Đức Phật Thích Ca: Lịch Sử và Huyền Thoại Thích Nữ Hằng Như |
Trước
khi ôn lại Tiểu Sử Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni, để người đọc nhận định
dễ hơn về ngày tháng ghi trong tiểu sử
của Ngài, chúng tôi xin nhắc lại là Đức
Phật Thích Ca sanh vào năm 624 trước Tây
Lịch. Ngài nhập Niết Bàn lúc 80 tuổi vào năm
544 trước Tây Lịch. Sáu trăm hai mươi
bốn năm sau, Tây Phương mới bắt đầu
chọn năm sinh của Đức Chúa Jesus Christ làm
khởi điểm cho Dương lịch. Như
vậy tính đến nay là năm 2015 th́ Đức
Phật đă ra đời được 2,639 năm
và chiếu theo Phật lịch khởi đầu
từ năm Đức Phật viên tịch (năm 544
trước TL) th́ Ngài đă nhập Niết Bàn
được 2,559 năm. Việt
Nam và các quốc gia thuộc khu vực Đông Á như
Nhật Bản, Trung Hoa, Triều Tiên ... từ xưa
đều làm Lễ Phật Đản vào ngày
mồng 8 tháng Tư Âm Lịch. Tên gọi tắt dành
cho ngày Lễ Phật Đản là "Ngày mồng Tám
tháng Tư" đă lưu truyền hằng bao
thế kỷ, trở thành phong tục tập quán
cổ truyền, ghi đậm vào tâm khảm của
mọi người kể cả người theo hay không
theo Phật giáo. Vào
thế kỷ thứ 20, trong kỳ Đại lễ
kỷ niệm Phật Giáo Thế Giới tổ
chức tại Tích Lan năm 1954-1956, Hội Liên
Hữu Phật Giáo Thế Giới (The World Fellowship of
Buddhists) quyết định lấy ngày trăng tṛn 15
tháng 4 Âm lịch làm ngày kỷ niệm Đức
Phật Đản Sanh. Đó là lư do tại sao có 2 ngày
kỷ niệm Đức Phật ra đời là
Mồng 8 tháng Tư Âm lịch (trước kia) và
Rằm tháng Tư Âm lịch (bây giờ).
***
Nhân ngày Lễ Khánh Đản của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni, chúng ta hăy cùng nhau ôn lại
tiểu sử của Ngài để có sự hiểu
biết về một vĩ nhân đă để
lại cho hậu thế một kho tàng văn hoá
Phật học vĩ đại gồm 12,601 bài pháp
thoại trong suốt 45 năm hoằng hoá, mà đă
2,559 năm trôi qua kể từ ngày Đức Phật
viên tịch, nền minh triết đó vẫn c̣n
được dân gian trên thế giới kể
cả những người theo đạo Phật và
những người không theo đạo Phật nghiên
cứu và học hỏi.
Tŕnh bày về tiểu sử Đức Phật, người
Phật tử có hai cách nh́n. Một là Đức
Phật huyền thoại được ghi lại
đầy đủ trong bộ kinh Phật Tổ
Thống Kư (Bắc Tông) Bộ kinh này diễn tả
rất chi tiết về sự kiện đản sanh
của Đức Phật, thậm chí c̣n kể rơ Ngài
là một vị Bồ Tát ngự trên cơi trời,
đản sinh xuống cơi người. Cái nh́n
thứ hai khoa học hơn, cũng theo kinh sử để
lại th́ Ngài là một người b́nh thường
như bao nhiêu người khác, có cha mẹ, vợ
con, có những ưu tư về cuộc sống đau
khổ của con người nên muốn t́m phương
pháp để thoát ra khỏi cái ṿng luân hồi sanh
tử. Giai đoạn học đạo với 2
vị đạo sĩ nổi tiếng thời ấy
là đạo sĩ Alăra Kălama và Uddaka Ramăputta cũng
như nhập đoàn với năm anh em đạo sĩ
Kiều Trần Như suốt 6 năm tu khổ
hạnh cũng không có ǵ khác biệt giữa vị
Phật huyền thoại và vị Phật lịch
sử.
Cho nên trong bài viết này chúng tôi mạn phép lấy
tựa đề là "Đức Phật Thích Ca:
Huyền Thoại (tôn giáo) và Lịch Sử".
Bài viết chỉ giới thiệu sơ lược
về lịch sử đản sanh của Ngài,
chứ không khai triển các chi tiết khác, bởi
chỉ có mấy ngàn chữ theo quy ước này, th́
làm sao có thể diễn đạt được
hết cuộc đời của một bậc đại
Giác Ngộ như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
ĐỨC
PHẬT TÔN GIÁO / HUYỀN THOẠI
Từ xưa đến nay, muốn thành h́nh một tôn
giáo ít nhất phải hội đủ một số
điều kiện như sau: Phải có một vị
Giáo Chủ mang nhiều huyền thoại nào đó
khiến cho người ta kính phục tin theo, phải
có giáo lư, tín đồ và nghi lễ riêng biệt
của tôn giáo đó.
Về lịch sử th́ đạo Phật là một
học thuyết, là một con đường tu
tập để dẫn tới sự khai mở trí
huệ tâm linh do Đức Phật vốn là một
người b́nh thường đă tu tập và sáng
đạo, đi giáo hoá truyền lại những kinh
nghiệm của ḿnh cho người khác.
Sau khi Đức Phật viên tịch, theo thời gian
sau đó đạo Phật nhập thế. So sánh
với những điều kiện nêu trên th́ đạo
Phật có thể coi như là một tôn giáo, v́ nó cũng
có đủ các tiêu chuẩn như:
- Đạo Phật có Giáo Chủ là Đức
Bổn Sư Thích Ca. Cuộc đời của Ngài cũng
có nhiều huyền thoại. Chẳng hạn như Ngài
là vị Nhất Sanh Bổ Xứ Bồ tát Hộ Minh
trên cung trời Đâu Suất đă tu vô lượng
kiếp, chỉ c̣n một kiếp nữa là sẽ thành
Phật. Từ cung trời Đâu Suất ngài nh́n
xuống thế gian t́m Cha Mẹ có đạo đức
nhập thai xuống trần tiếp tục tu hành
một kiếp chót để đạt Chánh Quả.
- Đạo Phật có giáo lư để giảng
dạy cho tín đồ. Số lượng kinh điển
chia làm 2 loại: Nikăya (Nam Tông) và A-Hàm (Bắc Tông).
Ở Việt Nam chúng ta, kinh điển Phật
Học được chuyển sang tiếng Việt
tuy chưa hoàn toàn đầy đủ nhưng cũng
được khá nhiều. Nói chung, tổng quát có 4
bộ Nikăya gồm 12,601 bản kinh, chưa kể
Tiểu Bộ kinh. C̣n 4 bộ A-Hàm gồm 2,086 bản
kinh. Cộng lại chúng ta thấy Đức
Phật để lại cho tín đồ 14,687 bài pháp
thoại.
- Hiện nay có khoảng hơn 800 triệu tín đồ
theo đạo Phật trong số trên 7 tỷ người
trên hành tinh này.
Trở lại tiểu sử Đức Phật tôn giáo
hay nói khác hơn là huyền thoại về Đức
Phật Thích Ca. Như đă nêu trên, Bồ Tát Hộ
Minh lúc bấy giờ đă tu từ bao nhiêu triệu
kiếp rồi, chỉ cần một kiếp cuối
cùng là Ngài sẽ thành Phật. Lúc ấy Bồ Tát
ở trên cung trời Đâu Suất nh́n xuống
thế gian t́m gia đ́nh thích hợp để
xuống trần. Người Mẹ mà Bồ Tát
chọn nhập thai là Hoàng hậu Mahă Maya.
Chuyện kể Hoàng Hậu Maya là một người
đạo đức và tràn ngập ḷng từ bi. Bà
là vợ của vua Tịnh Phạn thành
Ca-Tỳ-La-Vệ, đă lớn tuổi rồi mà chưa
có con. Một ngày kia vào buổi trưa, Đức Hoàng
hậu đang nằm nghỉ ngơi th́ rơi vào
giấc mộng, bà thấy 4 vị thiên thần nâng 4
góc giường bay thẳng lên đỉnh núi Hy-Mă-Lạp-Sơn.
Nơi đây có một con voi trắng 6 ngà từ trên
trời bay xuống và chui vào hông phải của bà.
Hoàng hậu giựt ḿnh tỉnh giấc, cảm
thấy trong người mát mẻ dễ chịu, tinh
thần sảng khoái. Ngay lúc đó là lúc Hoàng hậu
đă thọ thai.
Theo phong tục Ấn Độ, người phụ
nữ khi mang thai phải về quê cha mẹ của ḿnh
để sanh nở. Hoàng hậu Maya cũng không ra
khỏi tập tục đó. Gần ngày khai hoa nở
nhụy, trên đường về quê cha mẹ, đến
vườn Lâm Tỳ Ni ở ngay biên giới của
hai nước Kosola (Nepal) và Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc
Ấn Độ), Hoàng hậu ra lệnh cho đoàn
tuỳ tùng dừng chân nghỉ mát v́ nơi đây không
khí dễ chịu thoang thoảng hương hoa nhẹ
nhàng bay trong gió. Đoàn tuỳ tùng dừng lại.
Khi Hoàng hậu Maya từng bước đi vào ven
rừng ngắm cảnh, bà nh́n thấy một cây to có
nhiều hoa nở rất đẹp mà trong kinh sách ghi
là hoa Linh Thoại, có kinh ghi là hoa Vô Ưu. (Tương
truyền loại hoa này 3,000 năm mới nở
một lần, nhưng nếu hoa nở trái mùa, đó
là hoa nở để chào mừng hay báo hiệu
sẽ có một vị giác ngộ tương lai
sắp ra đời.)
Về huyền thoại của Đức Phật th́
chuyện xưa kể rằng, khi Hoàng hậu Maya
đưa tay phải lên vịn vào cành cây Vô Ưu th́
Thái tử ra đời, Ngài sanh từ bụng mẹ
qua bên hông phải. Lúc đó liền có 2 vị
Phạm Thiên xuất hiện đỡ lấy Ngài. Hai
ṿi nước một ấm một lạnh do 2 con
rồng phun ra từ trên cao xuống tắm cho vị
hoàng tử mới sơ sanh.
Tích cũ kể tiếp, Thái tử vừa lọt ḷng
mẹ đă bước đi bảy bước,
mỗi bước có một hoa sen nở để
đỡ lấy chân của Ngài. Đến bước
thứ bảy Thái tử đưa một tay chỉ
ngón trỏ lên trời, một ngón tay chỉ xuống
đất thốt lên câu nói:
"Thiên thượng thiên hạ duy ngă độc
tôn" nghĩa là " Trên trời dưới
đất chỉ có chân-ngă (tức cái-Ta-chân-thật)
là số một" ... rồi sau đó Ngài đă
trở lại đời sống như một đứa
bé sơ sanh b́nh thường khác.
Khi Thái tử sinh được 5 ngày, đức vua
Tịnh Phạn (Suddhodana) đặt tên cho con trai là
Siddhattha (tiếng Sanskrit) âm tiếng Việt là Sĩ-Đạt-Ta,
họ là Gotama, âm tiếng Việt là Cồ Đàm.
Tiếng Păli là Siddharta Gautama. Ngài thuộc ḍng dơi quí
tộc Thích Ca (Sakiya). Theo
phong tục thời bấy giờ, nhà vua cho mời
nhiều vị đạo sĩ Bà La Môn học
rộng tài cao vào triều dự lễ đặt tên
và xem tướng cho Thái tử. Có tám vị đạo
sĩ lỗi lạc vào cung xem tướng cho Thái
tử. Bảy vị đưa lên 2 ngón tay và giải
thích hai lẽ: Một là Thái tử sau này sẽ
trở nên vị Hoàng đế vĩ đại
nhứt thế gian, hai là Ngài sẽ đi tu và đắc
quả Phật. Riêng đạo sĩ trẻ tuổi tên
là Kiều Trần Như (Kondanna) th́ bảo rằng
sau này Thái tử sẽ xuất gia và thành tựu
quả Chánh Đẳng Chánh Giác.
Trước đó, có một vị đạo sĩ tên
là A-Tư-Đà (Asita) là một người thân tín
của nhà vua tu hành trên núi Hy-Mă-Lạp-Sơn, nhân
chuyến hạ sơn nghe dân gian loan truyền Hoàng
hậu Maya vừa hạ sanh hoàng nam, nên ông xin
được vào thăm Thái tử. Vua Tịnh
Phạn lấy làm hân hoan, cho bồng Thái tử ra
đảnh lễ đạo sĩ. Đạo sĩ
A-Tư-Đà xem tướng Thái tử rồi tiên tri
rằng về sau Thái tử sẽ trở nên bậc vĩ
nhân cao quư nhất của nhân loại. Nói xong, ông
sụp quỳ lạy Thái tử. Thấy lăo đạo
sĩ đảnh lễ con ḿnh như vậy, đức
vua Tịnh Phạn cũng làm theo đạo sĩ, xá
chào con ḿnh.
Kế đó, đạo sĩ bỗng dưng cất
tiếng cười khan rồi lại khóc. Đức
vua và mọi người ngạc nhiên trước
những cảm xúc vui buồn của đạo sĩ,
hỏi tại sao, th́ được đạo sĩ
A-Tư-Đà giải thích rằng ông vui mừng v́
biết rằng về sau Thái tử sẽ đắc
quả Phật và ông khóc v́ biết rằng không bao lâu
nữa ông sẽ chết và tái sanh vào cảnh
giới Vô Sắc (là cảnh giới mà người
đắc thiền sẽ tái sanh vào). Do đó ông
sẽ không được hưởng phước lành
thọ giáo với bậc trí tuệ cao siêu, Chánh
Đẳng Chánh Giác.
Sau lễ đặt tên Thái tử được 2 ngày,
Hoàng hậu Mahămaya đột nhiên qua đời, trong
kinh ghi bà được sanh về cung trời Đao
Lợi. Lúc bấy giờ, Vương phi Mahă Pajăpati
Gotami (em ruột của hoàng hậu) t́nh nguyện nuôi
dưỡng Thái tử cho đến khi Ngài khôn
lớn. LỄ
HẠ ĐIỀN
Một sự kiện lạ lùng xảy ra trong thời
thơ ấu của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta.
Sự kiện ấy là một kinh nghiệm tinh
thần của Ngài, là chiếc ch́a khoá mở
đường cho Ngài tiến đến sự Giác
Ngộ.
Câu chuyện kể lại là vào hằng năm vua
Tịnh Phạn có tổ chức lễ Hạ Điền.
Đó là một nghi lễ cầu thần linh ban cho mưa
thuận gió hoà, trước khi mọi người
bắt tay vào việc đồng án.
Ở Ấn Độ, người ta tin đủ các
loại thần: nào là thần mưa, thần gió,
thần lửa, thần đất v.v... Họ tin tưởng
tất cả mọi vấn đề trong cuộc
sống của con người đều do thần
linh cai quản. Con người phải cúi đầu
nhận chịu sự ban phát hay trừng phạt
của các đấng thần linh.
Sáng ngày đức Vua cùng quần thần áo măo
chỉnh tề ra tận nơi hành lễ. Các cung
phi mỹ nữ đỡ thái tử Sĩ-Đạt-Ta
ngồi vào kiệu, lính hầu khiêng kiệu đặt
dưới bóng mát của một cội cây trâm
lớn, nơi nghi lễ sẽ diễn ra cách đó không
xa. Mọi người đều hân hoan chiêm ngưỡng
cảnh nhà vua chủ lễ, các cung phi có phận
sự trông nom Thái tử cũng lén chạy đến
gần để xem.
Thái tử lúc đó c̣n nhỏ khoảng 9, 10 tuổi,
nhưng lại không ham thích cảnh tưng bừng
nhộn nhịp của buổi lễ. Thái tử
rời kiệu xuống đất, thay v́ chạy
nhảy vui chơi, Ngài lại chọn bóng mát dưới
gốc cây trâm, ngồi tréo 2 chân theo lối kiết
già, trầm ngâm lặng lẽ, mắt lim dim, chăm
chú vào hơi thở, định tâm và t́nh cờ
nhập định đắc Sơ Thiền.
Đang lúc mọi người bận rộn, vui
vẻ với cuộc lễ, các cung phi bỗng sực
nhớ tới Thái tử, vội vă quay về với
phận sự, họ thấy Thái tử đang
ngồi trầm ngâm thiền định. Lấy làm
lạ nhưng không dám quấy rầy, họ vội vàng
đến tŕnh tâu tự sự cho vua Tịnh
Phạn.
Đức vua Tịnh Phạn hối hả đến
nơi, thấy Thái tử Sĩ-Đạt-Ta vẫn c̣n
trong tư thế nhập định. Đức vua
đến trước mặt Thái tử, chắp tay xá
chào con, dịu dàng nói: "Hỡi này con yêu quí,
đây là lần thứ nh́, phụ vương đảnh
lễ con." ĐỜI
SỐNG THÁI TỬ SĨ-ĐẠT-TA BỊ BƯNG BÍT
Vua Tịnh Phạn thấy Thái tử c̣n nhỏ mà không
ưa thích cuộc sống ồn ào vui chơi như
những trẻ con hoàng thân quốc thích khác, nên Ngài
rất lo sợ, nhất là mỗi khi nhớ đến
những lời tiên tri của các vị đạo sĩ
rằng sau này Thái tử sẽ xuất gia t́m đạo
và đắc quả Phật.
Trong ḷng vua Tịnh Phạn không muốn con ḿnh đi
tu, Ngài chỉ muốn huấn luyện cho Thái tử
trở thành người tài giỏi xuất chúng
về mọi mặt, để sau này trao ngai vàng cho
Thái tử trị v́ trăm họ.
Để đạt được mục đích
của ḿnh. Nhà vua bắt đầu lên kế
hoạch che đậy bưng bít không cho Thái tử
thấy, biết... cuộc sống thế gian vốn có
nhiều đau khổ và phiền lụy.
Bao vây chung quanh thái tử là cuộc sống vương
giả, xa hoa, đàn ca hát xướng, tràn ngập
sự hoan lạc. Khi lên 16 tuổi, theo phong tục
thời bấy giờ, Thái tử kết duyên cùng công
chúa Da-Du-Đà-La (Yasodhară), một người em cô
cậu cùng tuổi. Trong 13 năm chung sống cùng Công
chúa, Thái tử hoàn toàn sống cuộc đời
nhung lụa, không hay biết ǵ về nỗi thống
khổ của nhân loại bên ngoài ngưỡng
cửa cung điện, Ngài và Công chúa Da-Du-Đà-La
lại sinh được một đứa con trai,
khiến cho vua Tịnh Phạn hết sức vui
mừng. Vua đặt tên cháu nội là La-Hầu-La (Răhula).
XUẤT GIA
Suốt 29 năm sống trong cung vàng điện
ngọc, được sự chiều chuộng
của tất cả mọi người trong hoàng cung,
nhất là vua cha và kế hậu cùng công chúa xinh
đẹp Da-Du-Đà-La luôn để ư chăm sóc,
tạo điều kiện thuận lợi, khiến
cho Thái tử lúc nào cũng cảm thấy vui vẻ
hạnh phúc. Một ḿnh Ngài được hưởng
thụ mọi thứ vinh hoa trên cơi đời này.
Trong kinh Tăng Nhứt A-Hàm (Anguttara Nikăya, phần 1,
trg 145) có ghi lời Ngài kể cho đệ tử nghe
như sau:
"Đời sống của ta thật là tế
nhị, vô cùng tinh vi. Trong hoàng cung, chỗ ta ở,
phụ hoàng có đào ao, xây những đầm sen.
Khi sen xanh đua nhau khoe màu ở đây th́ sen đỏ
vươn ḿnh phô sắc phiá bên kia, và trong đầm
bên cạnh, sen trắng đua nhau tranh đẹp dưới
ánh nắng ban mai. Trầm hương của ta dùng
đều là loại thượng hảo hạng
từ xứ Kasi đưa về. Khăn và áo của
ta cũng may toàn bằng hàng lụa bậc nhứt
từ xứ Kasi chở đến.
"Ngày cũng như đêm, mỗi khi ta bước
chân ra khỏi cung điện là có tàng lọng che sương
đỡ nắng.
"Phụ hoàng cũng kiến tạo riêng cho ta ba
toà cung điện. Một để cho ta ở mùa
lạnh, một mùa nóng và một mùa mưa. Trong
suốt bốn tháng mưa ta lưu tại một
biệt điện có đầy đủ tiện
nghi, giữa những cung tần phi nữ. Cho đến
hàng nô tỳ của phụ hoàng cũng được
ăn sung mặc sướng chớ không phải như
ở các nhà khác, gia đ́nh chỉ được
ăn cơm xấu và thức ăn cũ." Bấy
lâu nay, trước mặt Thái tử chỉ là
cảnh cung vàng điện ngọc, cung phi mỹ
nữ đàn ca xướng hát quanh năm suốt tháng,
là vợ đẹp, con thơ, là ngôi báu đang
chờ đợi.
Nhưng đến một ngày nọ, Thái tử năy ra
ư kiến xin phụ hoàng đi thăm dân cho biết
sự t́nh. Vua Tịnh Phạn nghĩ cũng đến
lúc cho Thái Tử Sĩ-Đạt-Ta ra ngoài thành để
biết đất nước của ḿnh hùng tráng,
xinh đẹp như thế nào.
Vua Tịnh Phạn liền ra lệnh cho dân chúng
mọi nhà phải cấp tốc giăng đèn
kết hoa, trưng bày một cảnh thái b́nh
thịnh vượng, người người phải
lộ nét vui vẻ hạnh phúc, nhất là trên
những con đường mà Thái tử sẽ đi
qua.
Dù đức vua Tịnh Phạn ra lệnh che giấu
cuộc sống của dân chúng chu đáo như
thế nào cũng không qua mắt được Thái
tử. Sau bốn chuyến du ngoạn ngoài thành Thái
tử đă quan sát và nhận thấy cuộc
sống của con người không hoàn toàn hạnh phúc,
mà cuộc sống con người bị quay cuồng
trong một ṿng tṛn khốn khổ như h́nh ảnh
một cụ già yếu ớt, mắt mờ, lưng
c̣ng, tóc bạc, da nhăn, bước đi rung
rẩy phải nhờ một cây gậy chống đỡ.
Một người bệnh hoạn đau đớn rên
la ngoài đường trông thật thảm thương.
Một thây người chết śnh thúi đưa lên
giàn hoả thiêu đốt trước sự khóc lóc
sầu năo của người thân c̣n sống. Bên
cạnh đó những người xung quanh chỉ lo
chạy đua, tranh giành, chụp giựt, bon chen
hằng ngày, không hề có giây phút suy tư t́m cách
thoát khỏi cái ṿng hệ luỵ sanh, già, bệnh,
chết đó! Chừng như họ chịu thua hoàn
cảnh khắc nghiệt ập lên cuộc đời
ngắn ngủi của họ và cứ tiếp tục
thả ḿnh trôi lăn trong biển khổ định
mệnh. Riêng Thái tử th́ không chấp nhận, Ngài
nghĩ là ḿnh phải làm bất cứ giá nào để
vượt khỏi sự sinh diệt. Rồi Ngài
trầm ngâm tư duy t́m lối thoát ra, nhưng không có
cách nào hết.
Cũng may, ngoài ba cảnh già, bệnh, chết... th́
trong chuyến du ngoạn lần thứ tư, Thái
tử gặp được một vị đạo
sĩ Bà La Môn nghiêm trang khả kính. H́nh ảnh thong
dong từ tốn của vị tu sĩ này đă
mở cho Thái tử một con đường mà Ngài
hy vọng sẽ đạt được giải thoát
an vui.
Trong kinh Trung A-Hàm (Majjhima Nikăya, Phần 1 - Ariyapariyesana
Sutta số 26, trang 163) có ghi lại sự suy nghĩ
của Thái tử Sĩ-Đạt-Ta như sau:
"Chính ta phải chịu sanh, già, bịnh,
chết, phiền năo và ô nhiễm. Tại sao vẫn
mải mê chạy theo những điều mà bản
chất cũng c̣n như vậy. V́ chịu sanh, lăo,
bịnh, tử, phiền năo và ô nhiễm, ta đă
nhận thức sự bất lợi của những
điều ấy. Hay ta thử đi t́m cái chưa thành
đạt, cái tối thượng và tuyệt đối
của Niết Bàn".
Nói về cuộc sống tại gia, cũng trong kinh
Trung A-Hàm, Phần 1, Mahăsaccaka Sutta số 36, kể
lại rằng:
"Đời sống tại gia rất tù túng
chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi
trần ô trược, nhưng đời của
bậc xuất gia quả thật là cảnh trời
minh mông bát ngát! Người đă quen với nếp
sống gia đ́nh ắt thấy khó mà chịu
được Đời Sống Đạo Hạnh
Thiêng Liêng với tất cả sự hoàn hảo và
trong sạch của nó."
Nhận định rơ ràng những thích thú vật
chất mà phần đông tranh giành nhau đều không
thể đem lại lợi ích bền vững,
chỉ có sự xuất gia, từ bỏ tất
cả mùi danh bă lợi của trần gian này mới
thật là chân giá trị, nên Thái tử Sĩ-Đạt-Ta
dứt khoát rời bỏ cung điện với ngai vàng
ngôi vua đứng đầu thiên hạ, từ giă người
vợ cao sang quyền quư xinh đẹp và đứa
con kháu khỉnh dễ thương vừa mới chào
đời để ra đi t́m Chân lư Tịch
Tịnh trường cửu. Hy sinh t́nh cảm riêng tư
để ra đi không phải Thái tử ích kỷ
chỉ nghĩ riêng cho bản thân ḿnh, mà Ngài ra đi
để t́m pháp tu hầu tự cứu ḿnh và
cứu hàng hàng lớp lớp chúng sanh đang lặn
ngụp trong biển khổ, trong đó cho phụ hoàng,
mẫu hậu, vợ con của Ngài.
Từ một Thái tử giàu sang vinh hiển tột
bậc. Ngài trở thành một đạo sĩ nghèo
nàn, không tiền của, không cửa nhà, sống
nhờ ḷng từ thiện của bá tánh thập phương.
Ngài không có một nơi chốn nào nhất định.
Hôm nay, ngủ dưới gốc cây cao bóng mát, ngày
mai tạm trú trong một hang đá vắng vẻ hoang
vu... Thế nào cũng được, chỉ cần có
thể che mưa đỡ nắng cho Ngài trong buổi
trưa hè nắng gắt, hay trong đêm khuya gió sương
lạnh lẽo là được rồi. Chân không giày
dép, đầu không mũ nón, Ngài đi trong ánh
nắng nóng bức và trong sương gió lạnh lùng
như thế ngày này qua ngày khác. Tất cả xiêm y
chỉ là những mảnh vải vụn vặn ráp
lại vừa đủ để che thân. Tất
cả tài sản chỉ là một b́nh bát để
tŕ khất thực. Vật thực và bộ y chỉ
vừa đủ sống. Ngài tận dụng thời
giờ và năng lực trong việc t́m kiếm khám
phá chân lư. T̀M
CHÂN LƯ
Từ lúc Thái tử bỏ nhà, tự cắt tóc
xuất gia tầm đạo đă nhiều lần
thất bại suưt mất mạng.
Lúc đầu Ngài t́m cầu học đạo
với 2 vị thầy Yoga nổi tiếng thời
đó là đạo sĩ Alără Kălama và Uddaka Rămaputta.
Học với đạo sĩ Alără Kălama, không bao lâu
ngài đắc quả "Vô Sở Hữu Xứ"
nghĩa là "Chỗ không có ǵ". Đây là
trạng thái tâm thức thiền gia cảm nhận
"không có ǵ" chung quanh ḿnh trong lúc toạ
thiền cũng như sau khi xả thiền. Trong
tiến tŕnh này, tuy tâm không dao động, không
rối loạn trước các đối tượng
(v́ đối tượng không là ǵ), nhưng
vẫn c̣n tự ngă và ư thức cho nên ngă và pháp
đều có mặt. Kết quả đă không đáp
ứng được mục đích thoát khỏi sanh
già bệnh chết, nên Ngài từ giả vị
Thầy ra đi t́m pháp khác, mặc dù vị Thầy
này đă yêu cầu Ngài ở lại để cùng hướng
dẫn đồ chúng.
Ngài ra đi t́m học đạo với vị
thầy thứ hai là đạo sĩ Uddaka Rămaputta
chỉ trong 3 tuần ngắn, Ngài cũng được
vị thầy này ấn chứng cho đă đạt
được quả vị cao nhất của hệ
thống thiền Yoga là "Phi Tưởng Phi Phi Tưởng
Xứ". Đây là trạng thái "không tri giác,
mà cũng không không tri giác" nói cách khác là
"hoàn toàn không nhận thức điều ǵ
đối với môi trường xung quanh".
Trong lúc đó niệm biết rơ ràng không xuất
hiện cho nên thiền giả có lúc ch́m đắm
trong ảo tưởng. Ngài nhận thấy loại
định này cũng không đưa đến thoát
khỏi ly tham, cũng không đạt được
đoạn diệt, an tịnh, thượng trí và giác
ngộ. V́ thế dù được vị thầy
thứ hai này ấn chứng và ngỏ ư truyền
tất cả đồ chúng để Ngài cai quản
và hướng dẫn họ tu tập, nhưng ngài
đă nhă nhặn từ chối.
Một lần nữa, Ngài từ giă vị thầy
thứ hai để ra đi.
Lang thang qua xứ Ma-Kiệt-Đà, Ngài gặp đạo
sĩ Kiều Trần Như và bốn anh em. Cùng
với họ, Ngài bắt đầu tu khổ
hạnh. Thời đó các vị tu sĩ quan niệm là
phải đ́ thân thật khốc liệt để
cảm giác đau đớn nổi lên trên thân th́
mới đạt được đạo quả. Các
tu sĩ thời đó cho rằng đây là con
đường duy nhất không c̣n con đường
nào khác để đạt được Niết Bàn.
Trong ṿng 6 năm đạo sĩ Cồ Đàm nổi
tiếng khắp nơi về việc tu hành khổ
hạnh. Có lúc Ngài tu theo hạnh con chó, con ḅ, có lúc
Ngài ngủ trên cỏ gai nhọn, ngủ một gị,
không tắm, không cạo râu, không ăn no uống
nhiều, chỉ ăn một hạt gạo mỗi ngày.
Có khi vào giữa đêm khuya lạnh lẽo Ngài
lại trầm ḿnh xuống ḍng sông, nước
lạnh thấu xương hay nằm chịu đựng
cho tuyết rơi phủ cả thân ḿnh. Ngài tự khép
ḿnh vào nếp sống cực kỳ kham khổ, cho
đến một ngày kia thân h́nh tráng kiện của
Bồ Tát chỉ c̣n da bọc bộ xương, Ngài
xứng danh là đệ nhất khổ hạnh,
được mọi người tôn xưng là Thánh
nhân. CON
ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO
Tu khắc nghiệt như thế mà cũng không t́m ra
được manh mối ǵ. Tiếc thay, càng
đ́ thân khốc liệt bao nhiêu th́ Ngài càng xa
rời mục tiêu đi t́m Niết Bàn bấy nhiêu.
Thực ra, lúc đó Ngài cũng không biết trạng
thái Niết Bàn là như thế nào, Ngài chỉ nghĩ
đó là trạng thái không phiền năo nếu đă
tận diệt mọi h́nh thức ái dục.
Sau 6 năm dài đày đọa thân thể, tuy thân
của Ngài càng lúc càng tiều tuỵ, hai mắt như
hai hố thẳm, da nhăn nheo, tóc lông đụng
tới đâu th́ rụng tới đó, Ngài gầy
ốm đến nỗi da bọc xương, đi
đứng không vững, nhưng tâm ngài vẫn không
bị xao động, cho đến một ngày kia Ngài
té xỉu ở b́a rừng, may nhờ cô bé chăn
cừu cứu sống bằng chén bột sữa.
Khi tỉnh dậy, Ngài tỉnh ngộ, nhận ra
sự sai lầm của pháp tu khổ hạnh. Ngài
nhận ra thân này là quư, v́ thân kiệt quệ,
mệt mơi th́ tinh thần cũng kiệt quệ
mệt mơi không thể phát sáng, Ngài liền dứt
khoát bỏ lối tu khổ hạnh cực đoan này,
cũng như trước kia Ngài đă từ bỏ
lối sống cực kỳ lợi dưỡng sung sướng
nơi hoàng cung, v́ Ngài cho rằng đời sống
lợi dưỡng làm chậm trễ tiến bộ
đạo đức.
Bây giờ Ngài chọn con đường độc
lập, tức con đường trung đạo, không
lợi dưỡng cũng không khổ hạnh, Ngài
nhận ra ḿnh phải biết quư cái thân này để
mượn nó mà tu.
Ngài nhớ lại buổi lễ Hạ Điền năm
xưa, khi c̣n thơ ấu, trong lúc phụ hoàng và
mọi người chăm chú cử hành lễ
hội với các tṛ vui, Ngài đă ngồi thế nào
dưới bóng mát mẻ của cây trâm, tham thiền
nhập định và đắc được Sơ
Thiền. Càng tư duy, ngài càng thấy rơ đây
mới thật là con đường tu tập dẫn
đến Giác Ngộ.
Ngài ngẫm lại thời gian khổ hạnh trong
mấy năm qua, dù không đạt được
mục tiêu tối hậu, nhưng nhờ pháp này mà
Ngài đă tự chiến thắng được chính
ḿnh, chiến thắng được ḷng tham dục:
tài, sắc, danh, thực, thuỳ. Ngài cũng đắc
được nhĩ thông nghe được chư
thiên nói chuyện về Ngài.
Ngài nhận ra rằng với tấm thân ṃn mơi
khiến tâm không thể hoàn toàn sáng suốt. Bây
giờ cái Ngài cần là một sức khoẻ thích
nghi rất cần thiết để đạt
tiến bộ tinh thần, nên nhất định không
nhịn đói nữa mà nhận bánh Kheer của cô
Sujatà cúng dường. Sau khi ăn uống tắm
rửa sạch sẽ, ngài đến gặp lại các
bạn đồng tu là năm anh em Kiều Trần Như
để kể cho các vị ấy biết ư định
ngưng pháp tu khổ hạnh v́ pháp này không giúp ích
cho mục tiêu giải thoát của Ngài. Năm vị
tu sĩ này thấy Ngài đột nhiên thay đổi
phương pháp tu th́ lấy làm thất vọng nói
rằng: "Đạo sĩ Cồ Đàm đă
trở lại ưa thích xa hoa, đă ngừng cố
gắng và đă quay về với đời sống
lợi dưỡng" rồi họ rời bỏ
ngài, đi về phía Vườn Lộc Giả (Vườn
Nai / Sarnath). THÀNH
ĐẠO
Năm người bạn đồng tu đă rời
bỏ Ngài ra đi. C̣n lại một ḿnh, một
cảnh cô độc, Ngài đi dọc theo bờ sông
Ni-Liên-Thiền hướng về khu rừng cây
rậm rạp khác cách xa làng mạc, ngày nay là Bồ
Đề Đạo Tràng. Tại nơi đây
vắng vẻ, không bóng người qua lại, Ngài
chọn một gốc cây Pipphala to lớn, sau này người
ta gọi cây đó là cây Bồ Đề. Ngài
trải cỏ Kusha làm toạ cụ, quyết chí tham
thiền và thề nếu không chứng đạo dù
thịt nát xương tan Ngài cũng sẽ không
rời khỏi cội cây này. Nhớ lại pháp
thở khi c̣n nhỏ, bây giờ thử lại Ngài
đạt được kinh nghiệm khi xưa,
nếu không nói tâm mỗi lúc mỗi yên lặng hơn
nhiều, v́ thế Ngài nhất quyết chọn pháp này
để tu cho đến khi giải thoát. Ngài bắt
đầu chú tâm vào hơi thở, rồi buông
thả hơi thở, quay vào trong tâm, lặng lẽ
thiền định để t́m ra những chân lư
cao sâu thâm diệu hầu giải quyết bài toán
phức tạp sinh già bệnh chết.
Sau 49 ngày đêm, đạo sĩ Cồ Đàm đă
lần lượt nhập Sơ Thiền, Nhị
Thiền, Tam Thiền và Tứ Thiền. Khi tâm Ngài hoàn
toàn định tỉnh, thanh tịnh, trong sáng, không
cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ
sử dụng, b́nh tĩnh... hướng về
tuệ giác liên quan đến sự nhớ lại
những kiếp quá khứ của chính ḿnh. Tất
cả những ǵ xảy ra từ nhiều kiếp quá
khứ hiện ra trong nhận thức của ngài như
một cuốn phim trước mặt. Sanh ra, chết
đi, tái sanh.... Hết đời này qua đời khác...Làm
con người này, làm con người kia... như
thế nào Ngài đều rơ biết. Đây là
tuệ giác đầu tiên ngài chứng ngộ vào lúc
canh Một của đêm thành đạo, gọi là Túc
Mạng Minh.
Phá tan được lớp vô minh, tự ḿnh nh́n ra
được vô số kiếp của ḿnh. Bây
giờ ngài mới hướng tâm về tri giác
(hiểu biết) hiện tượng Sanh, Diệt
của chúng sanh. Với huệ nhăn tinh khiết và siêu
phàm, Ngài thấy sự sống và sự chết
của chúng sanh. Ngài biết người hạ
liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ,
kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất
hạnh...v.v... Tất cả đều trải qua
diệt và sanh, sanh và diệt, tuỳ hành vi tạo tác
hạnh nghiệp tốt xấu thiện ác của
mỗi người mà thọ sanh luân hồi trong 6 cơi:
trời, người, Atula, súc sanh, ngạ quỹ hay
địa ngục... Như vậy với Thiên Nhăn
Minh, ngài mục kích sự phân tán và sự cấu
hợp trở lại của chúng sanh. Ngài chứng
ngộ Thiên Nhăn Minh trong canh giữa của đêm thành
đạo.
Tiếp theo, ngài hướng tâm thanh tịnh về
tuệ tri hiểu biết sự chấm dứt các pháp
trầm luân. Ngài biết như thật "đây
là khổ, đây là nguyên nhân của khổ, đây
là sự diệt khổ, đây là con đường
đưa đến diệt khổ". Ngài
biết như thật "đây là những ô
nhiễm (lậu hoặc), đây là nguyên nhân của
các lậu hoặc, đây là sự diệt trừ
những lậu hoặc, đây là con đường
diệt trừ các lậu hoặc". Lần lượt
ngài nhận thức tiếp : "Đây là
phiền năo, đây là nguyên nhân của phiền nào,
đây là sự chấm dứt phiền năo, đây là
con đường đưa đến chấm
dứt phiền năo".. v.v... và. v.v... Nhận
thức như thế, tâm Ngài thoát khỏi dục
lậu (ô nhiễm của dục vọng), thoát
khỏi hữu lậu (ô nhiễm của sự
luyến ái đời sống) và thoát khỏi vô minh
lậu (ô nhiễm của vô minh). Ngài chứng Lậu
Tận Minh khi trời hừng sáng. Bấy giờ Ngài
biết ḿnh đă được giải thoát, Ngài
nhận thức rằng: "Tái sanh đă
chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh
đă viên măn, việc cần làm đă làm xong, sau
đời hiện tại không có đời sống nào
khác nữa" (Kinh Trung Bộ 1, Đại
Kinh Saccaka, số 37, trg 541-543)
Màn vô minh đă hoàn toàn giải toả và trí tuệ
phát sanh. Đêm tối đă tan và ánh sáng tràn
ngập đến. Đạo sĩ Cồ Đàm lúc
đó 35 tuổi. Suốt 6 năm dài đăng đẳng,
không có sự hỗ trợ từ bên ngoài, cũng không
được sự hướng dẫn từ
một năng lực siêu phàm nào, cô độc
một ḿnh, tự nỗ lực chiến đấu chính
ḿnh và tự ḿnh thắp đuốc ṃ mẫm đi
trong đêm tối. Kết quả đă tận
diệt mọi ô nhiễm (lậu hoặc) chấm
dứt mọi tiến tŕnh tham ái và chứng ngộ
thực tướng của vạn pháp, đă trở
thành một vị Phật lịch sử.
Đức Thích Ca Mâu Ni là một vị Phật
lịch sử. V́ sau mấy ngàn năm, tư liệu
sử sách vẫn c̣n để lại:
Cha: Đức Vua Tịnh Phạn nước
Ca-Tỳ-La-Vệ (Bắc Ấn Độ)
Mẹ: Hoàng hậu Mahămaya (băng hà sau khi sanh Thái
tử 7 ngày)
Mẹ kế: Vương phi Mahă Pajăpati Gotami (là d́
ruột nuôi Thái tử cho đến khi khôn lớn)
Ngày sanh: Rằm tháng 4 Âm lịch tại vườn Lâm
Tỳ Ni, nước Nepal
Thành hôn với công chúa Da-Du-Đa-La: Năm 16 tuổi
Đến 29 tuổi có con đầu ḷng là:
La-Hầu-La
Bỏ hoàng cung xuất gia: Ngày 8 tháng 2, vào năm 29
tuổi
Thành đạo: Ngày 8 tháng 12. Năm 35 tuổi tại
Buddha Gaya, Ấn Độ
Hoằng pháp: 45 năm
Nhập Niết Bàn : Rằm tháng 2, thọ 80 tuổi
tại Kusinără, Ấn Độ.
Hiện nay, vẫn c̣n các thánh tích (Tứ Động
Tâm) ghi lại những nơi Đức Phật đă
đi qua do các nhà khảo học người Anh t́m
thấy. Như Lâm Tỳ Ni là nơi Đức
Phật đản sanh. Bồ Đề Đạo Tràng
(Buddha Gaya khoảng 10 cây số cách nhà ga xe lửa
Gaya) là nơi Đức Phật thành đạo. Vườn
Lộc Giả, bây giờ là Sarnath, Ấn Độ, là
nơi Đức Phật chuyển pháp luân đầu
tiên, giảng bài kinh Tứ Diệu Đế và Vô Ngă
Tướng độ cho 5 anh em Kiều Trần Như
đắc quả A-La-Hán. Nơi Đức Phật
diệt độ là Kusinără (bây giờ gọi là
Kasi, khoảng 40 cây số cách nhà ga Gorakhpur, Ấn
Độ).
KẾT
LUẬN
Đức Phật Thích Ca được tôn vinh là Giáo
chủ của tín đồ Phật giáo ở cơi Ta Bà
này. Cuộc đời của Ngài cũng có một
huyền thoại rất hy hữu. Ngài đă để
lại một kho tàng giáo lư giá trị. Đạo
Phật có khoảng trên 800 triệu tín đồ trên
thế giới (hơn 7 tỷ người) và đạo
Phật cũng có hệ thống nghi lễ hẵn hoi.
Như vậy, một mặt đạo Phật cũng
có thể được xem như là một tôn giáo,
mà hễ tôn giáo th́ người Giáo chủ ấy có
nhiều huyền thoại về cuộc đời cho
nên chúng ta mới có Đức Phật Huyền
Thoại. Nhưng ngược lại trong kinh điển
Phật giáo để lại người ta thấy
rằng Ngài không hề nhận ḿnh là Giáo Chủ mà
chỉ là người Thầy trao truyền những phương
pháp tu tập, những kinh nghiệm mà Ngài đă
trải qua cho những người muốn tu tập
để thoát khổ giải thoát, cho nên người
ta tôn xưng Ngài là vị Phật lịch sử duy
nhất trên cơi đời này. Những danh hiệu cao
quư khác cũng cho tín đồ của Ngài cung kính tôn
xưng mà thôi.
Nhân ngày lễ Phật Đản chúng ta nghĩ tưởng
về người khai sáng ra đạo Phật qua 2 h́nh
ảnh theo 2 truyền thống: Lịch Sử và
Huyền Thoại. Truyền thống nào cũng mang
lợi lạc cho chúng sanh. Chúng ta biết rằng Đức Phật khi c̣n tại thế đă không nhận ḿnh là thần linh, là thượng đế, nên Ngài không ban phát phép lành hay cứu rổi cho bất cứ ai. Ngài chỉ để lại một học thuyết mà qua sự tự tu, tự chứng của Ngài, cho những ai tin và theo học. Học thuyết đó giá trị chủ yếu ở các khái niệm thiện tâm, nhân ái và b́nh đẳng. Đó là về mặt cộng đồng, xă hội. Về mặt tâm lư Ngài để lại một kinh nghiệm tu tập để con người thoát khỏi sự kiềm toả của sự đau khổ để được sống trong trạng thái an lạc hạnh phúc gọi là Niết Bàn.
Đối với giáo lư nhà Phật th́ Niết Bàn chính
là trạng thái tĩnh lặng, trong sáng, không dính
mắc với mọi thứ trên đời này, nhưng
vẫn luôn sáng suốt v́ trí huệ bát nhă đă
được khai mở phát huy. Người nào kinh
nghiệm được trạng thái Niết Bàn là người
đó thoát khổ, giải thoát. Như vậy
Niết Bàn không phải ở đâu xa mà nó ở
ngay trong tâm của người liễu đạo bây
giờ và ở đây! Viết
về cuộc đời của Đức Phật không
chỉ vài trang giấy là đủ cho nên bài viết
này tạm thời được khép lại nơi
đây. Với tấm ḷng kính quư của người
học Phật, chúng tôi chỉ mong trang trải chút
hiểu biết sơ cơ của ḿnh để cùng
với mọi người ôn lại tiểu sử
ngắn gọn của Đức Bổn Sư Thích Ca
về hai mặt Lịch Sử và Tôn Giáo nhân mùa
Phật Đản, Phật lịch 2559.
Kính chúc tất cả chư liệt vị thân tâm thường
an lạc trong ánh hào quang của chư Phật.
THÍCH NỮ HẰNG NHƯ
01/6/2015 DL, Rằm tháng Tư năm Ất Mùi Phật Đản thứ 2639, Phật lịch 2559 |