Hồi Kư Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Đông |
Nguyễn
Văn Đông Vào năm 1956, đơn vị tôi đóng quân ở Chiến khu Đồng Tháp Mười, được xem là mặt trận tiền tiêu nóng bỏng vào thời bấy giờ. Khi ấy, tôi mang cấp bực Trung úy, mới 24 tuổi đời, c̣n bạch diện thư sinh. Tuy hồn vẫn c̣n xanh nhưng tâm t́nh đă nung trong lửa chín ở quân trường. Chính tại Đồng Tháp Mười, vùng đất địa linh nhân kiệt, đă gợi hứng cho tôi sáng tác những bản hùng ca như Súng Đàn, Vui Ra Đi, một thuở được hát vang trong Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu. Rồi tiếp sau đó là các bản nhạc Phiên Gác Đêm Xuân, Chiều Mưa Biên Giới, Sắc Hoa Màu Nhớ được ra đời cũng tại vùng đất thiêng này. Khi đi vào vùng hỏa tuyến, là chàng trai trẻ độc thân, với một mối t́nh nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ tênh vào cuộc chiến đầu đời. Ngày đó Đồng Tháp Mười c̣n là đồng không mông quạnh, lau sậy ngút ngàn, dân cư thưa thớt, sống co cụm trên những g̣ đất cao giữa vùng đồng lầy nước nổi quanh năm. Người ở hậu phương lúc bấy giờ nh́n về Đồng Tháp Mười như là vùng đất bí hiểm với những huyền thoại Lúa Ma nuôi quân đánh giặc, về Tổng Đốc Binh Kiều, Thiên Hộ Vương thời chống Pháp qua những trận đánh lẫy lừng ở Găy Cờ Đen, G̣ Tháp mà chiến tích được tạc vào bia đá ở Tháp Mười Tầng c̣n lưu lại đến ngày nay. Mùa xuân năm đó,
đơn vị tôi đóng trên G̣ Bắc Chiêng, có tên
là Mộc Hoá, nằm sát biên giới Việt
Nam-Campuchia, sau này là Tỉnh lỵ Kiến Tường.
Đơn vị của tôi đă có những cuộc
giao tranh đẫm máu vào những ngày giáp tết trên
những địa danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến
lửa Thông B́nh, Cái Cái, Tân Thành. Dù vậy, mùa xuân
vẫn có cánh én bay về trên trận địa và hoa
sen Tháp Mười vẫn đua nở trong đầm dù
bị quần thảo bởi những trận đánh
ác liệt. Cứ mỗi độ xuân về, sông Vàm
Cỏ lại mang về từng đàn tôm cá từ
biển hồ Tông Lê Sáp, vượt vũ môn theo đám
lục b́nh trôi về vùng Tam Giác Sắt, như
nhắc nhở Bộ Tư Lệnh Tiền Phương
Đồng Tháp Mười lập danh sách cho những
người được về quê ăn Tết. V́ c̣n
độc thân nên tên tôi được ưu tiên ghi vào
Sổ Nhật Kư Hành Quân và ở lại đơn
vị trong những ngày Tết. Dù không ai nghĩ có
đánh nhau ngày đầu năm nhưng quân lệnh phăi
được tuân hành nghiêm chỉnh. Trước ba ngày
Tết, tôi được lệnh lên chốt tiền
tiêu, tăng cường cho cứ điểm, mang theo
chiếc ba-lô với chút hành trang lương khô, cùng
tấm ảnh của người em gái hậu phương,
cũng là cơ duyên sau đó để tôi viết nên
bài t́nh ca Sắc Hoa Màu Nhớ. https://www.youtube.com/watch?v=RipWygP3ENY Tiền
đồn cuối năm, đêm 30 Tết, trời
tối đen như mực, phút giao thừa lạnh
lẽo hắt hiu, không bánh chưng xanh, không hương
khói gia đ́nh. Tôi ngồi trên tháp canh quan sát qua đêm
tối, chỉ thấy những bóng tháp canh mờ
nhạt bao quanh khu yếu điểm như những mái
nhà tranh, chập chờn dưới đóm sáng hỏa
châu mà mơ màng về mái ấm gia đ́nh đoàn
tụ lúc xuân sang. Thay cho lời chúc Tết là tiếng
kẻng đánh cầm canh và tiếng hô mật
khẩu lên phiên gác. Vào đúng thời điểm giao
thừa, ngọn đèn băo dưới chiến hào
thắp sáng lên như đón chào năm mới th́ cũng
là lúc những tràng súng liên thanh nổ rền từ
chốt tiền tiêu. Khi ấy vào buổi tinh mơ
của trời đất giao ḥa, vạn vật như
ḥa quyện vào trong tôi, có hồn thiêng của sông núi,
có khí phách của tiền nhân. Tôi nghe tâm hồn
nghệ sĩ của ḿnh rộn lên những xúc cảm
lạ thường, làm nảy lên những cung bậc
đầu tiên của bài Phiên Gác Đêm Xuân: https://www.youtube.com/watch?v=59t-kUAd3og “Đón
giao thừa một phiên gác đêm https://www.youtube.com/watch?v=23UFgOCE9F8 Bài
Phiên Gác Đêm Xuân được ra đời trong hoàn
cảnh như thế, cách đây nửa thế kỷ,
đánh dấu một chuỗi sáng tác của tôi
về đời lính như Chiều Mưa Biên
Giới, Mấy Dặm Sơn Khê, Sắc Hoa Màu Nhớ,
Khúc T́nh Ca Hàng Hàng Lớp Lớp, Xin Đừng Trách
Anh, Lá Thư Người Lính Chiến, Anh Trước Tôi
Sau, Lời Giă Biệt… vân vân. Sau ngày 30 tháng Tư năm
75, các bản nhạc này cùng chung số phận tan tác
như cuộc đời ch́m nổi của tôi. C̣n
với hăng dĩa Continental:
Vào năm 1960, tôi và người bạn cao niên tên là Huỳnh Văn Tứ, một nhà doanh nghiệp có tiếng ở Sàig̣n, cùng đứng ra sáng lập hăng dĩa Continental và Sơn Ca. Ông Huỳnh Văn Tứ phụ trách Giám Đốc Sản Xuất, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông phụ trách Giám Đốc Nghệ Thuật. Chủ trương của chúng tôi là nhắm vào hai bộ môn Tân Nhạc và Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ.
Về lănh vực Tân Nhạc, tôi cho ra đời hàng trăm chương tŕnh mang dấu ấn của hăng Continental, Sơn Ca, Premier. Chính hăng Continental, Sơn Ca đă đi tiên phong trong việc thực hiện Album riêng cho từng cá nhân ca sĩ, như Khánh Ly với Sơn Ca số 7, Lệ Thu với Sơn Ca số 9, Thái Thanh và Ban Hợp Ca Thăng Long với Sơn Ca số 10 và nhiều Album cho Phương Dung, Thanh Tuyền, Giao Linh, làm vinh danh những tài năng này ở thập niên 60 và 70. Riêng về bộ môn Sân Khấu Cải Lương Ca Cổ , tôi đă thực hiện hàng trăm chương tŕnh Tân Cổ Giao Duyên và trên 50 vở tuồng cải lương kinh điển nổi tiếng như Nửa Đời Hương Phấn, Đoạn Tuyệt, Tiếng Hạc Trong Trăng, Sân Khấu Về Khuya, Mưa Rừng… vân vân.
Chính
trong thời gian này, tôi tạo thêm hai bút danh nữa là
nhạc sĩ Phượng Linh và soạn giả Đông
Phương Tử, nhằm phục vụ cho bộ môn
Cải Lương Sân Khấu và Tân Cổ Giao Duyên. Bút
danh Phượng Linh để sáng tác phần nhạc
đệm và bài ca tân nhạc lồng trong các vở
tuồng cải lương, phối hợp với giàn
cổ nhạc gồm những danh cầm như Văn
Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm. C̣n bút danh Đông Phương
Tử là soạn các bài tân cổ giao duyên và đạo
diễn thâu thanh các vở tuồng cải lương.
Tiếc thay, những công tŕnh tâm huyết đó đă
bị gạt ra bên lề xă hội sau biến cố
lịch sử 30 tháng Tư năm 1975. Nói
về những nhạc phẩm sau này, nhạc sĩ NVĐ
tâm sự https://www.youtube.com/watch?v=KdvngnIlbyg Sau tháng 4/1975, tôi đi học tập “cải tạo” 10 năm. Khi trở về nhà, tôi mang theo nhiều chứng bệnh trầm trọng, tinh thần và thể xác bị suy sụp. Suốt 30 năm qua, tôi không tham gia bất cứ hoạt động nào ở trong nước cũng như ngoài nước. Vào năm 2003, nhà nước Việt Nam có cho phép lưu hành 18 bài hát của tôi, gồm: Hải Ngoại Thương Ca, Nhớ Một Chiều Xuân, Về Mái Nhà Xưa, Khi Đă Yêu, Đom Đóm, Thầm Kín, Vô Thường, Niềm Đau Dĩ Văng, T́nh Cố Hương, Cay Đắng T́nh Đời, T́nh Đầu Xót Xa, Khúc Xuân Ca, Kỷ Niệm Vẫn Xanh, Truông Mây, Bài Ca Hạnh Phúc, Bông Hồng Cài Áo, Trái Tim Việt Nam, Núi và Gió. Rất
tiếc một số bài hát tâm đắc không
được nhà nước cho phép. Tôi hy vọng
rồi đây theo thời gian mọi việc sẽ
tốt đẹp hơn. Đặc biệt trong lănh
vực văn hoá, văn nghệ, tôi nghiệm rằng
những ǵ có giá trị nghệ thuật, dù bị vùi
dập v́ sự ganh tỵ hay hiểu lầm, sẽ có
ngày được mang trả lại vị trí đích
thực của nó. Tôi chỉ tiếc đời người
ngắn ngủi mà tôi đă phí phạm quăng thời
gian dài 30 năm. Thật lấy làm tiếc! Kể
về hai cô ca sĩ học tṛ Giao Linh và Thanh Tuyền https://www.youtube.com/watch?v=D8aYCuOCrnc -Với Giao Linh có nhiều kỷ niệm khó quên. Tôi nhớ lại, vào một sáng Chúa Nhựt năm 1965, nhạc sĩ Thu Hồ đưa đến nhà tôi một cô bé gầy g̣ ốm yếu. Cô đến bằng chiếc xe máy mini Velo Solex, nhưng không đủ sức đẩy xe qua thềm nhà tôi, phải nhờ nhạc sĩ Thu Hồ giúp đở. Cô bé ngồi im lặng như đóng băng không nói năng chi, trong khi nhạc sĩ Thu Hồ thao thao bất tuyệt về khả năng âm nhạc tiềm ẩn trong người cô. Tôi nh́n cô bé 16 tuổi, vóc dáng nhỏ nhắn, không phát triển như những cô gái cùng trang lứa, nghĩ thầm làm sao cô bé này có đủ hơi sức để hát ḥ. Tôi gợi chuyện vui để cho cô bắt chuyện, qua đó khám phá cái duyên ngầm sân khấu mà trong nghề nghiệp gọi là tổ đăi cho người nghệ sĩ. Nhưng cô bé vẫn không cười không nói, nên buổi gặp gở đầu tiên đó, tôi không dự cảm được ǵ về cô.
Tuy nhiên,
để không phụ ḷng nhạc sĩ Thu Hồ, tôi
cho một cái hẹn thử giọng cô bé Đỗ
Thị Sinh tại pḥng thu âm của hăng dĩa
Continental. Thật bất ngờ, Giao Linh, cái tên nghệ
nhân sau này của cô bé Đỗ Thị Sinh, đă gây
sửng sốt bằng chất giọng khỏe
khoắn. Cô hát vượt qua tầm cữ quăng tám
một cách dễ dàng với làn hơi ngân nga dịu dàng
truyền cảm. Hăng dĩa Continental chấp nhận, tôi
lên chương tŕnh đào tạo, và chỉ sau
một thời gian ngắn, tên tuổi ca sĩ Giao Linh
bừng sáng trên ṿm trời nghệ thuật, sánh vai cùng
đàn anh đàn chị đi trước. Khi ấy
Giao Linh vừa tṛn 17 tuổi. Riêng cái tên mỹ
miều “Nữ Hoàng Sầu Muộn” mà người
đời ban tặng cho Giao Linh, chỉ v́ cô không
mỉm môi cười th́ Giao Linh măi măi mang theo, dù
từ lâu rồi cô đă có một gia đ́nh rất
hạnh phúc.
-Truờng hợp Thanh Tuyền cũng có nhiều kỷ niệm đặc biệt. Đó là vào năm 1964, tôi đi nghỉ dưởng sức ở Đàlạt. Bạn bè thân hữu ở Đài Phát Thanh đến thăm hỏi, có giới thiệu giọng hát cô bé Như Mai nhiều triển vọng. Cô là nữ sinh Trường Bùi Thị Xuân, hàng tuần có tham gia hát ở Đài Phát Thanh Đàlạt. https://www.youtube.com/watch?v=wgjAhFUGiKo Rồi nhân dịp nghỉ hè, Trường Bùi Thị Xuân tổ chức phát thưởng bế giảng năm học, mời tôi đến dự lễ. Đến phần văn nghệ, người dẫn chương tŕnh giới thiệu “nữ sinh Như Mai hát tặng cho khách quư đến từ Saig̣n”. Giọng cô nữ sinh Bùi Thị Xuân lảnh lót cất lên, khỏe khoắn đầy nội lực thanh xuân, âm vang làm rộn ră cả sân trường. Tôi nghe cháy bỏng một ước mơ, một hy vọng mà cô bé như muốn ngỏ cùng ai. Khi chấm dứt bài hát, Như Mai ngước nh́n tôi. Tôi hiểu ư nên mời cô bé lên gặp tôi trên khán đài và hỏi: “Cháu có muốn trở thành ca sĩ không?”. Như Mai xúc động gật đầu. Sau đó tôi gập thân sinh của Như Mai và bàn chuyện đưa cô bé về Saig̣n để đào tạo thành ca sĩ. https://www.youtube.com/watch?v=siEcXZwRZLQ Khi ấy, tôi c̣n
độc thân, ngày ngày ăn cơm chợ, tối
tối ngủ ở đơn vị, thật không
tiện chút nào để đở đần một cô
gái trẻ xa nhà như vậy. Thế nên, sau khi bàn
bạc với Ban Giám Đốc Hăng Dĩa Continental, tôi
nhờ nhạc sĩ Mạnh Phát lên Đà Lạt rước
Như Mai về Saig̣n, tá túc trong gia đ́nh của ông,
cũng là gia đ́nh của đôi nghệ sĩ tài
danh Minh Diệu-Mạnh Phát thời bấy giờ.
Mọi phí tổn ăn ở do Hăng Đĩa Continental
đài thọ. Tôi lên chương tŕnh đào tạo và
đặt tên mới cho Như Mai là Thanh Tuyền, ư
muốn nói là gịng suối xanh của Cao nguyên Đàlạt.
Chỉ trong ṿng 8 tháng có mặt ở thủ đô Saig̣n,
Thanh Tuyền đă có đĩa và băng nhạc
giới thiệu với người yêu nhạc. Như
con chim lạ từ xứ sương mù, một bông hoa
rừng c̣n đẫm ướt hơi sương,
Thanh Tuyền nhanh chóng chiếm được sự
mến mộ của người yêu nhạc thủ
đô, sánh vai cùng đàn anh đàn chị trên Đài
Phát Thanh, trên sân khấu Đại Nhạc Hội, pḥng
trà ca nhạc, được báo giới Sàig̣n không
tiếc lời ca ngợi. Năm ấy, Thanh Tuyền
vừa đúng 17 tuổi.
Riêng
đối với tôi vẫn c̣n xanh măi một kỷ
niệm về ngày khởi đầu đi hát của
Thanh Tuyền tại Sài G̣n. Theo chương tŕnh, Thanh
Tuyền hát ra mắt lần đầu tiên ở pḥng
trà Bồng Lai và Vũ trường Quốc Tế
đường Lê Lợi Saigon. Tôi đích thân đi
mua son phấn để cho Thanh Tuyền trang điểm
khi đi hát. Tôi thật bất ngờ khi biết Thanh
Tuyền chưa từng sử dụng hộp phấn cây
son trước đó. Khi đến giờ tŕnh
diễn, tôi đưa Thanh Tuyền đến Viện
Thẩm Mỹ, Salon Make Up, nhưng các cửa tiệm
đều đóng cửa v́ trời đă khuya. Quá lo
lắng, tôi kéo Thanh Tuyền chạy men theo đường
Lê Lợi mong t́m người quen giúp đở. Nhưng
không gập được ai mà thời gian lại
gấp rút nên thầy và tṛ đành ngồi bệt ngay
trên vỉa hè Lê Lợi. Nhờ ánh sáng đèn
đường, tôi đánh phấn tô son cho Thanh
Tuyền mà trước đó, tôi cũng chưa
từng biết ǵ về cây son hộp phấn Chanel.
Rồi Thanh Tuyền chạy bay lên lầu pḥng trà
Bồng Lai để kịp giờ tŕnh diễn, c̣n tôi
nện gót trên lề đường Lê Lợi, ḷng
ngập tràn cảm xúc khi tiếng hát Thanh Tuyền
cất lên, đánh dấu ngày khởi nghiệp của
ca sĩ Thanh Tuyền giữa thủ đô Sàig̣n hoa
lệ. Đến bây giờ, sau 40 năm ngồi
nhớ lại, tôi dám đoan chắc rằng, đây là
người thiếu nữ duy nhứt trong đời mà
tôi đă kẻ lông mày, “tô son trét phấn” rồi
tung con chim Sơn Ca vào bầu trời bao la, bởi v́ cô
là… của muôn người.
Về
Hà Thanh con chim hoạ mi đất thần kinh, người
được
xem
như gắn liền với một số nhạc
phẩm của Nguyễn Văn Đông, ông tâm sự:
Lần đầu tiên, tôi được gập cô Hà Thanh là vào năm 1963 tại Đài Phát Thanh Sàig̣n ở số 3 đường Phan Đ́nh Phùng ngày xưa, bây giờ là đường Nguyễn Đ́nh Chiễu. Khi ấy, tôi là Trưởng Ban TIẾNG THỜI GIAN của Đài Sàig̣n với các ca sĩ như Lệ Thanh, Khánh Ngọc, Trần văn Trạch, Minh Diệu, Mạnh Phát, Thu Hồ, Anh Ngọc v.v. https://www.youtube.com/watch?v=-r-uopBjG0A Ngày đó cô Hà
Thanh từ Huế vào Sàig̣n thăm người chị
gái lập gia đ́nh với một vị Đại tá
đang làm việc ở Sàig̣n. Chính nhạc sĩ
Mạnh Phát cho tôi biết về cô Hà Thanh nên tôi
nhờ Mạnh Phát liên lạc mời cô Hà Thanh đến
hát với Ban Tiếng Thời Gian. Đây là lần
đầu tiên tôi được tận tai nghe
tiếng hát Hà Thanh, hát nhạc sống và hát thật
ngoài đời với ban nhạc của tôi, không nghe
qua làn sóng phát thanh hay qua băng đĩa nhạc.
Điều này giúp cho tôi có cơ sở nhận định
chính xác về giọng hát Hà Thanh. Tôi hiểu ngay đây
là giọng ca thiên phú, kỹ thuật tốt, làn hơi
diễm căm tuyệt đẹp, là một v́ sao trong
những v́ sao hiếm hoi ở đỉnh cao nghệ
thuật nhưng chưa có cơ hội phát tiết
hết hào quang của ḿnh. Ngay sau đó, tôi có mời
Hà Thanh thâu thanh cho Hăng đĩa Continental. Nếu tôi
nhớ không lầm th́ bản nhạc đầu tiên tôi
trao cho Hà Thanh là bài VỀ MÁI NHÀ XƯA do tôi sáng tác.
Lần đó, cô Hà Thanh hát thật tốt, toàn ban
nhạc và Ban Giám Đốc Hăng Continental rất hài ḷng,
khen ngợi. Sau ngày đó, cô Hà Thanh từ giă trở
về lại Huế, trở về lại với
Cố đô trầm mặc, tĩnh lặng, không sôi
nổi như Thủ Đô Saig̣n, là cái nôi của âm
nhạc thời bấy giờ. https://www.youtube.com/watch?v=EOJmcHk-RIM Sau
khi Hà Thanh trở về Huế, tôi có nhiều suy tư
về giọng hát đặc biệt này. Tôi ví von, cho
đây là v́ sao c̣n bị che khuất, chưa toả
hết ánh hào quang, v́ chưa có hoàn cảnh thuận
lợi để đăng quang, nếu phó mặc cho
thời gian, cho định mệnh, có thễ một ngày
kia sẽ hối tiếc. V́ vậy tôi đem việc này
ra bàn với Ban Giám Đốc Hăng đĩa Continental
để mời cô Hà Thanh vào Sàig̣n cộng tác. Chính
tôi viết thư mời cô Hà Thanh vào Sàig̣n với
những lư lẽ rất thuyết phục, rất văn
nghệ, rất chân t́nh. Và cô Hà Thanh đă vào Sàig̣n
sau khi đă tranh đấu gay go với gia đ́nh
bố mẹ, vốn giữ nề nếp cỗ xưa
của con người xứ Huế. Ngày đó Hà Thanh
vào Sàig̣n, hoà nhập vào đời sống người
Sàig̣n, vào nhịp đập âm nhạc Sàig̣n, vốn
đứng đầu văn nghệ cả nước.
Hà Thanh đi thâu thanh cho Đài Sàig̣n, Đài Quân Đội
và nhận được lời mời tới tấp
của các Hăng đĩa băng nhạc như Sóng
nhạc, Việt Nam, Tân Thanh, Tứ Hải và hầu
hết các Trung Tâm ở Thủ Đô Sàig̣n, chứ không
phải chỉ riêng cho Hăng dĩa Continental và Sơn Ca
của tôi. Ngày đó, tiếng hót của con chim Sơn
Ca đất Thần Kinh đă được vang
thật xa, đi vào trái tim của hàng triệu người
yêu mến tiếng hát Hà Thanh. https://www.youtube.com/watch?v=qrgMMQadico Tôi
cho rằng Hà Thanh có giọng hát thiên phú, cô hát
rất thoải mái dễ dàng, không cầu kỳ, không
cường điệu, không g̣ bó nhưng nó cuốn hút
ta đi trong cái bềnh bồng không g̣ ép đó. Tôi cám
ơn tiếng hát của Hà Thanh đă mang lại cho các
bài hát của tôi thêm màu sắc, thêm thi vị, bay
bổng. Trước khi đến với Hà Thanh, tôi cũng
rất ngưởng mộ tiếng hát của cô Thái
Thanh, Lệ Thanh, Khánh Ngọc và nhiều người khác
đă gieo khắp phương trời tiếng ḷng
của tôi, cũng như về sau này có thêm các cô
học tṛ như Thanh Tuyền, Giao Linh đă giúp cho ông
Thầy truyền tải đến trái tim người
yêu nhạc. Nhưng đặc biệt, tiếng hát Hà
Thanh đă để lại trong tôi nhiều kỹ
niệm tốt đẹp, bền bỉ tuy thời gian
ngắn ngủi kể từ khi cô bỏ đi lấy
chồng để tôi độc hành trên đường
nghệ thuật. Sau biến cố 1975, tôi không c̣n
dịp hợp tác với cô Hà Thanh như trước
đây. Nhưng thỉnh thoảng tôi được
nghe cô hát một sáng tác mới của tôi ở
hải ngoại, tôi vẫn cảm thấy tiếng
của cô vẫn đậm đà phong cách ngày xưa,
vẫn một Hà Thanh diễn cảm, sang trọng, sáng
tạo trong khi hát, mặc dù thời gian chia cách đă
40 năm qua. Nguyễn
Văn Đông |