LGT:
Bài viết được sắp xếp theo thời gian sự kiện. Mời quư
vị click ở mục nào theo ư muốn:
1.
Mùa
Xuân Kỷ Dậu 1789:
2.
Mùa
Xuân Mậu Thân - Tổng
Công Kích Tết
Mậu Thân
1968 tại
Huế:
3.
Mùa
Xuân Quư Sửu - "Hiệp Định
Chấm
Dứt Chiến Tranh Lập
Lại Hoà B́nh Ở Việt Nam"
tại Paris năm 1973:
4.
Mùa
Xuân Giáp Dần - Hải Chiến Hoàng Sa 19.1.1974:
4.a.
Toán công binh và nhân
viên Toà Lănh Sự
Mỹ ông
Gerald Kosh
lên đảo Quang
Hoà:
4.b.
Toán Hải kích từ HQ 5 vào đảo:
4.1.
Những
phát đạn đầu tiên:
4.2.
Kết
quả trận hải chiến:
4.2.1.
Thiệt hại về phía HQ Việt Nam
Cộng Hoà:
4.2.2.
Thiệt hại về phía Trung cộng:
5.
Mùa
Xuân Ất Măo 1975 - Đám Cưới, Di Tản Quân Dân
Cán Chính và những tháng năm kế tiếp:
6.
Mùa
Xuân Quư Tỵ 2013 - Ḷng người Viễn Xứ:
Thời
gian không dừng lại, cuộc đời trải qua
bao nỗi thăng trầm. Mỗi độ Xuân
về nơi xứ người làm cho tôi thêm ray
rức. Ở đây làm sao có Xuân để đón.
Khi Mùa Xuân về trên quê hương th́ nơi tôi
định cư là vào mùa Đông. Tuyết trắng
phủ khắp không gian, trời rất lạnh.
Nhiệt độ âm, khoảng - 5 cho đến -15
độ Celcius. Đôi khi, hệ thống lưu thông
có phần tắt nghẽn. Với những phút suy tư
về cuộc đời, về thời cuộc, tôi
ghi lại đôi gịng những cảm nghĩ liên quan
đến những mùa Xuân được ghi dấu
trong tôi.
1.
Mùa
Xuân Kỷ Dậu 1789:
Hôm
nay là ngày mùng 5 tháng giêng năm Quư Tỵ, 2013, đánh
dấu Mùa Xuân Chiến Thắng cách đây 224 năm
nhằm ngày 30 tháng 1 năm 1789 tức là ngày mùng 5 tháng
giêng năm Kỷ Dậu mà toàn dân Việt Nam luôn ghi
nhớ.

Quang Trung Hoàng Đế
Khi vua Chiêu Thống sang cầu cứu nhà Thanh, lúc
đó vua Thanh là Càn Long. Vua Thanh sai Tổng đốc
Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị lấy
cớ pḥ vua Lê Chiêu Thống trở lại Đại
Việt, đem 20 vạn quân qua xâm lăng và chiếm
đóng Thăng Long năm Mậu Thân, 1788. Được
tin đó, Bắc B́nh Vương Nguyễn Huệ lên
ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung,
đóng đô ở Phú Xuân, tiến quân ra Bắc Hà.
Trận G̣ Đống Đa, đồn Ngọc
Hồi vào đầu năm 1789 do Hoàng Đế Quang
Trung lănh đạo, chỉ huy khoảng 10 vạn quân
Đại Việt
đánh bại 20 vạn quân Thanh để mang
lại thái b́nh cho đất nước. Đó là mùa
Xuân Chiến Thắng Kỷ Dậu huy hoàng của dân
tộc Việt
Nam
.
2.
Mùa
Xuân Mậu Thân - Tổng
Công Kích Tết
Mậu Thân
1968 tại
Huế:
Khi gia nhập vào quân đội, tôi
mới được nghe những bạn bè ở
Thừa Thiên kể chuyện về Tết Mậu Thân
1968 tại Huế thật khủng khiếp quá.
Với hoà ước ngưng chiến giữa cộng
quân Bắc Việt và quân đội VNCH vào dịp Xuân
về, toàn dân miền
Nam
hân hoan đón mừng Năm Mới. Trong khi mọi người
ăn Tết an vui thái b́nh vào ngày mùng một th́
rạng sáng ngày mùng hai, cộng quân phản bội hoà
ước, bắt đầu tổng tấn công vào
nhiều thành phố và xóm làng tại miền
Nam
. Riêng tại Huế, nhiều ngàn người bị
giết chết bằng đủ kiểu cách, bị
giết cá nhân cũng như bị giết tập
thể. Thời điểm đó, quê hương tôi
trận chiến cũng xảy ra nhưng ở mức
độ không ác liệt như ở Huế. Năm
1968 tôi c̣n là một học sinh nên cũng chẳng
để ư nhiều về cuộc chiến. Tôi
chỉ nghe tin tức trên đài phát thanh nhiều hơn
là đọc báo. Do đó nhiều h́nh ảnh tang thương
của quê hương, cũng như cảnh chết
chóc của đồng bào tại Huế tôi khó mà mường
tượng. Khi lập gia đ́nh, vợ tôi là người
Huế và có 2 người chú ruột cũng bị
cộng quân giết chết vào Tết Mậu Thân nên
tôi mới hiểu nhiều hơn. Ra hải ngoại
đọc thêm nhiều hồi kư, nhiều sách
truyện của những tác giả là chứng nhân
đă viết như “Giải Khăn Sô cho Huế”
của Nhă Ca, tôi mới thấy được
một cuộc chiến quá dă man, nhiều kiểu
giết người không gớm tay.
3.
Mùa
Xuân Quư Sửu - "Hiệp Định
Chấm
Dứt Chiến Tranh Lập
Lại Hoà B́nh Ở Việt Nam"
tại Paris năm 1973:

Rồi một mùa Xuân nữa lại trở
về trong niềm hân hoan chờ đón của toàn dân
miền Nam Việt Nam, mặc dù h́nh ảnh Tết
Mậu Thân 5 năm về trước vẫn c̣n
ấn tượng cho người dân Huế. Nhưng
đối với các thành phố khác, không khí
tiết Xuân đă làm cho ḷng người hân hoan đón
chào sau một năm dài vất vả với công
ăn việc làm. Đặc biệt vào mùa Xuân năm
ấy, dân tộc ḿnh c̣n ǵ vui hơn khi được
tin "Hiệp Định Chấm Dứt Chiến Tranh Lập Lại
Hoà B́nh Ở Việt Nam" vừa
được kư kết vào ngày 27.1.1973 tức là ngày
24 tháng chạp năm Nhâm Tư tại Paris. Tạm gọi ngắn gọn
là "Hiệp Định Paris 1973". Tin tức về "Hiệp
Định Paris 1973" được truyền
đi nhanh chóng trên những phương tiện
truyền thông. Chiến tranh tại Việt
Nam
được chấm dứt. Lúc đó tôi nghĩ
ngợi mông lung. Có lẽ tôi cũng cùng tâm trạng
như mỗi chiến sĩ quân lực VNCH trên
khắp mọi nẻo đường đất nước,
như mỗi tân binh, như mỗi sinh viên sĩ quan,
ai ai cũng vui mừng khôn tả rằng hoà b́nh đến
với quê hương Việt Nam. Mỗi người
có thể dệt ước mơ cho ḿnh một
cuộc sống thanh b́nh thời hậu chiến.
Riêng tôi th́ mong ước tiếp tục
cuộc đời sinh viên thuần tuư mà ḿnh đă
đến và đă xếp bút nghiên ra đi ṭng quân
cứu nước:
“Trả lại em yêu khung trời Đại học.
Con đường Duy Tân cây dài bóng mát…”
Bây giờ tôi sẽ trở lại con đường
xưa yêu dấu, cố gắng học thành tài và
mong rằng góp phần xây dựng quê hương
thời hậu chiến. Một trời ước mơ
đến với tôi ! Bạn bè tôi cũng vậy.
Đứa nào cũng có văn bằng tối
thiểu là tú tài 2 để được tuyển
chọn vào quân chủng Hải quân Quân lực VNCH. Có
bạn đă vào đại học được
một, vài, ba năm trước khi bị động
viên vào lính. Giờ đây, đất nước thái
b́nh th́ sẽ tiếp tục việc học trở
lại để trở thành những chuyên gia với
kiến năng đa hiệu, sẽ giúp ích cho xă
hội, góp phần tái thiết quê hương -
một quê hương
đă phải gánh chịu bao cảnh tang thương,
ruộng vườn nhà cửa… bị tàn phá qua
những năm dài chinh chiến. Thật là một
tầng lớp nhân tài, những chuyên viên ưu tú
của đất nước thời hậu chiến.
Lúc bấy giờ tôi đang thụ huấn giai
đoạn 2 tại trường Sĩ Quan Hải Quân
Nha Trang. Trước khi tôi được thuyên
chuyển từ Bộ Tư Lệnh Hạm Đội
Hải Quân Sài G̣n ra Trường Sĩ Quan Hải Quân
Nha Trang thụ huấn, chúng tôi đă được
huấn luyện căn bản quân sự tại Trung Tâm
Huấn Luyện Quang Trung kéo dài 3 tháng. Tiếp theo là
đi thực tập trên các chiến hạm của
Hải Quân VNCH. Riêng tôi cũng đă được
phân phối đi thực tập trên Hoả Vận
Hạm HQ471 (2 tháng) và Hộ Tống Hạm Nhật
Tảo HQ10 (7 tháng) để làm quen với biển
cả cũng như học hỏi về hải
nghiệp.
Đi
tàu biển tôi mới hiểu được cụm
từ “cho cá ăn chè” hoặc “ôm sô”. Trên
chiến hạm Nhật Tảo HQ10, nhóm SVSQ chúng tôi
gồm có 10 bạn và được chia làm 3 ca (quart),
c̣n gọi là phiên. Tôi trực thuộc một ca. Trưởng
ca là HQ Thiếu Uư Lê văn Từ, thủ khoa Khoá 19
SQHQNT ngành Chỉ huy. Trong thời gian đi thực
tập trên chiến hạm, tôi đă học
được rất nhiều điều hữu ích
về hải nghiệp với sự chỉ dẫn
tận t́nh của sĩ quan trưởng ca.
Tôi
c̣n nhớ vào một hôm biển động mạnh,
trời mưa, tôi hết ca từ đài chỉ huy
HQ10 đi xuống pḥng ngủ, mặt mày hơi tái
xanh v́ khá mệt. Bạn bè hỏi thăm tôi rằng
có “cho cá ăn chè” không?. Tôi không hiểu và
hỏi: Hôm nay nhà bếp có nấu chè sao? Các bạn
cười rộ. Một bạn thốt lên: Tụi nó
hỏi mầy rằng biển động như
vậy mầy có bị “mửa” không đó. Từ
đó tôi mới hiểu cụm từ “cho cá ăn
chè”.
Trước
khi gia nhập vào Hải quân tôi cũng thường
nghe nhạc phẩm Hoa Biển của nhạc sĩ
Hải quân Anh Thy. Khi đi thực tập trên
chiến hạm ngoài biển khơi hàng tuần, tôi
mới hiểu được hoa biển trong văn chương.
Khi sóng nhẹ, hoa biển xuất hiện trên mặt
biển dưới bóng trăng đêm với vẻ
đẹp nên thơ, nhưng khi trùng dương
dậy sóng, hoa biển được bắn tung toé lên
đài chỉ huy của chiến hạm, nơi đâu
cũng thấy toàn là hoa biển th́ mới thấm thía
về cuộc đời “thuỷ thủ và biển
cả”. Nhưng đổi lại, đó là lúc
tập luyện “sự nhẫn nại của con người
và chắc chắn sẽ hữu ích cho cuộc đời”
và cuộc đời tôi đă chứng minh và đă
trải qua.
Là
sinh viên sĩ quan (SVSQ), vào mùa Xuân Quư Sửu chúng tôi
đang mang cấp bậc tương đương
Chuẩn Uư (dấu hiệu Alpha Omega). Khoá đào tạo Sĩ
Quan Hải Quân của chúng tôi kéo dài 2 năm. Chúng
tôi được tiếp tục đào tạo chuyên
môn gần 9 tháng nữa mới tốt nghiệp.
Việc học hành nơi quân trường cũng khá
gian nan. Những môn học như toán bậc đại
học để ứng dụng vào lănh vực điện
tử, môn điện kỹ nghệ, môn điện
tử, môn thiên văn học, quản trị học,
lănh đạo chỉ huy, nhiên liệu, cơ khí, hàng
hải, Anh văn v.v. đủ làm cho mỗi sinh viên
chúng tôi đừ người. Mỗi ngày có từ 6
đến 8 giờ học ở giảng đường.
Ngoài ra c̣n có thêm thời gian luân phiên đi thăm viếng
và thực tập trên các chiến hạm. Ngoài
giờ ở pḥng học, chiều về chúng tôi c̣n
phải tập diễn hành nơi sân vận động
của quân trường để chuẩn bị cho
cuộc diễn hành mừng ngày Quân Lực 19.6.1973
tại Sài G̣n.
Vào ban đêm, SVSQ chúng tôi lại phải vào
giảng đường để ôn bài cho tới
khuya, chuẩn bị cho những kỳ thi sau mỗi
thời gian học. Tinh thần học tập của
SVSQ cũng khá căng thẳng v́ SVSQ nào cũng sợ
thi bị rớt, nhất là vào kỳ thi tốt
nghiệp. Đối với những SVSQ thi rớt
ở giai đoạn 1 (sau 1 năm thụ huấn đầu
tiên) th́ cũng phải bị đưa ra đơn
vị và mang cấp bậc Trung sĩ. SVSQ đó cũng
phải chờ 2 năm, cách 1 khoá kế tiếp
mới được về học lại từ
đầu. C̣n đối với SVSQ thi rớt ở
kỳ thi tốt nghiệp thuộc giai đoạn 2
th́ cũng phải bị đưa ra đơn vị
với cấp bậc Chuẩn Uư. Lẽ tất nhiên
Chuẩn Uư sẽ không được thăng cấp
tự động mà phải chờ đợi khoá
thứ 2 kế tiếp mới được trở
về học lại 1 năm, rồi thi tốt
nghiệp trở lại.
Biệt
Điện Bảo Đại,
Hải
Học Viện và
Quân Cảng
Nha Trang
Vào một buổi chiều tối Xuân, tôi
thuộc toán SVSQ đi ứng chiến tại Biệt
Điện Bảo Đại nằm ở phía Nam thành
phố Nha Trang gần trường Sĩ Quan Hải Quân,
cách khoảng vài ba cây số. Biệt Điện
được xây dựng trên ngọn đồi không
cao lắm, đủ tầm nh́n ra khơi và hướng
về phố thị. Nh́n ra biển, mặt nước
xanh biếc. Cận bến bờ Cầu Đá là thương
cảng Nha Trang, nơi đó chúng tôi có thể
tập lái những chiếc ca-nô (yuyu), dùng để
chở quân đổ bộ khi học về môn
vận chuyển. Thấp thoáng những đợt sóng
êm đềm lướt theo làn gió Xuân nhè nhẹ
tạo thành những âm điệu ŕ rào rung cảm ḷng
người lữ thứ. Hướng về thương
cảng, cách Biệt Điện khoảng 400 mét
đường chim bay là Hải Học Viện Nha
Trang được thành lập vào năm 1922. Từ năm
1969 Hải Học Viện trực thuộc Viện
Đại Học Sài G̣n, là nơi lưu trữ các
dữ kiện về địa chấn học, chu
kỳ thuỷ triều và hải lưu vùng biển
Đông.
Chung
quanh Biệt Điện có nhiều loại bông hoa
đua nhau nở rộ, màu sắc rực rở như
chào đón chúa Xuân. Thêm vào đó, có nhiều cây
cảnh, cành lá xum xuê, rất đẹp. Đặc
biệt là loại cây hoa sứ, mùi thơm ngây
ngất. Nhiều đàn chim se sẻ chiều tối
tụ về tổ ấm trên những cành cây ca hót líu
lo, đón chào mùa Xuân mới.
Hướng
về thành phố Nha Trang, bên cạnh là phi trường,
ánh điện muôn màu như ngàn sao lấp lánh vào
những đêm trăng mùa hè, toả sáng cả
một phương trời phố thị thân yêu
đang bừng lên sức sống. Con đường
Duy Tân với những cột điện bên đường
ẩn hiện trong những hàng cây dương
liễu cao vút, vươn ḿnh theo gió, chạy dọc
theo bờ biển h́nh bán nguyệt với bải cát
trắng xoá, lung linh như những ánh sao rơi. Xa xa
nh́n về phía Bắc hướng cầu Hà Ra và
cầu Bóng của thành phố Nha Trang, nhiều
chiếc thuyền nan ẩn hiện với những ánh
đèn trên mui ghe chiếu sáng như báo hiệu
một cuộc sống thái hoà.
Sau một đêm ứng chiến b́nh an, sáng
thức dậy tâm hồn thật phơi phới. Tôi
hít hơi thở thật sâu. Lồng ngực căng
phồng, phổi tràn đầy không khí trong lành
của gió biển vào Xuân trước vườn cây
xanh tươi đâm chồi nở nhuỵ. Ḷng ḿnh
khoan khoái biết bao hoà cùng với bướm lượn,
hoa cười đón mừng chúa Xuân. Nàng Xuân đẹp
quá, dễ thương quá, tôi thầm hát:
Nàng
Xuân đến giáng Xuân diễm kiều thầm yêu ai
đó
Nàng Xuân hởi với tôi hảy cùng cùng hoà
tiếng tơ
Tôi
đón Xuân với ḷng thấm thiết
Tôi đón Xuân với niềm hân hoan
Tôi đón Xuân với t́nh bát ngát
Tôi với Xuân vô vàng niềm yêu
(Nhạc phẩm Nàng Xuân của Tôi của Nguyễn
Hữu Thiết)
Vào buổi sáng tinh sương, sau khi hoàn thành
nhiệm vụ ứng chiến, toán SVSQ chúng tôi trên
đường từ Biệt Điện trở
về quân trường gặp nhiều xe cộ
chạy ngược chạy xuôi. Những khuôn mặt
trai trẻ tràn đầy vui tươi, yêu đời
trong những ngày đầu Xuân hiền hoà của
miền
Nam
tự do.
Trước những cảnh tượng đó,
trong tôi hiện lên niềm vui khôn tả và thoáng
chốc những vần thơ xuất hiện. Tôi
đă chọn 3 chữ đầu làm tựa đề
cho bài thơ:
Xuân
Thanh B́nh
nay về trên đất Mẹ
Ngàn đoá hoa đua nở đón Xuân sang
Màu Xuân tươi nhuỵ thắm cánh mai vàng
Cây cỏ ướm mầm non Xuân Dân Tộc
Xuân nay về không c̣n nghe tiếng khóc
Bom đạn thù gây chết chóc thê lương
Mẹ Việt
Nam
gịng lệ hết trào tuôn
Màu chinh chiến phai nhoà trong dĩ văng
Gió Xuân về bầu trời xanh quang đăng
Dân tộc ḿnh hạnh phúc đón Xuân sang
Xuân vui tươi rộn ră khắp thôn làng,
Nơi phố thị hồi sinh bừng sức
sống !
(Nguyễn Văn Phảy
Xuân Quư Sửu
1973
tại Nha Trang)
Tâm trạng của tôi lúc bấy giờ tràn
đầy niềm vui với mùa
Xuân Thanh B́nh hy vọng. Đó là mùa Xuân Quư
Sửu 1973. Tôi luôn ước mong, tiếp nối
sẽ là những mùa Xuân hiền hoà, Xuân an vui đến
với quê hương và dân tộc Việt
Nam
. Đó là những mùa Xuân không chiến tranh, không bom
đạn, không thù hằn, không tiếng khóc.
Nhưng
rồi, những tháng ngày kế tiếp trôi qua. Tôi và
bạn bè đă thất vọng về "Hiệp định
Paris
1973". Chiến sự vẫn tiếp tục. Tin tức
cho biết, những đoàn xe tăng T54, súng đạn
của Liên Xô, Tàu cộng và của khối cộng
sản đông Âu, được tiếp tục chuyên
chở vào miền Nam cùng những đoàn quân trai
trẻ, gồm nhiều bộ đội cộng
sản Bắc Việt chưa tṛn 18 tuổi. Tất
cả phục vụ chiến trường nhằm
thực hiện âm mưu thôn tính miền
Nam
của quốc tế cộng sản.
Thế là theo thời gian, ước mơ hoà b́nh
đều tan biến trong tôi và bạn bè. Khoá đào
tạo Sĩ quan Hải quân Đệ Nhị Song Ngư
của chúng tôi, ngày qua ngày vẫn được
diễn ra như thường lệ.
Ngày 19.6.1973, để biểu diễn sức
mạnh của Toàn Quân Dân VNCH, khoá chúng tôi lên
đường về Sài G̣n để diễn hành
mừng Ngày Quân Lực. Đó cũng là niềm
tự hào của quân chủng Hải Quân chúng tôi.
Và rồi, sau 2 năm dài học tập, tôi cùng
với 279 bạn bè cùng trang lứa, là những SVSQ
với những năm dài thụ huấn hải
nghiệp, đă chính thức tốt nghiệp với
kỳ thi khá khó khăn. Có một số SVSQ bị
hỏng trong kỳ thi măn khoá. Một buổi Lễ
Tốt Nghiệp được tổ chức rất
trọng thể vào ngày 01.09.1973 tại Trung Tâm
Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang với sự tham
dự và chủ toạ của đại diện chính
phủ VNCH cũng như Đô Đốc Tư
Lệnh Hải Quân và thân nhân của chúng tôi.
Rồi từ đó chúng tôi chính thức mang lon
Hải Quân Thiếu uư (dấu
hiệu Omega) trên vai. Sau 1 tuần lễ nghỉ phép,
với trọng trách của một tân Sĩ Quan
Hải Quân, khoá chúng tôi được tung đi tân
đáo trên các chiến hạm, ở các đơn
vị duyên hải và giang đoàn khắp mọi
nẻo đường đất nước.
Tôi nằm trong danh sách 30 tân sĩ quan có số
điểm thi tốt nghiệp cao nhất khoá,
được đi thực tập tại Đệ
Thất Hạm Đội Mỹ nên phải về
Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Sài G̣n để
chuẩn bị Anh ngữ nên không được đi
phép 1 tuần.
4.
Mùa
Xuân Giáp Dần - Hải Chiến Hoàng Sa 19.1.1974:
Thắm thoát gần 1 năm Hiệp định
Paris
được kư kết. Vào những ngày đầu
năm 1974, với sự hợp tác của Trung
cộng, cộng quân Bắc Việt đă gia tăng
tấn công trên đất liền tại miền Nam
để làm suy yếu lực lượng đối
kháng của quân lực VNCH. Thừa cơ hội, Mao
Trạch Đông chỉ thị cho Đặng Tiểu
B́nh để họp bàn với các cấp lănh đạo
nhằm thực hiện cuộc hành quân biển để
tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa thuộc
chủ quyền Việt
Nam
. Trung cộng thành lập một lực lượng
hải quân đặc nhiệm thật hùng hậu
gồm nhiều loại tàu chiến tối tân, kể
cả tàu ngầm được trang bị hoả
tiển, ngư lôi và phi đội chiến đấu
cơ Mig. Chúng chia làm 2 phân đội. Một phân
đội tấn công đi trước gồm có 2
Liệp Tiềm Đỉnh (loại Hộ Tống
Hạm) Kronstadt K271 và K274, 2 Tảo Lôi Hạm (loại
Trục Lôi Hạm) 389 và 396 và 2 Liệp Tiềm Đỉnh
khác là 281 và 282, cộng thêm những tàu đánh cá có
vũ trang mang danh số 402 và 407… Một phân đội
tiếp ứng khác theo sau cùng tiến ra quần đảo
Hoàng Sa nhằm xâm lăng biển đảo của
ta. Cuộc hành quân biển của Trung cộng do Phó
Đô Đốc Phương Quang Kinh, Tư Lệnh Phó
Hạm Đội Nam Hải Trung cộng chỉ huy.

Tổ
lănh đạo Trung cộng 6 người gồm
Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu B́nh, Vương
Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Trần Tích
Liên, Tô Chấn Hoa. Đặng Tiểu B́nh tuy là Phó
nhưng lấn lướt luôn quyền của
Thống Chế Diệp Kiếm Anh. Mao Trạch Đông,
Chu
Ân Lai cũng tham gia điều động lực lượng.
Những
chiến hạm của Hải quân Trung cộng xâm
chiếm quần đảo Hoàng Sa.
Phóng
đồ điều quân của trận hải
chiến Hoàng Sa quanh hai đảo Duy Mộng và Quang Hoà
Đông.

Những chiến hạm của Hải Quân VNCH
Lúc bấy giờ Tuần Dương Hạm HQ16
của HQ VNCH đang tuần tra tại quần đảo
Hoàng Sa biết được nhiều tàu chiến cũng
như những tàu đánh cá được ngụy
trang vũ khí của TC xâm nhập vào nhóm đảo
Nguyệt Thiềm của quần đảo Hoàng Sa
thuộc chủ quyền Việt Nam. Tức th́ HQ16 báo
cáo về Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải
(TLV1DH), lúc
đó Phó Đề
Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là Tư Lệnh Vùng
1 Duyên Hải. Sau đó Bộ Tư Lệnh Hải
Quân VNCH đă chỉ định HQ Đại tá Hà Văn
Ngạc (K5-SQHQNT) đương kim Hải Đội Trưởng Hải đội 3
tăng phái cho Bộ Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải. Lúc bấy giờ
TLV1DH là Tư Lệnh Chiến trường và là vị
Chỉ huy Liên Đoàn Đặc Nhiệm gồm các
chiến hạm đương nhiệm và tăng phái
cho chiến dịch Hoàng Sa.
  
Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
HQ Đại Tá Hà Văn Ngạc
Tư lệnh HQ Vùng 1 Duyên Hải Chỉ
Huy Trưởng Chiến Dịch Hoàng Sa
Khi Hải Quân Đại tá Hà văn Ngạc từ Sài G̣n ra đến Bộ
TLV1DH th́ Vị
Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải chỉ định
Hải quân Đại tá Hà văn Ngạc làm Chỉ huy Trưởng
Chiến Thuật cho chiến dịch bảo vệ biển đảo
gồm
có các chiến hạm sau đây:
-
Khu Trục Hạm HQ4, Hạm trưởng là HQ Trung tá
Vũ hữu San (K11-SQHQNT)
- Tuần Dương Hạm HQ5, Hạm trưởng là
HQ Trung tá Phạm trọng Quỳnh (K11-SQHQNT). HQ5 là Soái
Hạm (OTC: officer in tactical command) v́ HQ Đại tá Hà
văn Ngạc hiện diện trên đó
để chỉ huy chiến dịch.
- Tuần Dương Hạm HQ16, Hạm trưởng là
HQ Trung tá Lê văn Thự (K10-SQHQNT)
- Hộ Tống Hạm HQ10, Hạm trưởng là HQ
Thiếu tá Ngụy văn Thà (K12-
SQHQNT).
T́nh
h́nh chiến sự thời điểm đó rất căng
thẳng. Áp lực của cộng quân Bắc Việt
trên đất liền ngày càng gia tăng. Hải quân
VNCH phải được phân tán mỏng ở các vùng
duyên hải để ngăn chận Việt cộng
xâm nhập bằng đường biển vào bờ
ở miền Nam. Nhưng với quyết tâm bảo vệ biển
đảo, không thể để một tấc đất
nào lọt vào tay giặc phương Bắc như các
bậc tiền nhân căn dặn, Hải quân VNCH đă
giáng cho Hải quân Trung cộng một trận
quyết liệt gây tổn thất nặng nề cho
TC từ khoảng 10:25 phút đến khoảng 11:10 phút
ngày 19.01.1974 tức là ngày 27 tháng 12 năm Quư Sửu
mặc dù lực lượng ta yếu kém hơn so
với lực lượng HQ Trung cộng.
Trong
thời gian từ ngày 16.1.1974 đến 18.4.1974, có
lần Khu Trục Hạm HQ4 ủi đụng tàu
đánh cá TC mang số 407 được vũ trang khi
chúng chạy chận đầu HQ4 để khiêu khích.
Trong trận hải chiến 19.1.1974, tôi có 6 người
bạn cùng khoá Đệ Nhị Song Ngư Sĩ Quan
Hải Quân Nha Trang hiện diện trên các chiến
hạm. Tôi cũng được nghe các bạn bè
hiện đang định cư tại hải
ngoại đă tham dự trận Hải Chiến Hoàng
Sa kể lại
một số chi tiết về
trận
chiến.
Để
đối đầu với lực lượng
Hải quân TC, lực lượng ta được phân
chia trách nhiệm như sau:
-
HQ16 >< T396
- HQ10 >< T389
- HQ 4 >< K271
- HQ 5 >< K274
Theo như lời người bạn cùng khoá, HQ
Thiếu uư Nguyễn Văn Quư trên HQ5 kể cho tôi
nghe khi tôi qua Hoa Kỳ thăm viếng năm 2005 cũng
như bạn cùng khoá Nguyễn Hoà Nguyên liên lạc
với bạn Quư vào đầu năm nay đă ghi
lại như sau:
"… HQ5 ra đến Hoàng Sa buổi
chiều 18.1.1974. Biển
Hoàng Sa lúc đó đang ở vào mùa biển một,
biển phẳng lặng, êm, rất êm! HQ5 tức
khắc nhập đoàn cùng với HQ4 và HQ16 đang có
mặt tại chỗ, cả 3 chiến hạm vào
nhiệm sở tác chiến, lập đội h́nh
"biểu dương lực lượng". Các tàu
Trung cộng thoạt đầu nh́n thấy đội
h́nh các tàu của ta th́ họ chạy dạt ra xa, e dè
quan sát. Chỉ một lúc sau đó, họ cũng
lập đội h́nh "biểu diễn giỡn
mặt". Các tàu Trung cộng nhỏ hơn nhưng
chạy nhanh hơn, chúng chạy lượn quanh,
chạy chận đầu các chiến hạm của
ta. Phía hữu hạm HQ5, có một chiếc tàu Trung
cộng chạy xé sóng, đâm tới nguy hiểm, khi
c̣n cách khoảng 100 mét th́ nó th́nh ĺnh đổi hướng
chạy song song với HQ5. Trên tàu, lính Trung cộng
cởi trần, múa may, chỉ trỏ, la ó khiêu khích,
khiến các chiến sĩ của ta thấy vui rồi
nổi nóng. Một trận đấu vơ miệng hai bên,
từ trên xuống dưới, mạnh ai nấy chưởi,
tiếng Việt và tiếng Tàu bằng loa và bằng
mồm đă diễn ra…”
4.a
Toán công binh và nhân
viên Toà Lănh Sự
Mỹ ông
Gerald Kosh
lên đảo Quang
Hoà:
(Lănh
Sự Mỹ tại Đà Nẵng, ông Jerry Scott là bạn của Phó Đề
Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, TLV1DH, là 1 cưụ Sĩ Quan HQ Mỹ, xin
phép Đô Đốc Thoại cho ông Gerald Kosh theo HQ16 để biết Hoàng
Sa. Sự thực Toà Lănh Sự Mỹ có ư ǵ hay ông Gerald Kosh có làm
việc cho CIA hay không th́ vị TLV1DH không biết.)
Theo như người bạn cùng khoá
HQ Thiếu uư Phan Công Minh thuộc HQ5 tóm lược
nhiệm vụ đưa toán công binh và cố vấn
Mỹ vào đảo đêm 18.1.1974:
“… Sau nhiều
lần kiểm tra đạt yêu cầu, Đại Tá
Ngạc mới chính thức giao nhiệm vụ cho
Thiếu uư Minh để đưa đoàn công tác lên
đảo Hoàng Sa vào tối khuya ngày 18.1.1974.
Cùng đi với Thiếu uư Minh có hai nhân viên cơ
hữu HQ5 để lái ca nô (yuyu) và chống mũi.
Trung uư Nguyễn minh Cảnh chỉ huy toán hải kích
đi chung. Kéo theo sau là hai xuồng cao su do hai nhân viên
hải kích cầm lái chở đoàn công tác công binh
và một
nhân
viên Toà Lănh Sự Mỹ,
ông Gerald Kosh. Vũ khí
đem theo là mấy khẩu M16. Sau khi rời chiến
hạm các chiến sĩ ta đi trong t́nh trạng im
lặng vô tuyến mặc dù có mang theo một máy PRC
25. Đó là chỉ thị của Đại tá
Ngạc nhằm bảo đảm an ninh tuyệt đối
cho cuộc hành quân. Chỉ liên lạc vô tuyến khi
cần thiết mà thôi. Gần một giờ trôi qua
th́ đảo hiện ra lù lù một đống đen
ng̣m trước mặt, ca nô giảm máy chạy
từ từ tiếp cận đảo.
Gần tới đảo, một nhân viên của đoàn
công binh dùng đèn pin ra ám hiệu với đơn
vị trên đảo, tất cả đều rất
căng thẳng. Một ánh đèn pin lóe lên,
tất cả hồi hộp, sau một loạt tín
hiệu người liên lạc thốt lên:" phe
ta"! tất cả thở phào nhẹ nhỏm. Trung uư
Cảnh nói với Thiếu uư Minh : "anh em ḿnh thoát
nạn !". Sau khi đưa toán công binh lên đảo
an toàn, HQ Thiếu
uư Minh và 2 nhân viên cơ hữu quay
trở lại chiến hạm. Trên đường
về cũng hơi lo lắng nhiều, v́ đêm
tối như mực.
Bạn Minh kể tiếp: “Tôi đă thi hành xong
nhiệm vụ được giao phó. Chỉ một
lần tiếp xúc với Đại tá Ngạc, tôi
nhận thấy Ông là một vị chỉ huy có trách
nhiệm, biết dự trù các t́nh huống, cẩn
thận, trầm tĩnh biết cách sử dụng và
động viên nhân viên dưới quyền, theo tôi
biết ông thức gần sáng đêm để
vạch kế hoạch cho cuộc hành quân tái
chiếm các đảo đă bị Trung cộng
lấn chiếm.”
Sáng sớm ngày hôm sau là ngày 19.1.1974, nhận
được thông tin từ Sài G̣n ra lệnh tái
chiếm các đảo bị địch lấn
chiếm. Các Sĩ Quan trưởng khẩu của
những chiến hạm đều quyết tâm
bắn chiến hạm địch trước. Tuy nhiên
bộ chỉ huy hành quân cũng đă phân tích
lợi hại, và đă thống nhất phương
án đổ bộ lên đảo.
4.b.
Toán Hải kích từ HQ 5 vào đảo:
HQ
Thiếu úy Minh kể về toán Hải kích từ HQ5
vào đảo như sau:
Khoảng gần 7 giờ sáng ngày 19.1.1974, HQ5 cho đổ
bộ toán người Nhái Hải kích do Thiếu úy Đơn chỉ huy. Các người lính Hải kích
bận quần sọt ở trần, vơ trang súng M16,
M18, M79 cả AK bá xếp và B40, đại liên M60, M72
và dao găm.
Khi
toán Hải kích tới đảo, Thiếu úy Đơn, trưởng toán, cho dàn hàng ngang chuẩn
bị xung phong. Từ chiến hạm HQ5 Thiếu úy Minh thấy lính TC chạy ra ngăn. Thiếu úy Đơn giơ cao khẩu colt 45 hô xung phong. Một
Hải kích tên Long cầm khẩu đại liên M60
xung phong nă đạn về phía địch, địch
bắn trả từ những công sự đă bố
trí sẵn. Quân ta anh dũng nhưng t́nh thế hoàn toàn
bất lợi do địa h́nh hoàn toàn trống
trải. Đội h́nh của toán đổ bộ c̣n
nằm gần nửa người dưới nước
biển. Hậu quả, Hạ sĩ Long tử trận,
Thiếu úy Đơn cũng bị một viên đạn
bắn trúng vào đầu, trong khi tay c̣n giơ cao
khẩu colt 45 hô xung phong, vài nhân viên khác bị thương.
Lúc nầy đạn thượng liên địch
bắn xối xả, cày một lằn chắn ngang trước
mặt toán đổ bộ, tạo thành một hàng rào
chắn ngăn không cho toán đổ bộ tiến lên,
nước bắn lên tung tóe, từ chiến hạm
nh́n thấy rất rơ .
Thấy t́nh thế bất lợi hoàn toàn, bộ
chỉ huy hành quân đành cho lệnh rút quân về
chiến hạm. Các nhân viên bị thương
đưa sang HQ4, c̣n các tử sĩ được quàng
tại kho thả bóng của HQ5. Bộ chỉ huy hành
quân báo cáo về Sài G̣n. SG ra lệnh tạo điều
kiện tái lập đầu cầu đổ bộ
tiến chiếm lại đảo. Bộ chỉ huy hành
quân tŕnh phương án mới là sẽ tấn công các
chiến hạm địch trước, v́ tái đổ
bộ là không thể thực hiện được,
SG chấp thuận. Lệnh ban ra là các chiến
hạm pháo lên đảo, nếu chiến hạm
địch tấn công ta, chiến hạm ta sẽ
bắn trả (phải tuân thủ qui chế ngoại
giao quốc tế). Song t́nh h́nh thực tế không
thể làm như vậy được. Đại Tá
Ngạc tŕnh phương án mới là cho HQ10 pháo lên
đảo Quang Ḥa, làm hiệu lệnh tấn công,
tất cả chiến hạm ta sẽ đồng
loạt tấn công địch trước. SG chấp
thuận, lệnh tác chiến được triển
khai chi tiết đến các chiến hạm, phân
định mục tiêu rỏ ràng cho từng chiến
hạm, từng trưởng khẩu. Lúc nầy các
khẩu pháo của cả hai bên tham chiến đă
đồng loạt chỉa thẳng vào nhau.
Giờ G đă điểm, lúc nầy khoảng
10 giờ 25, trước đó ít lâu Đại Tá
Ngạc cho mở máy âm thoại, tất
cả hệ thống liên lạc đều nghe rơ
tiếng pháo lịch sử phát ra từ chiến
hạm Hộ
Hống Hạm Nhật Tảo HQ10,
mở màn cho cuộc chiến Hoàng Sa năm 1974 …”
(hết trích).
H́nh
minh hoạ của TC, diễn tả lúc lâm chiến
giữa các chiến hạm TC và VNCH vào khoảng 10:30
phút ngày 19.1.1974.
H́nh
do báo chí TC phổ biến trên mạng giữa
chiến hạm của HQ VNCH và của HQ TC
4.1.
Những
phát đạn đầu tiên:
Theo
như người bạn HQ Thiếu uư Phạm
Thế Hùng trưởng khẩu đại bác 41 ly bên
tả hạm cũng như HQ Trung uư Hà văn Ngân trưởng
khẩu 76,2 ly
trên HQ10 cùng thuật lại đại ư như sau:
“…Vào sáng ngày 19.1.1974, các chiến hạm chạy
loanh quanh với nhau chừng 2 ṿng, các chiến hạm
của Trung cộng từ từ lảng ra xa hơn. Như
một dấu hiệu khác thường, Hạm trưởng
HQ10 liền xin lệnh trên cho mở bao súng, hạ ṇng
xuống, nạp đạn và đề pḥng mọi
bất trắc, nhưng lệnh trên không cho phép.
Chừng nửa giờ sau, 2 trong 4
chiến hạm của Trung cộng xích lại
chạy song song với nhau. Như một kinh nghiệm
chiến trường thúc đẩy Hạm trưởng
ra lệnh hạ ṇng súng, tháo bao, nạp đạn
sẳn sàng và quay súng về phía tàu Trung cộng.
Ít phút sau, hai tàu Trung cộng này chạy gần
sát vào nhau và th́nh ĺnh cùng quay mũi song song tiến
về phía HQ10, hướng 3:00 giờ.
Hạm trưởng ra lệnh tất cả súng
hướng về mục tiêu 1 và mục tiêu 2.
HQ Trung uư Hà văn Ngân ở ụ súng lớn phía
trước mũi (khẩu 76.2 ly) được
lệnh nhắm vào mục tiêu 1.
Hạm trưởng lại xin lệnh nổ súng
một lần nữa nhưng được trả
lời chờ Sài G̣n quyết định.
Thần kinh thật căng thẳng, 2
tàu Trung cộng cứ từ từ đến gần,
khi c̣n cách khoảng 200 thước - 250 thước,
Hạm trưởng hét lớn "Bắn".
Tất cả hỏa lực trên tàu cùng nhả đạn.
HQ10 khai hỏa đầu tiên do lệnh của chính
Hạm trưởng ban ra.
Đây
là phóng đồ 2 chiến hạm Trung cộng
(389, 396) đang chỉa mũi thắng vào chiến
hạm HQ10 để tận dụng tối đa
hoả lực 2 bên chiến hạm của chúng để
tấn công vào HQ10 trước khi trận hải
chiến xảy ra. Ở vị thế nầy gần
như một nửa hoả lực bên tả hạm
HQ10 bị hạn chế tác xạ.
Khoảng 5 phút sau, mục tiêu 1 (tàu Trung cộng)
bốc khói mịt mù và lùi lại phía sau, tất
cả hỏa lực trên chiến hạm HQ10 lại
nhắm vào mục tiêu 2. HQ10 đến lúc này vẫn
an toàn, đạn từ tàu Trung cộng bắn
tới đều bay qua đầu hoặc nổ trên
mặt nước trước mặt.
Vài phút sau, mục tiêu 2 cũng bốc
khói, mục tiêu 1 tuy c̣n chút khói bốc lên, chạy
trở vào gần HQ10, bắn trả lại HQ10 và HQ10
bắt đầu trúng đạn của tàu Trung
cộng.
HQ10 bị trúng trái đạn đầu
tiên ngay trên đài chỉ huy, Hạm trưởng cùng
các sĩ quan và thủy thủ có nhiệm sở tác
chiến trên đài chỉ huy chết hết, trừ
Hạm phó bị thương nặng, ḅ xuống
được sàn tàu…” (hết trích).
Và
cũng theo như bạn HQ Thiếu uư Phạm Thế
Hùng trên HQ10 kể th́ tinh thần chiến đấu
của thuỷ
thủ đoàn ở các chiến hạm ta rất anh dũng.
Khẩu đại bác 42 ly bên hữu hạm do người
bạn cùng khoá là HQ Thiếu uư Vũ Đ́nh Huân làm
trưởng khẩu đă đồng loạt nả
những loạt đạn đầu tiên vào
chiến hạm TC. Khoảng 5 phút đầu giao tranh,
HQ10 chủ động làm cho chiến hạm địch
bị thương nặng và lúng túng. Sau đó HQ10
bị trúng đạn ở hầm máy và đài
chỉ huy. Không may, Thiếu úy Huân bị tử thương
khi giao tranh v́ khẩu đại bác 42 ly bên hữu
hạm đối diện trực xạ với
chiến hạm địch. Tức th́ bạn Hùng
đang là trưởng khẩu đại bác 41 ly
ở tả hạm cầm khẩu M16 chạy sang
khẩu 42 ly để tiếp tục bắn tàu địch.
Theo như HQ Thiếu úy Hùng cho biết th́ HQ10 đă
bắn được nhiều quả hải pháo 76,2
ly vào chiến hạm TC. Có khá nhiều vỏ đạn
76,2 ly nằm rải rác tại giàn pháo 76,2 ly.
Khi
đài chỉ huy HQ10 bị trúng đạn, Hạm Trưởng
cùng toàn thể nhân viên đi ca và nhiệm sở tác
chiến trên đài chỉ huy tử thương,
hầm máy cũng bị trúng đạn bốc cháy.
Hạm Phó là HQ Đại uư Nguyễn Thành Trí lúc
đó cũng bị thượng nặng ra lệnh
đào thoát. Tuy vậy, Hạ sĩ Lê văn Tây và Ngô
văn Sáu đang tác xạ vào chiến hạm địch,
không chịu rời nhiệm sở tác chiến ở
khẩu đại bác 20 ly tại sân sau, để
đào thoát. Trước khi nhảy xuống bè,
Chuẩn úy Tất Ngưu cũng kêu gọi HS1VC Tây
nhảy theo nhưng Hạ sĩ Tây từ chối và nói:
“Thôi,
tôi ở lại ăn thua đủ với Trung
Cộng. Chuẩn uư
cứ nhảy đi.”.
Tóm
lại, theo như những lời kể của các
bạn cùng khoá cũng như của HQ Trung uư Hà văn
Ngân trưởng
khẩu 76,2 ly trên HQ10 th́ HQ10 khai hoả đầu tiên
khi 2 Trục Lôi Hạm mang số 389 và 396 của TC
chạy ủi thẳng góc vào hửu hạm HQ10, thay v́
HQ10 tác xạ hải pháo lên đảo Quang Hoà để
làm phát súng lệnh theo như kế hoạch của
Bộ Chỉ Huy hành quân đề ra. Ngay sau khi HQ10 tác
xạ vào chiến hạm TC th́ tất cả súng
của chiến hạm ta đồng loạt nả vào
chiến hạm địch.
Trên HQ4, người bạn cùng khoá là HQ
Thiếu uư Nguyễn Phúc Xá cũng đă anh dũng hy
sinh khi chiến đấu với kẻ thù TC.
4.2.
Kết
quả trận hải chiến:
-
Trận hải chiến kéo dài khoảng trên 30 phút. Các
chiến hạm VNCH không đuổi theo các chiến
hạm Trung cộng khi chiến hạm TC bị thương
nặng nên phải ủi vào bải đảo san hô
gần đó. Ngược lại các chiến hạm
Trung cộng cũng không đuổi theo các chiến
hạm VNCH khi bị thương cũng như gặp
trở ngại tác xạ rời vùng chiến đấu.
-
Khi chiến hạm Trung cộng bị trúng đạn
của ta, chúng ủi vào băi san hô gần đó th́ chúng
cho xả những trái khói bịt bùng chiến hạm,
để giảm tầm quan sát của ta.
-
Khoảng 1 tiếng đồng hồ sau, 2 chiến
hạm TC mang số 281 và 282
tăng viện vào vùng chiến bắn ch́m
chiến hạm Nhật Tảo HQ10 bất khiển
dụng và đang lềnh bềnh tại vùng chiến.
-
Ngoài ra, không có chiến hạm nào của Đệ
Thất Hạm Đội Hoa Kỳ tiến vào nơi
có cuộc giao tranh.
4.2.1
Thiệt hại về phía HQ Việt Nam
Cộng Hoà:
 
-
Hộ tống hạm Nhật Tảo HQ10 bị bắn
ch́m. HQ Thiếu Tá Nguỵ Văn Thà với 42 quân nhân
khác bị tử thương trong đó có Hạm Phó HQ Đại
uư Nguyễn Thành Trí. 32 người mất tích,
23 thủy thủ trôi dạt trên biển được
tàu của hăng Shell vớt, 16 chiến sĩ khác trôi
dạt trên thuyền cao su về đến Quy Nhơn.
-
Hai Khu Trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4 và Tuần
Dương Hạm Trần B́nh Trọng HQ5 bị hư
hại, mỗi chiến hạm có hai chiến sĩ
bị tử thương.
-
Tuần Dương Hạm HQ16 bị trúng đạn
nghiêng một bên, được lệnh quay về
Đà Nẵng, có một chiến sĩ bị tử
thương.
-
Có 43 chiến sĩ trên đảo đă bị
bắt làm tù binh, trong đó có cố vấn Mỹ,
Mr Gerald Kosh, được đưa về Quảng Châu,
sau đó được trao trả cho VNCH qua Hội
Hồng Thập Tự Quốc Tế.
4.2.2.
Thiệt hại về phía Trung cộng:
Theo
tài liệu nghiên cứu của nhà biên khảo, Bác sĩ
Trần Đại Sĩ ở Pháp, từng đi công
tác tại Trung cộng th́ cho biết sự thiệt
hại của Trung cộng như sau:
- Liệp
Tiềm Đỉnh (Hộ Tống Hạm) Kronstadt, kư
số 271, Hạm trưởng là Đại-tá Vương
Kỳ Vy, tử thương. Chiến hạm K271
bị ch́m.
-
Liệp
Tiềm Đỉnh (Hộ Tống Hạm) Kronstadt, kư
số 274, Hạm trưởng là Đại-Tá Quan
Đức, tử thương. Đây là soái hạm
của chiến dịch. Tư lệnh mặt trận
là Đô đốc Phương Quang Kinh, Tư
lệnh phó Hạm đội Nam Hải của Trung
cộng tử thương. Hộ
tống hạm K274 bị hư hại nặng và
ủi vào băi san hô Quang Hoà. Sau đó được
trục vớt đưa về đảo Hải Nam.
-
Tảo Lôi
Hạm (Trục Lôi Hạm), kư số 389, bị ch́m,
Hạm trưởng là Trung tá Triệu Quát, tử thương.
-
Tảo Lôi
hạm (Trục Lôi Hạm), kư số 396, bị hư
hại nặng, Hạm trưởng là Đại-Tá
Diệp Mạnh Hải, tử thương.
Ngoài ra c̣n có nhiều sĩ quan và binh sĩ TC bị
tử thương.

Soái
hạm HQ TC, K274 bị ch́m sau khi ủi vào băi san hô
ở đảo Quang Hoà.
Thay lời kết: Vào tháng 12 năm 2008 tôi hân hạnh
có được nhiều cơ hội tiếp xúc
với Đô Đốc Thoại khi Đô
Đốc Thoại đến Đức quốc để
cùng với Luật Sư Nguyễn Thành đến
từ Mỹ, Luật Sư Trần Thanh Hiệp đến
từ Pháp thuyết tŕnh về chủ đề „Hội
Luận về Hiện
T́nh
Lănh
Thổ
và
Lănh
Hải
Việt
Nam“
được tổ chức tại Frankfurt am Main, Đức Quốc ngày
06.12.2008. Nhờ vậy tôi biết thêm một số chi tiết
cần để ư về Trận
Hải Chiến Hoàng Sa 19.1.1974:
- Đô đốc
Thoại cho biết rằng vào ngày 17.1.1974 Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và phái đoàn đến
thăm viếng Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng 1
Duyên Hải. Nhân dịp nầy tại Trung Tâm Hành Quân,
Đô Đốc Thoại đă tŕnh bày về
hiện t́nh Hoàng Sa. Sau phần thuyết tŕnh,
khoảng 15 phút, Đô Đốc Thoại nhận
chỉ thị trực tiếp từ Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu với thủ bút của
Tổng Thống.
Tóm lược phần chỉ thị cho Đô Đốc
Thoại:
„Thứ nhứt là t́m đủ mọi cách ôn ḥa
mời các chiến hạm Trung Cộng ra khỏi lănh
hải Việt Nam Cộng Ḥa. Thứ hai, nếu
họ không thi hành th́ được nổ súng
cảnh cáo trước mũi các chiến hạm này
và nếu họ ngoan cố th́ toàn quyền xử
dụng vũ khí để bảo vệ sự
vẹn toàn của lănh thổ Việt Nam Cộng Ḥa.“

Tổng thống Thiệu rời Bộ Tư
Lịnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải sau khi ra chỉ
thị về biện pháp đối
phó với Trung Cộng khi hạm đội Trung
Cộng xâm nhập hải phận Việt Nam Cộng
Ḥa tại Hoàng Sa (1974).
-
Sau khi trận chiến xảy ra, Tư Lệnh Vùng
1 Duyên Hải đă xin Bộ Tư Lệnh Hải Quân
tăng viện cho chiến dịch bảo vệ Hoàng
Sa thêm Tuần Dương Hạm Trần Quốc
Toản HQ6 và Hộ Tống Hạm Chí Linh HQ11.
-
Khi nghe trận hải chiến bắt đầu
th́ Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Tư
Lệnh Vùng 1 Chiến Thuật, đă đến Trung
Tâm Hành Quân của BTL Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải
để được nghe Đô Đốc
Thoại tŕnh bày diễn tiến trận hải
chiến. Lúc đó vị cố vấn Mỹ tại
Sài G̣n cho Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ
Thoại, Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải biết qua
vị cố vấn Hoa Kỳ của Hải Quân Vùng 1
Duyên Hải th́ TC có 17 chiến hạm, trong đó có
4 tàu ngầm đang hướng về Hoàng Sa.
Ngay lúc đó cố vấn trưởng Hoa
Kỳ của Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải bước
vào Trung Tâm Hành Quân cho Đô Đốc Thoại
biết phản lực cơ chiến đấu
của Trung Cộng sắp cất cánh từ đảo
Hải Nam để tấn công hai chiến hạm
vừa được vị Tư Lệnh Vùng 1 Duyên Hải chỉ định hướng về Hoàng Sa
để gia nhập Hải Đội của Đại
tá Ngạc…“
(hết trích)
Được biết sau trận hải
chiến Hoàng Sa 19.1.1974 Bộ Tư Lệnh HQ VNCH có
kế hoạch thực hiện 2 chiến dịch
Bạch Đằng 50 và Bạch Đằng 52 nhằm
tái chiếm quần đảo Hoàng Sa đă bị
Hải quân TC xâm chiếm.
Chiến hạm HQ503 mà tôi
phục vụ là loại Dương Vận Hạm (LST)
cũng nằm trong danh sách của chiến dịch. Có
lẽ chiến hạm tôi được trưng
dụng v́ vừa có thể chở quân, vũ khí
đạn dược, xe tăng dưới hầm và
trên boong c̣n có thể chở được máy bay
trực thăng, đại bác. Nhưng có lẽ v́ cộng quân
Bắc Việt gia tăng gây áp lực trên các mặt
trận địa chiến vào năm 1974 nên 2
chiến dịch BĐ 50 và BĐ 52 không thể
thực hiện được và đă được
huỷ bỏ. Có lẽ Bộ Tư Lệnh Hải Quân
VNCH cũng đă cân nhắc kỹ càng về mối
tương quan lực lượng Hải quân giữa
ta và Trung cộng cũng như t́nh h́nh chiến
sự bất lợi cho ta trong thời điểm
đó.
Tôi ghi lại nơi đây h́nh ảnh Phó Đề Đốc
Hồ Văn Kỳ Thoại đă được mời đến Đức Quốc ngày
06.12.2008 để tŕnh bày về Trận Hải Chiến Hoàng Sa
19.1.1974. Đó cũng là ư muốn của cựu Tư Lệnh Chiến trường
và cũng là cựu Chỉ Huy Liên Đoàn Đặc Nhiệm năm xưa.
Thuyết
tŕnh đoàn: "Hội
Luận về Hiện
T́nh
Lănh
Thổ
và
Lănh
Hải
Việt
Nam" ngày
6.12.2008
tại
Frankfurt am Main, Germany

Từ trái: Luật Sư
Nguyễn Thành (Mỹ), Phó Đề Đốc Hồ
Văn Kỳ Thoại (Mỹ), Luật Sư Trần
Thanh Hiệp (Pháp), Kỹ Sư Nguyễn Văn
Phảy (Đức quốc, cựu SV Đại
Học Luật Khoa SG, Ban Công Pháp làm ĐHV).
(H́nh
được trích từ báo Người Việt Tây
Bắc (USA) số 1774 Thứ Sáu Ngày 12 tháng 12 năm
2008)
5.
Mùa
Xuân Ất Măo 1975 - Đám Cưới, Di Tản Quân Dân
Cán Chính và những tháng năm kế tiếp:
Mùa
Xuân Giáp Dần trôi qua, rồi mùa Xuân Ất Măo
lại đến. Ngày
30.1.1975 là ngày đám cưới của vợ
chồng tôi. Mặc dù đám cưới trong thời
chiến, nhưng Hạm trưởng HQ503 mà tôi
phục vụ đă ưu ái cho tôi nghỉ 5 ngày phép.
Vợ chồng tôi luôn biết ơn Hạm trưởng
cũng như các bạn bè Sĩ quan HQ503 đă gánh trách
nhiệm dùm tôi để tôi được đi phép.
Sau Lễ Thành Hôn được tổ chức
tại Sài G̣n, vợ chồng tôi đi Đà Lạt
để tận hưởng tuần trăng mật.
Trời vào đông, khí hậu Đà Lạt rất
lạnh. Sương mù bao phủ vùng núi đồi
cao nguyên vào mỗi buổi sáng sớm. Mặt nước
hồ Hồ Xuân Hương nằm ở ven thành
phố Đà Lạt phẳng lặng như tờ.
Khoảng 10 giờ sáng mặt trời lên khỏi
đỉnh đồi, lồ lộ trên ngọn thông
vi vu trước gió, tia nắng xoá tan sương mù,
phản chiếu như tấm gương của
bức tranh thuỷ mạc đẹp tuyệt vời.
Lần đầu tiên của cuộc đời tôi
đến thăm một thành phố mến yêu
của vùng cao nguyên thơ mộng. Vợ chồng tôi
được ông chú vợ là Trung tá, làm việc
tại Đà Lạt, có xe Jeep riêng, đă chở chúng
tôi đi xem nhiều thắng cảnh. Nhờ vậy,
lần đầu tiên tôi biết được
loại dâu tây, trái đỏ mộng thắm
được trồng tại Đà Lạt. Tôi cũng
được đi thăm trường Vơ Bị
Quốc Gia Đà Lạt, Biệt Điện Bảo
Đại và thác Cam Ly.
Rồi 1 tuần lễ qua đi, tôi trở
về chiến hạm vào dịp cuối năm,
chuẩn bị đón mùa Xuân mới ở đơn
vị. Để bảo toàn chiến hạm, tàu tôi
được lệnh phân tán mỏng, di chuyển ra
biển Vũng Tàu thả neo. Chúng tôi đón Giao
thừa với trời mây gió nước ngoài cửa
biển. Đời thuỷ thủ là thế đó.
Đầu năm 1975 chiến sự ngày càng gia tăng
cường độ. Chiến hạm tôi đi công tác
liên tục. Hết ra miền Trung rồi xuống
tận hải đảo miền
Nam
. Hầu hết các chuyến công tác là di chuyển quân
và cứu vớt cũng như chở đồng
bào
di tản. Ngày 18.4.1975 trong khi công tác cứu vớt quân
dân cán chính chạy tỵ nạn cộng sản
tại vùng Cà Ná mũi Dinh sau khi Phan Rang thất
thủ ngày 16.4.1975 th́ chiến hạm tôi bị pháo
của cộng quân bắn trúng khoảng 10 quả
đại bác 105 ly và 155 ly, gây một số thiệt
hại cho chiến hạm. Có 4 Sĩ quan tử thương
và 18 nhân viên bị thương. Mời
xem hồi kư “Trận Chiến tại vùng Cà Ná mũi
Dinh Phan Rang ngày 18.4.1975” được đăng trên
http://navygermany.gerussa.com
hoặc ở Diễn Đàn Việt Thức:
http://www.vietthuc.org/2013/03/19/tran-chien-tai-vung-ca-na-mui-dinh-ngay-18-4-1975/
Nhờ
sự nhanh chóng tiếp cứu của các chiến
hạm hiện diện tại mặt trận,
chiến hạm tôi ra khỏi vùng nguy hiểm khi đại
pháo của cộng quân bị triệt tiêu bởi
hải pháo 127 ly của các Tuần dương hạm
HQ 3, HQ 17 và 76,2 ly của Hộ tống hạm HQ11 và
Trợ chiến hạm HQ231 cũng như từ
những chiến hạm khác phản pháo.
Rồi ngày 30.4.1975 vùng trời ảm đạm
ập đến cho quê hương miền Nam VN
bởi lời tuyên bố đầu hàng của Đại
tướng Dương văn Minh mang danh Tổng
thống VNCH. Chiến hạm tôi v́ bị hư
hại nặng đang được sửa chữa
tại Hải quân Công xưởng Sài G̣n vào
những ngày cuối tháng 4 năm 1975, nên hầu
hết thuỷ thủ đoàn HQ503 bị kẹt ở
lại. Cũng như tất cả Sĩ quan QL VNCH khác,
tôi phải bị mấy năm vào “tù cải
tạo”.
Thế rồi, tất cả những kiến năng
về hàng hải, những kiến năng về ngành
Luật đều được xem như vứt
đi dưới chế độ cộng sản. Không
những tôi bị xếp loại thành phần "nguỵ quân" mà c̣n bị ghép vào thành phần tiểu
tư sản trí thức mà tôi đă có được
là nhờ công lao cha mẹ nuôi dưỡng lo cho ăn
học cũng như nhờ đất nước vun
bồi đào tạo để có kiến năng
về hàng hải khả hữu nhằm góp phần tái
thiết đất nước trở thành vô nghĩa.
Rồi một ngày kia 23.6.1980, tôi và gia đ́nh
rời bỏ quê hương bằng chiếc
thuyền nan mà thế giới gọi là “Boat People,
thuyền nhân”. Vào lần vượt biên sau cùng,
trong lúc ghe tôi trên tuyến đường đến
Singapore
ở biển khơi, gia đ́nh tôi được tàu
Cap Anamur cứu vớt. Cap Anamur là con tàu nhân đạo
do Uỷ Ban Bác Sĩ Cấp Cứu người Tây
Đức thực hiện nhằm để cứu
vớt người tỵ nạn cộng sản trên
biển Đông. Hành động nhân đạo đó
đă làm cho thế giới nể v́ và ngưỡng
mộ. Trong ṿng vài năm tàu Cap Anamur đă cứu vớt khoảng
13.000 người Việt tại biển Đông.
Mời
xem hồi kư “Lần Vượt Biên Sau Cùng”: http://www.vietbao.com/D_1-2_2-67_4-205822_5-15_6-1_17-7617_14-2_15-2/
Rồi
những tháng năm nơi
xứ người, nỗi đau thầm kín trong tôi
thường xuất hiện:
Những
ngày xa quê hương là những ngày mang đau thương
Một ngày xa quê hương là một ngày mang đau
khổ
...Đất
nào sinh ra tôi, mẹ hiền nào cưu mang tôi
Miền nào nuôi thân tôi mà giờ này tôi xa rồi
…
Hăy biết và hăy biết rằng ngày mai khi ta về
Hăy nhóm ngọn lửa hồng thắp sáng vạn
niềm tin…
(Nhạc
phẩm Quê Hương Bỏ Lại)
6.
Mùa
Xuân Quư Tỵ 2013 - Ḷng người Viễn Xứ:
Thắm thoát 33 năm trôi qua khi tôi và gia đ́nh
đến Tây Đức định cư. Mùa Xuân
nữa lại về trong tôi nơi xứ người.
Nhớ lại bài thơ Xuân Thanh B́nh được sáng
tác khi Hiệp Định Đ́nh Chiến Paris
được kư kết vào ngày 27.1.1973 tôi không được vui
trong ḷng. Quê hương Việt Nam
vẫn c̣n đắm ch́m trong quá nhiều đau
khổ. Ngư dân Việt Nam
thường bị tàu hải giám Trung cộng bắt
nạt. Chúng ủi ch́m ghe, cướp tài sản, phá
ghe của ngư dân VN. Xem tin tức mà ḷng đau như
cắt.
Từ phương xa, nhạc sĩ Trúc Hồ, Giám
đốc đài phát thanh SBTN đă cùng với trên
100 Hội đoàn và Tổ chức thực hiện
chiến dịch Thỉnh Nguyện Thư “Triệu
Con Tim, Một Tiếng Nói” với nhạc phẩm
“Triệu Con Tim” do anh sáng tác, tác động cho
chiến dịch, đă vận động gần 150
ngàn chữ kư ủng hộ nhằm đệ nạp
cho Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc về Nhân Quyền cũng
như các Bộ Ngoại Giao của một số
quốc gia tân tiến.
Từ
phương xa nh́n về Quê Hương, đất nước
tôi sau bốn ngàn năm.
Ải Nam
Quan nay không c̣n. Hoàng Trường Sa nay không c̣n.
Mẹ Việt Nam
ơi !
Ngày hôm nay, nh́n về Quê Hương, đất nước
tôi sao lắm nhiễu nhương.
Người Yêu Nước trong chốn lao tù. Mẹ
thương con thiêu cháy thân ḿnh. Mẹ Việt
Nam
đau…
(Nhạc phẩm “Triệu Con Tim” của Trúc Hồ)
Nghe những lời nhạc của anh Trúc Hồ
nỗi buồn hiện trong tôi.
Xuân
Quư Tỵ 2013 đến trong ḷng người dân
Việt Nam nhưng “Mùa Xuân An Vui” chỉ là niềm
mơ ước trong tôi hơn 40 năm rồi cũng
chưa thành hiện thực. Nơi Viễn Xứ, tôi
ngậm ngùi ngâm lại những vần thơ “Xuân
Thanh B́nh“ năm nào và sửa 2 câu thơ thứ 11 và
12 để có tựa đề cho bài thơ:
Mùa
Xuân Trong Tôi
“Xuân Thanh B́nh” lại về trên đất Mẹ
Ngàn đoá hoa đua nở đón Xuân sang
Màu Xuân tươi nhuỵ thắm cánh mai vàng
Cây cỏ ướm mầm non Xuân Dân Tộc
Xuân nay về không c̣n nghe tiếng khóc
Bom đạn thù gây chết chóc thê lương
Mẹ Việt
Nam
gịng lệ hết trào tuôn
Màu chinh chiến phai nhoà trong dĩ văng
Gió Xuân về bầu trời xanh quang đăng
Dân tộc ḿnh hạnh phúc đón Xuân sang.
Xuân An Vui
niềm mơ ước vô vàn
Xuân Viễn Xứ
hiền hoà trong tâm khảm.
KS
Nguyễn
văn Phảy
Xuân
Quư Tỵ 2013 in
Germany
|