Thương
bị Pháp bắt giam vào khám Catinat cùng Phạm Duy và
Trần Văn Trạch năm 1951.
Trần
Văn Khê, Trần Văn Trạch và Lê Thương năm
1949 Từ
khi vào miền Nam năm 1941, Lê Thương phổ
một số bài thơ như Lời Kỹ Nữ (thơ
Xuân Diệu), Lời Vũ Nữ (thơ Nguyễn Hoàng
Tư), Bông Hoa Rừng (thơ Thế Lữ), Tiếng Thùy
Dương (tức Ngậm Ngùi thơ Huy Cận) và
Tiếng Thu (thơ Lưu Trọng Lư). Lê
Thương là nhạc sĩ tiên phong của nhiều
thể loại âm nhạc. Ông thuộc những người
đầu tiên viết truyện ca và đă để
lại những bản truyện ca hay nhất như Nàng
Hà Tiên, Lịch Sử Loài Người, Hoa Thủy Tiên…
Đặc biệt hơn cả là bộ ba Ḥn Vọng
Phu, được xem như một trong những tác
phẩm lớn nhất của tân nhạc Việt Nam. Ngoài
ra, Lê Thương cũng là nhạc sĩ Việt Nam
đầu tiên viết nhạc hài hước với
những bản Hoà B́nh 48 (phê phán sự mỵ dân
đội lốt hoà b́nh), Làng Báo Sài G̣n” (đả
kích báo giới bồi bút, bất tài và ham tiền),
Đốt Hay Không Đốt (châm biếm máu Hoạn
Thư), Liên Hiệp Quốc… Những bản này
được nghệ sĩ Trần Văn Trạch tŕnh
diễn nhiều lần vào thập niên 1940. Lê Thương
c̣n đặt lời cho những bản nhạc
ngoại quốc ngắn như Nhớ Lào (nhạc Lào),
Bông Hoa Dại tức Ô Đuồng Chăm Pá (nhạc
Lào), Ḷng Trẻ Trai (nhạc Hoa Kỳ), Hoa Anh Đào
tức Sakura (cổ nhạc Nhật Bản), Màn Brúc
Đánh Giặc (dân ca Pháp)… Lê
Thương cùng Nguyễn Xuân Khoát, được xem
như những nhạc sĩ mở đầu của ḍng
nhạc dành cho thiếu nhi với những bản
nhạc cho tuổi thơ: Cô Bán Bánh, Con Mèo Trèo Cây Cau,
Thằng Bé Tí Hon, Ông Nhang Bà Nhang, Truyền Kỳ
Việt Sử, Học Sinh Hành Khúc… Thời VNCH ông cùng
nhạc sĩ Lê Cao Phan phụ trách ban nhạc Măng
Non cho trẻ em, phát thanh các truyện cổ tích, khúc dân
ca, bài ca nhi đồng. Nổi tiếng hơn cả là
bài Thằng Cuội: Bóng
trăng trắng ngà Một
bản nhạc lời ca ngây thơ và ngộ nghĩnh: Ông
Ninh Ông Nang: Ông
Nỉnh ông Ninh, ông ra đầu đ́nh Một
bản nhạc rất phổ thông ở các trường
trung tiểu học là bài Học Sinh Hành Khúc: Học
sinh là người tổ quốc mong cho mai sau. Ông
dạy sử địa tại một số trường
trung học tại Sài G̣n và trở thành công chức, làm
việc tại Trung Tâm Học Liệu, bộ Quốc
Gia Gíao Dục của Việt Nam Cộng Ḥa, đồng
thời dạy nhạc sử tại trường Quôc
Gia âm Nhạc Và Kịch Nghệ Sài G̣n. Ngoài âm
nhạc, Lê Thương c̣n gia nhập vào ban kịch
của Thế Lữ năm 1930, và ban kịch Sầm
Giang của Trần Văn Trạch ở Sài G̣n. Lê Thương
đă sáng tác ca khúc cho nhiều kịch bản, và
viết nhạc phim cho hảng phim Mỹ Vân. Ông c̣n
tham gia đóng phim Đất Khổ, trong vai vị Linh
Mục. Phim của đạo diễn Hà Thúc Cần quay
từ 1971-1973, Trịnh Công Sơn thủ vai chính. Lê
Thương lập gia đ́nh cùng một phụ nữ
học ở Pháp về và họ có 9 người con. Ông
cũng có hai người t́nh, người t́nh đầu
là một cô hát ả đào nổi tiếng ở Hà
Nội. Người thứ hai là một vũ nữ
tại Chợ Vườn Chuối Sài G̣n. Ông mất vào
ngày 17-9-1996 thọ 82 tuổi. II.
Ba bài Ḥn Vọng Phu
Nhạc
sĩ Lê Thương( H́nh chụp năm 1948) Trong
sự nghiệp sáng tác của Lê Thương, vượt
hơn trên tất cả là 3 bài Ḥn Vọng Phu
được giới âm nhạc cho rằng về
nhạc thuật, các trường ca nổi tiếng
của Việt Nam như trường ca Con Đường
Cái Quan (Phạm Duy), trường ca Sông Lô (Văn Cao),
Khúc Hát Sông Lô (Đỗ Nhuận) và trường ca
Hội Trùng Dương (Phạm Đ́nh Chương) khó
sánh bằng. Ba bài Ḥn Vọng Phu có thể nói là
một bi hùng ca được viết rất đa
dạng về tiết tấu, cung bậc, âm giai. Ông khéo
léo phối họp một cách rất nhuần nhuyễn
giữa thang âm 7 bậc của phương tây và ngũ
cung của Việt Nam để diễn tả một câu
chuyện dân gian với h́nh ảnh người đàn
bà bế con chờ chồng với tấc ḷng son
sắt để rồi hóa đá. Ông tâm sự: “Lư
do khác thôi thúc tôi viết Ḥn Vọng Phu là do cảm
mến thân phận người chinh phụ qua Chinh
Phụ Ngâm khúc nổi tiếng… Không có ǵ đẹp
hơn bằng cách chuyển cuộc ra đi của người
chồng v́ mối t́nh ngang trái thành cuộc ra đi v́
đại nghĩa, và h́nh ảnh người đàn bà
cũng trở nên hợp hơn, đúng hơn với
người chinh phụ! Người đàn bà luôn luôn
chịu thiệt tḥi. Cần phải trả lại cho
họ cái chức phận thiêng liêng, cao quư ”. (theo
Vương Trùng Dương) Ngôn
ngữ trong Ḥn Vọng Phu là thứ ngôn ngữ
được thăng hoa đầy tính thẩm
mỹ. Lời hát quyện chặt với nốt
nhạc, ăn chắc với tiết tấu trên
từng quăng nhạc; nhịp điệu khi nhanh, khi
chậm, khi hiền ḥa, khi quặn đau thắt ḷng,
khi hùng tráng, khi dồn dập để diễn tả
chính xác đến mức tài t́nh từng nội dung
của từng đoạn ca từ. *-
Ḥn Vọng Phu 1: Đoàn Người
Ra Đi (Hương
Mộc Lan xuất bản lần đầu vào năm
1946) –
Hoàn cảnh và nguồn cơn sáng tác: Theo
lời kể của chính Lê Thương trong thư
gửi cho nữ Bác sĩ Phương Hương năm
1987 (người từng giúp đỡ ông qua cách quà
biếu gửi về từ Mỹ) chúng ta thấy
được ḥan cảnh sáng tác Ḥn Vọng Phu 1 là lúc
ông đi vào Nam, ngang qua
tỉnh Phú Yên bị thu hút bởi tượng
Vọng phu cùng quang cảnh non nước “man rợ”
(sic) ở vùng này để rồi ông h́nh thành “lệnh
vua hành quân trống vang dồn…” Có thể nói
rằng h́nh ảnh tượng đá Vọng Phu ở
Phú Yên là h́nh ảnh chính, động lực chính
ảnh hưởng mạnh nhất trong trường ca
Ḥn Vọng Phu so với những tượng đá
Vọng phu ở nhiều nơi trên nước Việt
nam. Ông giải thích: “Núi Vọng phu ở Phú Yên
tại một vùng địa lư hơi man rợ, thâm u
là đá đẹp nhất, xem từ biển nh́n vào làm
cho tôi cảm mến. …
Nhớ lại năm 1470 đầu niên hiệu Hồng
Đức tại vùng này có "thạch bi sơn"
làm biên giới Việt Nam và Chiêm Thành c̣n sót
lại… Cảnh trí đường đèo quanh co, cây
cỏ um tùm man rợ làm cho dân gian ghi tạc mấy câu
vè siêu thực đầy tính bí hiểm: “Mưa Đồng
Cộ, Gió Tu Hoa, Cọp ổ Gà, Ma Ḥn Lớn” Lời
sơ giải của dân gian kể là: Trên một cao
nguyên nhỏ vùng đèo, thường có mây dày đặc
chỉ cần gọi nhau trên đó là có mưa rớt
xuống (c̣n nhiều di tích dân cổ Chiêm Thành trên
đó) Đường
lên ngọn cao nơi đó, sườn núi bị soi ṃn,
gió biển thổi qua các khúc quanh co, nghe như
tiếng hú âm u. Đó là Mưa Đồng Cộ, gió
Tu Hoa…” “C̣n
Ḥn Lớn th́ nghe như một cái đảo âm u ngang
vùng Phan Rang ǵ đó, có rất nhiều “ma hồi”
đêm cứ lập ḷe nhát các ngư phủ ghé
thuyền tránh gió đến đó qua đêm! Quang
cảnh hú vía của thiên nhiên, trộn vào ảnh
cảm địa lịch qua từng bước
đường nam tiến vẫn ám ảnh tâm hồn
tôi, một cậu trai giàu tưởng tượng
để lúc sống bên bờ kinh Chẹc Xậy
(tỉnh Bến Tre thân mến) phải thể hiện
thành bài Ḥn Vọng Phu 1. Lệnh
vua hành quân trống kêu dồn…” Đó
là những h́nh ảnh tác động trực tiếp
đến ông, và, phần sâu xa nhất trong tâm
thức ông là tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng
Trần Côn. Ông đă trả lời cho tác giả Lê Phương
Chi như sau: “Đồng thời, một xúc tác sâu
xa trong tâm hồn tôi là ảnh hưởng những câu
thơ trong Chinh Phụ Ngâm, đă in sâu vào tiềm
thức khi c̣n ngồi ghế nhà trường: “Chàng
tuổi trẻ vốn ḍng hào kiệt, Tất
cả những ấn tượng đó nằm sâu trong
tâm thức đă từ lâu thôi thúc tôi thai nghén
tạo nên ba tác phẩm Trường ca nhạc cảnh
Ḥn Vọng Phu.” Và:
“Cũng xin thú thật là tôi c̣n chịu ảnh hưởng
sâu xa trong Chinh Phụ Ngâm, cụ thể là: “Trống
tràng thành lung lay bóng nguyệt” Th́
trong Ḥn Vọng Phu I tôi biến thành: Lệnh
vua, hành quân, trống … kêu dồn… Ngoài
sườn non cuối thôn… Và
câu: “Dạ
chàng xa t́m cơi Thiên San” vào
nhạc phẩm tôi đă biến nó thành: Qua
Thiên San ḱa ai tiễn rượu vừa tàn. Với
câu: “Tới
Man Khê bàn sự Phục Ba …” tôi
biến nó thành: Bến
Man Khê c̣n tung gió bụi mịt mùng. Bến
Tiêu Tương c̣n thương tiếc nơi ngàn trùng
… Có
thể nói, những câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm đă
in sâu vào tiềm thức những ngày tôi c̣n học
ở nhà trường. Rồi với những ấn tượng
thắng tích đá Vọng Phu qua truyền thuyết
thiếu phụ ôm con ṃn mỏi trông chồng đến
nỗi hóa đá, đă hằn sâu trong tâm tư tôi,
nay gặp ngoại cảnh núi sông hùng vĩ hiện ra
trước mắt, đó là môi trường thuận
lợi tác thành những giai điệu trong nhạc
phẩm Ḥn Vọng Phu I.” Vậy
là Ḥn Vọng Phu 1 được ra đời năm
1943 tại Bến Tre, nơi ông dạy học.
–
Nội Dung: Nhạc
sĩ Lê Thương muốn xây dựng h́nh ảnh người
chinh phu, chinh phụ tuyệt đep, là biểu tượng
cho sự hy sinh nên trong Ḥn Vọng Phu ông đă bỏ
đi những chi tiết không phù họp với
truyền thống phương Đông. Ông chỉ xây
dựng h́nh ảnh hào hùng của người ra đi
v́ chinh chiến và sự son sắt chờ chồng
của người chinh phụ. Ông nói: “Tất
cả luân lư đông phương hầu như căn
cứ trên lẽ tiết trung của Con Người các
thế hệ, các giai cấp trong một nhân sinh quan sâu
đậm T́nh và Nghĩa. Người
Mẹ ôm con đợi chồng rồi hóa đá
quả là một truyện ly kỳ tuyệt đẹp.
Thành đá đây là thành “chứng quả t́nh thâm, t́nh
vợ chồng chưa toại ḷng nhau đă cách
biệt. T́nh cha con chưa từng ôm ấp đă chia
ly, t́nh đồng loại chưa sum vầy đă tan ră.”(Thư
gửi P.H.) Ở
Ḥn Vọng Phu 1 có 4 câu sau đây mà tôi đồ
rằng đó chính là cái “ch́a khoá” để mở
và dẫn dắt hành tŕnh tâm lư cho cả bài trường
ca: “Chiêng
trống khua trăm hồi, Cuộc
xuất binh đấy thanh thế, trống đánh chiêng
khua, cờ bay phất phới, nhưng, trước khi
âm thanh ấy bừng bừng sấm dậy vang dội
khắp nơi th́ nó lại có một khoảng thời
gian “ngần ngại” như một dấu lặng. Lê
Thương đă hết sức tinh tế, tả chân
cái t́nh huống vừa hùng tráng của phút ra quân,
vừa nỗi ḷng trước cảnh chia ly không
hẹn ngày trở lại. “thắm bao niềm chia phôi”
của kẻ chinh phu và người chinh phụ. Bài hát
viết bằng điệu Nhịp đi, (có thể dùng
điệu Fox) nhanh, hùng tráng, thuộc ton Re thứ;
từng cụm âm thanh liên tục, dồn dập, xô
đẩy nhau diễn tả thật trọn vẹn cái
khí thế trong lúc xuất binh… đến phần
kết thúc bằng 2 câu: “Người tung hoành bên núi
xa xăm, Người mong chồng c̣n đứng muôn năm”
th́ nhạc chậm lại và dứt bằng
nốt re âm vang kéo dài. Âm vọng của tiếng “muôn
năm” trầm hùng tỏa lan bất tận khiến
người nghe ḷng đầy bồi hồi thương
cảm. *-
Ḥn Vọng Phu 2: Ai Xuôi
Vạn Lư (Hương Nam xuất bản vào tháng
10 năm 1946) –
Hoàn cảnh sáng tác: Trong
thư gửi bác sĩ Phương Hương, nhạc
sĩ Lê Thương cho biết: “Bài Ai Xuôi
Vạn Lư ( Ḥn Vọng Phu 2) là cuối năm 1945 sang 46,
tôi theo kháng chiến tỉnh Mỹ Tho đi từ Cai
Lậy, thuộc Nhiêu, Vĩnh Kim qua sông, đi với các
em phần đông là học sinh Petrus Kư mà tôi là trưởng
đoàn Ca Nhạc với những bài thanh niên lịch
sử và riêng Ḥn Vọng Phu 1 nghêu ngao qua các làng
dừa từ Thành Triệu, An Khánh, Phú An Ḥa, Quới Sơn,
Giao Long, Giao Ḥa, cho đến Ḍng Sầm, gần B́nh
Đại… Bỗng
Tây đem tàu tấn công 3 Cù Lao, Minh, Bảo, An Hóa.
Tiếng Canon 75 bắn tủa vào các bờ sông có
dừa, máy bay phun lửa “spitfire” từ trời
bắn xuống. Đoàn phải tan ră các em trong đoàn
chạy hầu hết về gia đ́nh, chỉ c̣n tôi
và người bạn Ánh (nay đă chết) trốn
được vào vùng lá Ḍng Sầm cách B́nh Đại
4 cây số. Chúng
tôi được vài gia đ́nh người Cao Đài
làm đầu tộc đạo nơi đó thương
xót giấu trong b́a lá và giúp lương thực
sống trong sự khủng khiếp hằng ngày v́ tên
Pháp lai Leroy và bọn lính Partisans đầu đỏ
xục xạo làng xóm gieo khủng khiếp. Lúc đầu
chúng tôi c̣n trốn vào sâu trong ruộng, đem gạo
cơm đi ăn tối về nằm trong kho lúa. Sau v́
c̣n thấy nguy hiểm nên anh Tư- bà con với ông
đầu tộc đạo dẫn chúng tôi vào b́a lá
ḍng Sầm dày 4,5 trăm thước sát cửa
biển B́nh Đại. Tại
nơi yên tĩnh này chúng tôi được sống bên
bờ rạch dày đặc lá dừa nước! May mà
c̣n chiếc mùng “Tuin” (tulle) để tránh muỗi,
đêm đêm nghe dế than, cá tḥi ḷi đập đuôi
lạch bạch dưới śnh và tâm hồn lo âu vô
vọng. Tôi hay nghĩ đến sự chết thê
thảm cô đơn và lẩn vẩn trong trí óc sự
tiếc nuối mênh mang như ḷng người chinh
phụ trong giang san Đèo Cả. “Thôi
đứng đợi làm chi. Thời gian có hứa
mấy khi sẽ đem đến trả đúng
kỳ. Những người mang mệnh biệt ly.” Nhờ
cây viết máy Kao lo khô mực và nước rạch
nhỏ vào cho ướt lại, tôi viết mấy ô
nhịp trên. Tâm
hồn rạo rực trong mỗi buổi chiều tà làm
bốc lên những tiếng mới của bài Ḥn
Vọng Phu 2, tức Ai Xuôi Vạn Lư, được ghi
vội vă lộn xộn nhưng cuồng nhiệt như
tâm hồn tôi gh́ lấy sự sống.” Qua
lời tỏ bày của Lê Thương, chúng ta thấy
được nhờ sự gian nan, thiếu thốn mà
ông bật lên những cung nhạc tài hoa trong Ḥn
Vọng Phu 2. Những lần chạy trốn hiểm
nguy, cái chết cận kề, cái chết luôn lảng
vảng trước mặt, bằng sự cảm
nhận thiết tha với sự sống, ông đem ḥa
nhập những điều này vào nỗi ḷng chinh
phụ. -Nội
Dung Ḥn
Vọng Phu 2 hay cả 3 bài đều là những
bản Ballad. “Ballad
là một bài ca có cấu trúc tự nhiên đơn
giản, thường ở h́nh thức kể chuyện
hay diễn tả. Một ballad thường có một vài
đoạn có cấu trúc tương tự và có
thể có một đoạn điệp hoặc không. Nói
cách khác, ballad là một câu chuyện, thường là
một bài tường thuật hoặc bài thơ,
được ngâm hoặc hát lên. Bất cứ h́nh
thức chuyện nào cũng có thể được
kể như là một ballad, chẳng hạn như
những miêu tả mang tính lịch sử hay chuyện
thần tiên theo h́nh thức đoạn. Nó thường
rút gọn lại, luân phiên giữa các ḍng theo nhịp
3 và 4 (nhịp ballad) và các vần lặp lại
đơn giản, thường kèm theo một đoạn
điệp. Nếu ballad dựa trên đề tài chính
trị hay tôn giáo th́ có thể là một bài tụng ca
(hymn).” (nhaccodien.info) Phần
đầu ông viết theo thể điệu Espressivo
để người hát diễn tả cảm xúc
của ḿnh được tự do thoải mái. Chính v́
vậy 2 câu: “Khi
tướng quân qua đồi, kéo quân, quân theo cờ,
Đoàn cỏ cây hăy c̣n trẻ thơ, cho đến bây
giờ đă thành / đoàn cổ thụ già” nhờ
một dấu nghỉ giữa 2 chữ “thành” và “đoàn”
nó đă làm cho ta cảm nhận được cái dài
đằng đẵng của thời gian. Từ lúc
xuất chinh, cỏ cây chỉ là thơ trẻ mà
giờ đây chao ôi đă trở thành một khu
rừng cổ thụ! Bài
Vọng Phu 2 là bài đặt biệt nhất trong 3 bài.
Đặc biệt v́ 2 bài kia chỉ thuần là kể
chuyện; riêng bài này Lê Thương, trong lúc xuất
thần ông thấy ḿnh đang là chứng nhân của
cảnh người vọng phu cương quyết trơ
gan cùng phong nguyệt, đứng lặng nh́n về phía
trời xa, một dạ đợi chồng. Ông không c̣n
đóng vai kể chuyện nữa mà nhập vào câu
chuyện, hiện diện trong cổ tích để nói
lên nỗi ḷng thương cảm của ḿnh với nàng
chinh phụ. Ông năn nỉ người vọng phu, xin
nàng hăy thắp nén hương cho chàng rồi hăy
về đi. Về, để cái xuân sẽ tàn mà
thời gian sẽ không bao giờ đúng hẹn. “Có
ai xuôi vạn lư nhắn đôi câu giúp nàng, Lấy cây
hương thật quư, thắp lên thương tiếc
chàng.Thôi đứng đợi làm chi, thời gian có
hứa mấy khi sẽ đem đến trả đúng
kỳ. Những người mang mệnh biệt ly…” Một
chi tiết mà có lẽ ít người để ư đến
là “Trời chuyển mưa trong tiết tháng ba,
Suốt năm nước nguồn tuôn đổ
xuống "Bà", h́nh hài người bế con nước
chảy chan ḥa”. Dân gian có câu “Tháng Ba bà già
đi biển” ư nói thời tiết vào tháng Ba ở vùng
biển rất là tốt, biển êm sóng lặng, không
hề có mưa giông gió băo. Thế nhưng ḷng son
sắt của người đàn bà chờ chồng kia
đă động đến thiên đ́nh, dù theo thông
lệ không cho mưa vào tháng ba, trời làm mưa như
thác đổ, để giúp nàng quên đi cái nắng
đổ lửa, cái gió cát xốn xang ḷng mắt. Và
cũng để “Thấm vào đến
tận tâm hồn đứa con”. Ở
bài này sự nhân cách hóa của nhạc sĩ Lê Thương
đáng xưng tụng là “xuất quỷ nhập
thần”. Nh́n tượng vọng phu đứng trên dăy
Trường Sơn, ông lăng mạn giải thích, núi non
thương t́nh nên kéo nhau đến kính cẩn qú trước
mặt nàng tung hô t́nh yêu bất diệt, và, từ
đấy, núi non không đi nữa cùng ở lại
với nàng, trở thành dăy Trường sơn của
nước Việt. “Nên núi non thương t́nh, kéo
nhau đi thăm nàng Nằm thành Trường Sơn
vạn lư xuyên nước Nam.” Ô! Lê Thương
đă sinh đẻ ra dăy Trường Sơn của chúng
ta một cách thơ mộng và đáng yêu như
vậy! C̣n
nữa. Nhiều đồi núi khác cũng động ḷng,
vội vă ra đi đến tận ngàn khơi để
t́m giùm nàng, xem chàng về hay chưa. Và, v́ chưa có
câu trả lời nên quyết tâm đứng đấy,
chết đi, thoát thai thành những ḥn đảo
rải rác nhiều nơi trên biển cả. “Nhiều
đồi rủ nhau kéo thành đảo xa, ra tới
tận khơi ngàn…Xem chàng về hay chưa, về hay
chưa?” Cũng
vậy, sức liên tưởng, tưởng tượng
của Lê Thương thăng hoa đến nỗi ông
biến ḍng sông Cửu Long v́ muốn đem tin đến
nàng nhưng bị núi non dựng chắn, đành
phải nằm kêu ca dưới miệt đồng
bằng, đợi chờ nhiều ngàn năm nữa “Chín
con long thật lớn, muốn đem tin tới nàng, Núi
ngăn không được xuống, chúng kêu ca dưới
ngàn.” Mới mong tới gặp được
người vọng phu. Ôi! núi, sông, chim chóc, cây cỏ
đều động ḷng trước t́nh yêu của nàng
chinh phụ, đều liều thân để giúp nàng! Cũng
trong bài 2 có 4 câu sau đây, tưởng cũng nên
lạm bàn đôi chút: “Có
con chim nhỏ bé Tại
sao “Cuối thu năm Mậu Tư”? Về
cái thời gian này, tôi cố công tra cứu rất
nhiều nhưng chưa thấy có lời giải đáp,
nên mạo muội lư giải theo thiển kiến
của ḿnh, xin quư bậc cao minh chỉ giáo, thêm. Trong
sấm Trạng Tŕnh và các sấm kư khác không hề tiên
tri có một năm Mậu Tư nào có xảy ra biến
đổi cho Việt Nam. (Danh xưng Việt Nam để
chỉ nước ta được Trạng Tŕnh
Nguyễn Bỉnh Khiêm nói đến từ lúc ông sinh
tiền (1491-1585) như: "Việt Nam sơn
hà hải động thưởng vịnh" (Vịnh
về non sông đất nước Việt Nam; Tiền
tŕnh vĩ đại quân tu kư/ Thùy thị phương
danh trọng Việt Nam" (Tiền đề rộng
lớn ông nên ghi nhớ/ Ai sẽ là kẻ có tiếng
thơm được coi trọng ở Việt Nam?)…
(theo Hải Thanh/Pháp Luật Việt Nam). Vậy, khi Lê
Thương nói “có con chim nhỏ bé, dám ca câu
sấm thề, cuối thu năm Mậu Tư, tướng
quân đem kiếm về”, tôi đồ rằng v́
muốn cho người vọng phu tin tưởng ngày
về của chồng đă đến, không c̣n mờ
mịt xa nữa nên ông bèn hô lên có câu sấm! (đây
là trận tâm lư chiến của Lê Thương,
biết đàn bà thường hay tin tưởng sự
siêu nhiên) mà ông tự đặt ra (xin để ư
đến chữ “dám”) và “bán cái” qua cho “con chim
nhỏ bé” để an ủi nàng. Nhưng
tại sao Mậu Tư mà không là một năm Dần,
Mẹo nào đó? Chúng ta hăy quay về thời gian sáng
tác bài Ḥn Vọng Phu 2. Lê Thương viết bài này vào
cuối 1945 sang đến 1946, năm 1946 là năm Bính
Tuất, như vậy ông muốn bảo với người
vọng phu thời gian ngắn nhất là 2 năm
nữa, là năm Mậu Tư (1948). Nhưng sao không là năm
Bính Tuất (1946) hay Đinh Hợi (1947) cho gần hơn?
Xin thưa, v́ hai năm này không đúng theo nốt
nhạc! Vậy
th́ chỉ có năm Mậu Tư là năm gần nhất
và khả thi trong âm nhạc để tướng quân
đem kiếm về! *-
Ḥn Vọng Phu 3: Người
Chinh Phu Về (Dân Tộc xuất bản lần
đầu vào năm 1949) –
Hoàn cảnh sáng tác: Thời
điểm năm 1947 là lúc nhạc sĩ Lê Thương
trở về lại Sài G̣n, cũng là thời gian ông
viết bài Ḥn Vọng Phu 3 để hoàn tất
một trường ca bất hủ. Ông nói về HVP3
như sau: “Người
Chinh Phu về (HVP3) với t́nh nghĩa vợ chồng
đổi sang t́nh nghĩa non sông, nh́n đứa con
để trao cho nó thanh kiếm sơn hà. “Trao nó
đi gây lại cơ đồ”. Linh tính làm người
Việt Nam giữa thời khói lửa vẫn đinh
ninh là Hạnh Phúc vẫn là mục tiêu không kỳ
hạn mà dân tộc phải t́m lâu dài cho đến
khi quân b́nh được những cảm t́nh trái ngược
mà lẽ đời sôi động của cuối
thế kỷ đă lôi cuốn bao lớp người vào
lăng phí sinh mạng như vào hận tủi bi thiết
của nhân sử ṇi Việt.” Năm
1947 này, bài HVP 1 và 2 được dân chúng đón
nhận thật nhiệt liệt. Tất cả những
niềm vui này đă làm Lê Thương phấn chấn
tinh thần thêm lên trong bài HVP 3 với niềm vui
trở về. –
Nội Dung Trong
phần mở đầu, Lê Thương dùng điệu
Largo (chậm và trang nghiêm) để diễn tả
sự xao xuyến, bồi hồi của người
chinh phu trở về v́ liên tưởng đến
vợ ḿnh vẫn đang trông ngóng. Tiếp theo nhạc
đổi qua điệu To di Marcia (Tempo I Marcia) tức
nhip điệu hành khúc. Đoạn nhạc này thật
dồn dập, quăng trước thôi thúc đuổi quăng
sau. Không cần phải có ḥa âm, phối khí ǵ cả,
chỉ cần khi xướng âm chúng ta vẫn nghe
thấy được tiếng vó câu dồn dập,
tiếng ngựa hí vang trời của đoàn quân
trở về trong niềm vui chiến thắng: Đường
chiều/ mịt mù/ cát bay/ tỏa bước ngưa
phi… Điệu
nhạc cứ dập dồn như thế để
diễn tả hết đoạn tả cảnh người
chinh phu bắt đầu hăng hái, phi ngựa trở
về. Đến đoạn tả cảnh đường
xa, qua biết bao núi rừng, sông ng̣i, thôn xóm… th́ ông
dùng điệu Ritardando để chậm lại,
diễn tả mối thương tâm của người
chinh phụ khi phải chứng kiến cảnh hoang tàn
của mộ bia của đ́nh làng như một
sử tích: “…Từ
bóng cây ngôi mộ bên đường Đến
đây, Lê Thương lại nẩy sinh một ư
kiến mới, một ư kiến tích cực hơn trong
câu chuyện có nhiều phần tiêu cực là hướng
đến sự thiêng liêng cao cả của truyền
thống chống ngoại xâm, khác đi huyền
thoại nhân gian kể về sự tích Ḥn Vọng Phu.
Trong truyện kể khi người chinh phu trở
về, người vợ Tô Thị bồng con lên núi
chờ chàng và đă hóa đá. Nhưng Lê Thương
v́ muốn nêu cao tinh thần yêu nước, cương
quyết chống ngoại xâm cho đến cùng, từ
thế hệ này sang thế hệ khác của dân
tộc Việt Nam. Thanh gươm báu là tượng trưng
cho ḷng yêu nước được kế thừa nên
ông đă kể lại chuyện rằng: Nàng chinh
phụ nhắn, xin lỗi chồng phải nhờ người
khác trông nom đứa con, để ḿnh nàng đến
tận mỏm núi cao mà vời vợi trông chàng “Hỡi
người chinh phu, anh hùng non sông Nên
chi, khi người chồng trở về: “Thấy
đứa con xanh ngắt nỗi hùng c̣n trong đó
Cầm chiếc gươm chinh phụ di truyền Chàng
bế con trao lại gươm bền Rồi chỉ vào
sơn hà biến cố Trao nó đi gây lại cơ
đồ”. Vâng,
ngọn đuốc thiêng yêu nước phải
được di truyền thắp sáng. *
Trường
ca Ḥn Vọng Phu quả thật là một trường
ca trác tuyệt. Đă hơn 70 năm qua Ḥn Vọng Phu
luôn luôn được tŕnh diễn từ những ca sĩ
lừng danh như Thái Thanh, Duy Khánh, Hoàng Oanh, Thanh
Tuyền, Hồng Vân… cho đến các ca sĩ nổi
tiếng hiện nay, từ những ban hợp ca chuyên
nghiệp cho đến nghiệp dư, các trường
học. (Người viết bài này cũng từng hân
hạnh đứng trong ban hợp ca trường
học của ḿnh để tập hát HVP). Những
nhạc sĩ lớn như Phạm Duy đă viết
trong hồi kư rằng: “Trong số những bạn
đồng nghiệp, tôi yêu nhất nhạc sĩ Lê Thương…”
và, "…Tôi
cũng cho rằng trong làng tân nhạc, Lê Thương là
người trí thức nhất. Mỗi bài nhạc,
mỗi giai đoạn nhạc của anh đều
chứa đựng thông điệp…” Cũng
trong Hồi kư, Tập 3, chương 2, Nhạc sĩ
Phạm Duy nói về sự châm biếm trong bài Ḥa B́nh
48 của Lê Thương là khi đó “người ta
lấy h́nh ảnh con chim bồ câu ngậm chiếc lá
trông rất khỏe mạnh. Nhưng anh Lê Thương
của chúng ta cho rằng con chim đó đang bị
đau nặng: “Con
chim ḥa b́nh đang đau nặng. Rồi
Phạm Duy đưa ra môt cái nh́n so sánh rất thành
thật: “Với bài hát phổ biến năm 1948, trước
hết, Lê Thương đă nh́n ra quốc tế trước
tôi. Phải đến thập niên 60 tôi mới
soạn những bài hát như Người Lính Trẻ,
Chuyện Hai Người Lính…” Không
chỉ Phạm Duy mà có nhiều nhạc sĩ tên
tuổi khác đều tỏ ḷng quư mến, khâm
phục tài năng âm nhạc của Lê Thương.
Một cây cổ thụ trong nền âm nhạc Việt
Nam là nhạc sĩ Văn Cao cũng thừa nhận ông
đă ảnh hưởng Lê Thương trong việc
học tập và kế thừa nền âm nhạc
cổ truyền Việt Nam. III.
Vài kỷ niệm với nhạc sĩ Lê Thương Tôi
hân hạnh được quen biết nhạc sĩ Lê
Thương khoảng năm 1984 hay 1985, không nhớ rơ.
Ông dáng người có vẻ phốp pháp, bụng hơi
phệ, Cặp mắt kính dày cộm, giọng nói có hơi
khàn của người lớn tuổi nhưng trầm,
ấm, âm vang xa. Trong khoảng 2 tiếng đồng
hồ chuyện tṛ, ông làm tôi cảm mến rất
nhiều. Nói năng giản dị nhưng ân cần,
điểm giữa là những tiếng cuời, có khi
thật hiền, có khi thật sảng khoái; ông làm người
nghe cuốn hút theo. Hiểu biết của ông về âm
nhạc, về lịch sử, về văn chương
thật mênh mông. Đây là lần đầu tiên tôi
mới biết bài Học Sinh Hành Khúc mà tác giả chính
là ông. Những học sinh trước năm 1975
hầu như ai cũng quen thuộc, từng hát bài này,
quen thuộc đến độ đă không ít người
hát “chế” câu đầu thành “Học sinh là người
hủ tiếu ăn hai ba tô”. Tôi nhớ măi câu nói
thật vui, thật hóm hỉnh của ông mục đích
là dặn tôi nhớ số để sau này trở
lại chơi. “ Thuốc ba con 5 th́ dễ nhớ
rồi phải không, vậy th́ nhớ ông Lê Thương
chỉ hút 2 con 5 thôi nhé” (Nhà ông ở số 55
đường Bùi Viện.) Những năm tháng về
sau tôi thường đến nhà ông, để
được nghe ông hết ḷng tŕnh bày những ǵ tôi
muốn thỉnh giáo. Để nghe những lời nói,
những câu chuyện thật hóm hỉnh nhưng sâu
sắc của ông. Lúc nào ông cũng rất lịch
sự lắng nghe tôi nói, đối xử với tôi
như người ngang hàng. Đây là một đức
tính rất hiếm hoi ở người lớn đối
với hậu sinh nhỏ thua ḿnh trên 30 tuổi. Sau
1975 ông có soạn một tập sách, đặt tên là Tạp
Sự, ghi lại những chuyện đời
của các ca nhạc sĩ cải lương, tân
nhạc miền Nam được khoảng trên 300 trang
viết tay. Khi Lưu Hữu Phước vào Nam, ghé thăm
ông, biết cuốn này, muốn xin ông đem in, ông
hẹn trả lời sau. Mấy hôm sau khi nhà thơ Huy
Trâm đến chơi ông đem việc này hỏi ư,
Huy Trâm nói in nguyên văn th́ cũng tốt nhưng
sợ là họ thêm bớt chi đó làm hại đến
công tŕnh tâm huyết của ḿnh. Sau đó Lê Thương
không nhắc đến việc này nữa.
Tượng
bán thân của nhạc sĩ Lê Thương do người
bạn thân là nhạc sĩ Lê Cao Phan điêu khắc.
Đă
ngoài 70 tuổi nhưng Lê Thương rất khỏe,
ông đạp xe đạp đến tận G̣ Dưa
để thăm mộ Hoàng Trúc Ly. Nhiều lần ông
và tôi mỗi người một chiếc xe đạp,
cót két đạp từ Sài g̣n xuống Thủ Đức,
đều đi về trong ngày. Ở Thủ Đức
có chị Kiêm Lang là một người rất yêu thích
văn chương, ca nhạc thường mời anh
chị em văn nghệ sĩ xuống nhà chơi, đăi
đằng, văn nghệ, có cả lén nhảy đầm.
Nhạc sĩ Đức Quỳnh là người có
những bước nhảy rất đẹp, thường
nhảy biểu diễn, được mọi người
vỗ tay tán thưởng thật nhiều. Khoảng
năm 1988, nhạc sĩ Lê Thương, một hôm
bảo tôi rằng ông đượcThông Tin Văn Hóa
Sài G̣n, qua nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu, cho phép
tổ chức Đêm Nhạc Lê Thương. Tôi
rất vui mừng khi nghe tin này, và, tôi thật ngạc
nhiên khi ông bảo là nhờ tôi viết script cho chương
tŕnh. Tôi hơi hoảng, xin từ chối v́ không đủ
khả năng. Ông cười tuềnh toàng, nói tôi
đă nghĩ rồi, anh làm được mà, gắng
giúp tôi đi nhé. Sau đó ông sắp xếp đưa
tôi đi gặp một số ca sĩ như Thanh Lan,
Hồng Vân … và ca đoàn nhà thờ ở Ngă Tư
Bảy Hiền. Việc chưa đi vào đâu th́ ngoài
Hà Nội gửi điện vô báo là cho phép tổ
chức Đêm Nhạc Lê Thương với điều
kiện chỉ được tŕnh diễn nhạc
của Lê Thương từ trước năm 1945. Ông
báo tin cho tôi bằng giọng nói thật b́nh thường
chẳng chút buồn bă. Ông nói thêm là anh biết đấy
trước 45 tôi đâu có đủ nhạc để
tŕnh diễn một chương tŕnh dài như vậy.
Rồi ông cười khè khè. Thế là “Đêm
Nhạc Lê Thương” im ĺm hủy bỏ. Năm
1991 tôi đi Mỹ, khoảng ba bốn năm sau, hay tin
ông bị mất trí nhớ nặng. Ông mất vào năm
1996 trong sự bàng hoàng thương tiếc của anh
chị em trong giới văn nghệ và cả dân chúng
nữa.
Căn nhà của nhạc sĩ Lê Thương hiện nay (2016) Phần mặt tiền cho thuê. Lê
Thương, một nhạc sĩ tài ba, một vị
thầy giáo tài giỏi, đức độ, một người
nặng ḷng với nước non, một nghệ sĩ
lăng mạn với tâm hồn bay bổng thanh cao. T́nh yêu
trong âm nhạc của ông là một loại t́nh yêu không
đắm ch́m trong thân phận, dang dở yêu thương
của đời thường, mà ông hướng
về sự cao cả, trong sáng như trăng rằm,
keo sơn son sắt như “Bà” Tô Thị. Ông phả
vào tâm hồn thanh niên học sinh những câu ca “v́ dân,
v́ nước”. Nói về tính hài hước của Lê
Thương, những người quen biết với ông
đều nhận thấy. Trong đời sống thường
hằng, cũng như qua những bài nhạc như: Ḥa
B́nh 48, Đốt Hay Không Đốt… Lê Thương
đă cho chúng ta những nụ cười mỉm
nhẹ nhàng nhưng nhiều khi nôn cả ruột. Nhưng
nếu tôi dược chọn một trong hai từ
ngữ “hài hước” và “dí dỏm” để
chỉ về ông, tôi sẽ chọn “dí dỏm”.
Vừa nhẹ nhàng vừa sâu sắc. Vừa thâm
trầm vừa trí tuệ. Vừa hóm hỉnh vừa
chừng mực. Không có sự nhố nhăng, hời
hợt hay quá khích trong tinh thần hài hước
của Lê Thương. Sinh
thời ông không bon chen, lặng lẽ giữ cho ḿnh
một thái độ sống thật chuẩn mực
cho nên dù nhạc của ông được phổ
biến khắp nơi nơi, từ thành phố đến
thôn quê, từ các em nhi đồng cho đến người
lớn tuổi ai cũng biết, cũng thích, nhưng
thanh danh ông lại ít được nhắc đến.
Nếu tôi không lầm th́ ông chưa hề được
những tổ chức về âm nhạc từ trong nước
đến hải ngoại vinh danh, dù một lần.
Về trường ca Ḥn Vọng Phu, tôi bỏ thời
gian t́m ṭi rất nhiều th́ tất cả những
phần của các ca sĩ, các ban hợp xướng chưa
có người nào hát đủ cả 2 lời của
bản trường ca. Ngay cả các lời của bài
hát cũng chưa có bài nào được đầy
đủ. Ước mong trong tương lai có người
đứng ra tổ chức một chương tŕnh
vinh danh nhạc sĩ Lê Thương, tŕnh diễn
thật đầy đủ bản trường ca
bất hủ này để tỏ ḷng biết ơn sâu
xa người nhạc sĩ sáng như sao Bắc Đẩu
trên ṿm trời âm nhạc Việt Nam.
Phu nhân của nhạc sĩ Lê Thương đứng cạnh bàn thờ của ông (2016) Hiện
nay, căn nhà số 55 đường Bùi Viện Q. 1 Sài
g̣n của nhạc sĩ Lê Thương may mắn chưa
đổi chủ. Bà Lê Thương năm nay 86
tuổi, vẫn c̣n sống nhờ sự chăm sóc
của người con gái tên Thủy trong căn nhà
giữ y như ngày xưa. Chị Thủy cho biết là
khoảng 10 năm qua, chị đại diện cho gia
đ́nh hằng quư nhận được tiền tác
quyền nhạc của ông khoảng vài triệu đồng
(gần 100 Đô Mỹ) từ Hội Bảo Vệ Tác
Quyền Âm Nhạc Việt Nam tại Sài G̣n. Đặng Phú Phong |