
Lời giới thiệu: Cựu Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn
Ngọc Quỳnh xuất thân khóa II Trường
Hải-Quân Pháp tại Brest. Mời độc giả
hăy cùng “Ngưới Lính Biển chuyên nghiệp”
Nguyễn Ngọc Quỳnh khơi lại những kỷ
niệm sống thật ở những khía cạnh
tốt đẹp nhất trong đời Hải-Quân.
***
Lănh tàu là điều mơ ước của nhiều
lính biển, kể cả kẻ viết bài này. Đó
là dịp tốt để thực hiện mộng
hải hồ, vượt đại dương, khám
phá nhiều chân trời mới lạ và cũng là
dịp du lịch nước ngoài miễn phí.
Nhưng, lệnh chỉ định lănh tàu đến
với tôi không đúng lúc. V́, lúc đó, ngày 5 tháng 2
năm 1962, tôi đang ở San Diego, chờ ngày hồi hương.
Sau một năm du học và gần tám năm hải
vụ liên tục, tôi không mơ ǵ hơn là trở
về với gia đ́nh và phục vụ ở
đơn vị bờ một thời gian. Nhưng đă
trót vướng vào nghiệp hải hồ, tôi không
thể từ chối một chuyến lênh đênh
nữa.
Chiến hạm tôi sắp lănh là Dương-Vận-Hạm
Cam-Ranh HQ 500. Ngày bàn giao được dự trù vào
giữa tháng 4. Trong khi chờ đợi, tôi theo học
các khóa huấn luyện về hành quân thủy bộ
tại Coronado; v́ hành quân thủy bộ là nhiệm
vụ chính của các Dương-Vận-Hạm.
Khi tôi tới Hải-Quân Công-Xưởng San Francisco th́
thủy thủ đoàn từ Việt-Nam đă đến
vào ngày hôm trước. Tôi rất mừng khi gặp
họ và được sống lại trong bầu
không khí của một đơn vị Hải-Quân
Việt-Nam sau một năm xa cách. Tôi cũng mừng
v́ có một bộ-tham-mưu và thủy thủ đoàn
khá hùng hậu.
Bộ-tham-mưu gồm có các anh Nguyễn Ngọc
Rắc, Đinh Vĩnh Giang, Lê Văn Th́; Đặng
Trần Du, Hạm-Trưởng và Hoàng Nam, Cơ Khí Trưởng.
Mặc dù từ nhiều đơn vị khác nhau
tới, chỉ trong một vài ngày chúng tôi đă
tạo được tinh thần đồng đội
và t́nh tương thân. Đó là yếu tố cần
thiết giúp chúng tôi vượt qua những khó khăn,
mệt nhọc trong những ngày tháng sắp tới.
Chiến hạm lúc đó sắp hoàn tất chương
tŕnh tái trang bị sau một thời gian dự trữ
bao kín (mothball). Chúng tôi làm quen với chiến hạm
và tiếp tay vào việc tái trang bị. Hải-Quân
Hoa-Kỳ biệt phái một toán huấn luyện lưu
động để giúp đỡ nhân viên chiến
hạm từ lúc đó cho tới khi chiến hạm
rời bến, đưa chúng tôi hồi hương.
Chúng tôi học hỏi được rất nhiều
nhờ sự chỉ dẫn tận t́nh của toán
huấn luyện lưu động này. Mặc dù
nhiều nhân viên chiến hạm khá thành thạo
tiếng Anh, nhưng sự liên lạc giữa hai bên
trong vài tuần đầu cũng khá… mỏi tay, v́
phải bổ túc bằng “thủ hiệu quốc
tế!”
Lễ trao chiến hạm được tổ chức
trọng thể, với sự có mặt của đại
diện hai chính quyền Việt-Mỹ. Phía Việt-Nam
là một vị đặc sứ từ Ṭa Đại-Sứ
Việt-Nam Cộng-Ḥa tại Washington, D.C. Phía Hoa-Kỳ
là Đô-Đốc Tư-Lệnh Hải-Khu 12. Nhiều
phóng viên báo chí và truyền h́nh Hoa-Kỳ đến
làm phóng sự.
Ngay sau lễ bàn giao, chiến hạm bắt đầu
tuần lễ huấn luyện trắc nghiệm và làm
quen (Shakedown Training). Đúng như nghĩa tiếng
Mỹ, trong tuần lễ này chiến hạm bị
“quần” rất kỹ, từ nhân viên đến
máy móc và dụng cụ, xem có ǵ trục trặc để
bổ khuyết, tu chỉnh. Toán huấn luyện lưu
động rất hài ḷng về sự hăng hái và
khả năng học hỏi của thủy thủ
đoàn; nhưng cũng rầu về thói coi thường
các biện pháp an toàn của lính biển Việt-Nam.
Trong một lần thực tập tác xạ pḥng không,
một viên đạn đại bác 20 bị tịt
ng̣i, nằm trong buồng súng. Biện pháp an toàn là
xịt nước lạnh lên thép súng, phủ một
tấm bố lên súng rồi nhân viên tránh xa ra, chờ
một chốc cho đạn nguội mới lấy ra.
Nhưng, khi nhân viên đang phủ tấm bố lên th́
anh Trung-Sĩ hỏa đầu vụ đi ngang; có
lẽ v́ kinh nghiệm chiến đấu của anh
trên sông ng̣i với đại liên, anh cho rằng
biện pháp an toàn đó là “bày đặt, mất
th́ giờ”, anh bèn phóng tới, mở ngay cơ
bẩm, móc viên đạn nóng ra ném ngay xuống
biển!
Lần khác, trong cuộc thực tập tiếp tế
dầu ngoài biển giữa hai chiến hạm đang
chạy song song, nhân viên phải tập cách tháo ống
dẫn dầu khẩn cấp, pḥng khi có nguy cơ
hỏa hoạn hoặc địch sắp tấn công.
Một lần, dây cột đầu ống dầu
không tháo ra được, phải cắt đứt
ở phía ngoài thành tàu chừng hơn một săi tay.
Huấn luyện viên Mỹ đang giúp một nhân viên
cột giây an toàn, mang áo phao, nón nhựa để ra
cắt, th́, một “đấng” Hạ Sĩ ḿnh
trần trùng trục, không mũ, không phao, leo ra ngoài
thành tàu để cắt một cách rất…anh hùng! Sĩ
quan phụ trách chỉ biết “khóc thét” v́ ngăn
không kịp!
Sau tuần huấn luyện, những sửa chữa
cần thiết được làm ngay tại San
Francisco; phần c̣n lại sẽ được
thực hiện tại San Diego.
Chiến hạm rời vịnh San Francisco vào một
buổi sáng đẹp trời. Cầu Golden Gate nổi
bật trên nền trời xanh thẫm, điểm
một vài cánh hải âu trắng. Nhớ lại
mấy tuần trước, chúng tôi qua cầu để
ra khơi thực tập, cầu ch́m trong sương mù
hoặc mưa bụi. Tiếng c̣i báo sương mù the
thé ḥa với tiếng gió ù ù và ḍng nước
triều chảy xiết khiến cầu có vẻ “đáng
sợ” hơn nhiều. Đây là cảm giác mà khi lái
xe trên mặt cầu phẳng phiu, thẳng tắp, khó
mà h́nh dung ra được.
So với tuần lễ huấn luyện Shakedown, hải
tŕnh đi San Diego thật êm ả, dễ chịu.
Hải hành dọc theo bờ biển California vào
giữa mùa Xuân thấy cảnh trí rất đẹp.
Chắc không ai trong chúng tôi nghĩ rằng có ngày ḿnh
sẽ nhận nơi này làm quê hương thứ hai.
Đến San Diego chúng tôi tiếp tục sửa
chữa, trang bị, huấn luyện và chuẩn bị
hành tŕnh hồi hương. Chương tŕnh huấn
luyện gồm một tuần huấn luyện tổng
quát và một tuần huấn luyện chuyên về hành
quân thủy bộ.
Phần huấn luyện chính xác được đặt
nặng vào sự chính xác hải hành, chính xác tác
xạ, v. v…Qua tuần này, mọi người mới
nhận thấy từ trước tới nay ḿnh làm
việc quá đại khái. Sở dĩ Hải-Quân
Hoa-Kỳ đ̣i hỏi độ chính xác cao v́ kinh
nghiệm chiến tranh cho họ thấy đó là
vấn đề sinh tử. Chẳng hạn như khi
chiến hạm hải hành qua một băi ḿn – có
thể là một vùng biển rộng hàng chục
hải lư – phải theo đúng lối đă rà ḿn.
Lối này thường hẹp, nếu lạng quạng
ra ngoài một chút là có thể về tŕnh diện
Long-Hải Đại-Vương.
Hành quân thủy bộ có vẻ mới lạ đối
với chúng tôi; v́, tuy nhiều người trong chúng
tôi đă phục vụ trên các tàu đổ bộ,
có lẽ chưa ai được huấn luyện đầy
đủ và kỹ lưỡng về chiến thuật
này. Chúng tôi tập ủi băi ngày, ủi băi đêm,
ủi băi với cầu nổi, ủi băi với
một máy, ủi băi không dùng tay lái, ủi băi không
neo, ủi băi chính xác, v. v…
Để tiến vào băi đổ bộ, tàu phải
chạy theo một hành lang rất hẹp, nếu
lệch ra ngoài có thể đụng vào chiến
hạm bạn ở hành lang bên cạnh, hoặc lạc
vào khu chưa rà ḿn. Chiến hạm c̣n phải ủi
băi đúng từng phút. Giờ giấc phải chặt
chẽ như vậy v́ trước khi tàu vào băi,
hải pháo và phi cơ bạn phải tác xạ cho
địch không ngóc đầu dậy được
mà bắn chận tàu. Tác xạ này chỉ ngừng
đúng bốn phút trước khi tàu chạm băi.
Nếu tàu vào sớm, sẽ “ăn” đạn
của bạn; nếu vào muộn, địch sẽ
ngóc đầu dậy để tấn công ta. Tất
cả công tác khó khăn đó được thực
hiện tại bờ biển lạ, thường là
vào ban đêm, không có hải đăng.
Chúng tôi ủi băi chính xác đến độ các
huấn luyện viên Mỹ phải ngạc nhiên. Có
lẽ v́ nghĩ rằng tôi “ăn may” cho nên họ
yêu cầu các sĩ quan khác làm thử, và ai cũng
đạt kết quả tốt. Chúng tôi được
sắp hạng cao hơn các chiến hạm Mỹ cùng
tập dượt trong tháng đó. Đạt được
thành quả tốt đẹp đó có lẽ nhờ
sự cố gắng của tất cả nhân viên
chiến hạm: Từ người giữ tay lái đến
người điểu chỉnh tốc độ máy,
từ người xử dụng radar đến người
xác định vị trí trên bản đồ, v. v… Ai
nấy đều muốn tỏ cho huấn luyện
viên Mỹ thấy rằng lính biển Việt-Nam,
nếu được huấn luyện và có phương
tiện th́ cũng không kém ai.
Ngoài nỗ lực chung, cũng phải kể đến
một vài cái “tủ” hay mẹo vặt, hay nói
một cách văn chương là một vài “sáng
kiến độc đáo” của chúng tôi. Thí dụ
như nếu chỉ dùng radar, chiến hạm sẽ
khó chạy đúng trục của hành lang đổ
bộ. Khi tới gần băi, dù trong đêm tối,
với ống ḍm, tôi cũng cố t́m ra một vài
dấu vết đặc biệt của dăy cột
điện trên bờ, hiện lờ mờ trong ánh
sáng của thành phố San Diego ở chân trời xa, và
nhờ đó điều chỉnh được chính
xác hơn vào mấy phút chót. Thử lại một vài
lần thấy đúng, tôi bèn bỏ nhỏ cho các sĩ
quan cái “tủ” đó. Các huấn luyện viên
Mỹ không hề biết có sự “huấn
luyện” nội bộ bí mật này.
Để bảo toàn an ninh, chiến hạm phải che
tối hoàn toàn để địch ở trên bờ
không trông thấy, kể cả khi mở cửa đổ
bộ ra. Một huấn luyện viên Hoa-Kỳ đứng
trên bờ sẽ quan sát kỹ lưỡng về điểm
này. Để kiểm soát chu đáo, một nhân viên
chiến hạm có sáng kiến là cho tiểu đỉnh
chạy quanh tàu trước khi tàu tiến vào băi để
xem c̣n sót ánh đèn nào ló ra không. Nhờ vậy tránh
được nhiều khuyết điểm mà đứng
trên tàu không thấy được.
Điểm đặc biệt là những “tủ”
này do nhân viên các cấp, các ngành t́m ra. Do đó chúng
tôi “khám phá” một điều là: Dân Việt-Nam
không biết có thông minh hơn các dân tộc khác hay
không, nhưng chắc chắn là “khôn vặt” hơn.
Khi hoàn tất giai đoạn huấn luyện, chúng tôi
mới thấy thấm mệt. Có nhiều ngày liên
tiếp chúng tôi phải dậy thật sớm để
tập từ trước khi mặt trời mọc,
rồi thức đến khuya để tập đổ
bộ ban đêm. Nhiều đêm chỉ ngủ độ
năm tiếng, rồi ngày làm việc khoảng mười
sáu tiếng, mà vẫn tỉnh táo, nếu không là
dễ xảy ra tai nạn.
Sang giai đoạn sửa chữa và tiếp liệu,
chúng tôi mới nghĩ tới chuyện đi bờ,
giải trí, mua sắm, nghỉ ngơi.
Tuy nói là “nghỉ ngơi” nhưng chúng tôi cũng
rất bận rộn trong việc sửa chữa và
tiếp liệu; v́ phải hoàn tất trước ngày
khởi hành hồi hương. Không những chiến
hạm cần có đủ vật liệu và thực
phẩm cho một hải tŕnh dài một phần ba ṿng
trái đất, trong khoảng 50 ngày, mà c̣n phải
dự pḥng đồ tiếp liệu, nhất là cơ
phận thay thế, về lâu dài; v́ đây là Dương-Vận-Hạm
đầu tiên của Hải-Quân Việt-Nam cho nên
Trung-Tâm Tiếp-Liệu chưa có đủ vật
liệu riêng cho loại tàu này.
Có hai điều khó: Một là số lượng nói
trên vượt ra ngoài cấp số quy định. Hai
là kho tiếp liệu địa phương không đủ
để cung cấp kịp thời những vật
liệu mà tàu xin cấp. Với sự giúp đỡ
của toán huấn luyện lưu động, chúng tôi
tạm thỏa măn được nhu cầu bằng
cách này hay bằng cách khác. “Cách khác” ở đây
có nghĩa là ra ngoài thể thức hợp lệ
của Hải-Quân Hoa-Kỳ. Hai lối thông dụng
nhất là “midnight requisition” (tạm dịch là xin
cấp phát nửa đêm) và “ngoại giao”.
“Xin cấp phát nửa đêm” là t́m cách lấy
vật liệu mà không theo đúng thủ tục
cấp phát hoặc không được phép. Nói nôm na
là “thuổng” hay “cầm nhầm”. Cần phải
nói ngay là thuổng cho chiến hạm dùng chứ không
phải làm của riêng. Mặc dầu vậy, lúc đầu
chúng tôi cũng không dám làm v́ sợ bị túm th́ mang
tiếng. Nhưng sau, chính toán huấn luyện lưu
động khuyến khích và “huấn luyện” chúng
tôi, v́ cách này cũng rất thịnh hành trong
Hải-Quân Hoa-Kỳ. (Nếu vị nào không tin, xin xem
phim Operation Pettycoat, do Tony Curtis đóng vai một sĩ
quan có biệt tài về “xin cấp phát nửa đêm”)
Chẳng hạn như chiến hạm có bốn LCVP mà
không có bệ đặt để tu bổ, mặc dù
theo cấp số có thể xin Hải-Quân Công-Xưởng
thực hiện. V́ quá cận ngày, không thể làm
kịp, toán huấn luyện lưu động đă
xúi chúng tôi lấy ngay bệ có sẵn của
Hải-Quân Công-Xưởng San Diego để trên
cầu tàu.
Họ “đạo diễn” như sau: Khoảng
nửa đêm, chờ cho xe của sĩ quan trực
Hải-Quân Công-Xưởng vừa đi tuần qua,
nhân viên điện khí lên tắt đèn cầu tàu,
nhân viên vận chuyển khuân bệ xuống chiến
hạm, nhân viên giám lộ đứng trên cao canh
chừng.
Phương pháp “ngoại giao” được
thực hiện bằng ngân khoảng tiếp tân
của chiến hạm và cũng được toán
huấn luyện lưu động cổ vơ. Những
buổi tiếp tân hoặc bữa ăn thân mật
được tổ chức để cảm ơn
toán huấn luyện lưu động đă giúp đỡ
chiến hạm, nhưng các giới chức có thẩm
quyền về sửa chữa hoặc tiếp liệu cũng
được mời. Nhờ vậy, nhiều thủ
tục cấp phát hoặc thực hiện công tác
được dễ dàng và mau chóng hơn nhiều.
Chúng tôi gọi đây là “hối lộ hợp
pháp”. Cũng nhờ phương pháp này chúng tôi
chiếm cảm t́nh của các sĩ quan một
chiến hạm bên cạnh và họ đă “đáp
lễ” bằng một cầu thang nhẹ bằng nhôm
mà nhân viên vận chuyển từng mơ ước;
v́ khiêng nhẹ hơn và đỡ nguy hiểm hơn
những cầu thang bằng sắt.
Một trong những chuẩn bị quan trọng cho
chuyến hồi hương là hàng hải. Thái-B́nh-Dương
là đại dương lớn nhất và không một
ai trong chúng tôi có nhiều kinh nghiệm về các
bến và vùng biển này. Với đoạn đường
hơn 8,000 hải lư và với tốc độ trung
b́nh non mười hải lư một giờ, cộng
với thời gian ghé bến ba lần, hải tŕnh
sẽ dài hơn một tháng rưỡi. Khởi hành
gần cuối tháng Sáu, chúng tôi sẽ tới miền
Tây Thái-B́nh-Dương vào hạ tuần tháng Bảy,
đúng vào mùa băo lớn ở vùng biển này.
Huấn thị hải hành và khí tượng về
đoạn đường sắp đi là một
chồng sách dày cộm mà tôi biết sẽ không đủ
thời giờ đích thân ngồi đọc từng
chi tiết và nhiều chi tiết không thể bỏ qua
được. Và đây là lúc thấy sự lợi
ích của sự phân nhiệm. Theo thường lệ
trên chiến hạm, nội vụ và quân kỷ là
phần nhiệm của Hạm-Phó. Hải hành
được giao cho sĩ quan đệ tam. Biết
khả năng của mỗi sĩ quan tôi thấy
cần vượt ra ngoài thông lệ đó. Anh Du,
Hạm-Phó, là một trong những “cây” hải hành
cao thủ của Hải-Quân; trong khi đó tính “đại
từ bi” của anh có lẽ không hợp với
nhiệm vụ “ông Ác” của trưởng ban
nội vụ. Do đó, anh Du và anh Rắc vui vẻ hoán
chuyển chức vụ trưởng ban hải hành và
trưởng ban nội vu với nhau. Cả hai tỏ ra
xuất sắc trong chức vụ mới này.
***
Đoạn đường San Diego – Pearl Harbor dài mười
một ngày với thời tiết và biển khá đẹp.
Trước khi khởi hành, chúng tôi nhận được
chỉ thị phải báo cáo nếu trông thấy loé
sáng trên trời đêm khi tới gần Hạ-Uy-Di. Tuy
chỉ thị không nói rơ, nhưng tôi biết lúc đó
Hoa-Kỳ đang trắc nghiệm những vụ nổ
nguyên tử trên thượng tầng khí quyển.
Những vụ nổ này có thể chận đứng
sự truyền luồng sóng điện trong một
thời gian.
Một đêm, tôi đang ngủ trong pḥng ngủ
hải hành (sea cabin) ngay dưới đài chỉ huy,
th́ anh Rắc, sĩ quan đương phiên, báo cáo là
thấy ánh sáng lóe trên trời về hướng Tây
Nam. Khi tôi lên đến đài chỉ huy th́ chỉ
c̣n thấy một đóm sáng nhỏ, nhưng cả
nền trời bắt đầu chuyển sang màu cam
giống như ráng chiều, mặc dù lúc là khoảng
hai giờ sáng. Chúng tôi thấy có một cảm giác
lạ lùng và rùng rợn! Sau này, khi anh Rắc qua đời
v́ bệnh ung thư máu, tôi mới nhớ lại
vụ thấy ánh sáng nguyên tử và thắc mắc
không rơ có phải v́ ảnh hưởng phóng xạ
nguyên tử hay không!
Theo lệnh hải hành, chiến hạm chỉ ghé Pearl
Harbor ba ngày. Nhưng bơm nhớt của tàu bị
nóng, cần sửa chữa ngay. Lúc đó là đầu
tháng Bảy, tài khóa cũ đă hết mà ngân
khoản sửa chữa dành cho tài khóa mới chưa
được chấp thuận, cho nên Hải-Quân
Công-Xưởng Pearl Harbor đề nghị chúng tôi
ở lại thêm ba hoặc bốn ngày nữa. Vậy
là chúng tôi được nghỉ tại Hạ-Uy-Di
một tuần lễ.
Trong thời gian chúng tôi ở Hạ-Uy-Di, cụ Mai
Thọ Truyền, hội trưởng Hội
Phật-Giáo Việt-Nam, có ghé qua trên đường
công du. Chúng tôi mời Cụ tới thăm chiến
hạm và dùng cơm chay. Khi nghe nói lễ trao chiến
hạm tại San Francisco, ngoài vị Tuyên-Úy Công-Giáo
c̣n có một Tu-Sĩ Phật-Giáo tới làm lễ,
Cụ không tán thành, cho rằng việc cầu an cho
chiến hạm, tức là một chiến cụ, không
thích hợp với giáo lư của đạo Phật.
Chúng tôi phải giải thích rằng đây là lễ
cầu an cho thủy thủ đoàn chứ không phải
cho chiến hạm.
Sau bảy ngày xả hơi, chúng tôi rời thiên
đường hạ giới để tiếp tục
hải tŕnh hồi hương với chặng
đường dài nhất. V́ thấy đoạn
đường tương đối dài, tôi phân vân
không biết có nên theo đường trực hành
để tới Guam cho đỡ dài, hay theo đường
tà hành cho giản tiện, nghĩa là cứ theo đúng
một hướng, th́ có lệnh phải đi
chếch lên phía Tây Bắc, tới gần quần đảo
Midway rồi hăy đổi hướng để
trực chỉ Guam. Chỉ thị này được ban
hành có lẽ để chiến hạm tránh xa vùng
thử bom nguyên tử ở phía Nam Midway. May thay, hải
tŕnh này lại rất gần đường trực
hành, cho nên tuy phải đi ṿng mà đường
lại ngắn hơn. (Xin lỗi quư vị không quen
thuộc với khoa hàng hải, v́ phải đọc
những lư luận lẩm cẩm này của dân đi
biển).
Đối với hầu hết chúng tôi, đoạn
đường Hạ-Uy-Di – Guam, mười bảy
ngày, có lẽ là đoạn đường dài
nhất trong cuộc đời lênh đênh của ḿnh.
Nếu Hải-Quân giúp chúng tôi học được
đức kiên nhẫn th́ đây là bài học dài
nhất. Để phá tan sự nhàm chán và buồn
tẻ của cuộc sống hằng ngày, không trông
thấy ǵ khác hơn là chân trời phẳng lặng
bốn phía, ngoài việc trực phiên hải hành và tu
bổ chiến hạm, chúng tôi phải kiếm ra
những việc khác. Hữu ích nhất là việc
học. Các sĩ quan và hạ sĩ quan thâm niên chia nhau
huấn luyện nhân viên về chuyên môn cũng như
văn hóa. Anh văn và toán là hai môn mà nhiều nhân
viên muốn học.
Nhờ sàn tàu rộng, có nhiều tṛ giải trí và
thực phẩm đầy đủ cho nên cuộc
sống cũng dễ chịu. Môn giải trí đặc
biệt có tính cách truyền thống Hải-Quân là
lễ xuyên-nhật-đạo. Chiến hạm vượt
qua đường đổi ngày vào khoảng một
phần ba đoạn đường đi Guam.
(Lịch thêm một ngày khi tàu vượt qua đường
đổi ngày) Trên sàn chính có căng một sợi
giây tượng trưng cho nhật đạo, hai bên
có một số nhân viên hóa trang làm binh cua, lính cá
của Long-Hải Đại-Vương. Nhân viên nào chưa
hề qua đường đổi ngày – bằng tàu
chứ không phải bằng máy bay – sẽ bị đám
binh cua, lính cá xịt nước đầy ḿnh rồi
rắc bột và đẩy cho chui qua giây nhật đạo
giữa tiếng reo ḥ của bạn bè. Sau đó
mỗi người được cấp một
bằng xuyên-nhật-đạo do Long-Hải Đại-Vương
ban. Lễ này có lẽ đă phỏng theo lễ
xuyên-xích-đạo mà Hải-Quân các nước thường
làm.
Đây là những thành tích mà thủy thủ thường
tự hào. Ngoài nhật đạo và xích đạo, người
ta c̣n ghi thành tích khi vượt qua ba mũi đất
cực Nam (tức mũi Hảo-Vọng ở Phi-Châu, mũi
Horn thuộc Nam Mỹ và mũi Tây Nam ở Úc) khi
tới Nam Cực bằng tiềm thủy đỉnh
lặn dưới lớp băng.
Ban hải hành, các sĩ quan trực phiên và tôi có môn
giải trí là hàng hải thiên văn. V́ hải hành xa
bờ và dụng cụ hải hành điện tử hơi
thô sơ, chúng tôi tin vào hải hành bằng tinh tú hơn.
Hằng ngày, đều đặn như một nghi
lễ, chúng tôi định vị trí rạng đông,
vị trí mặt trời, vị trí hoàng hôn và một
đôi khi vị trí đêm bằng mặt trăng.
Làm điểm rạng đông và hoàng hôn tương
đối chính xác nhất và cũng thơ mộng
nhất; v́ đây là lúc chúng tôi đo và ngắm trăng
sao. Các nhà thiên văn quan sát tinh tú bằng con mắt
khoa học; các văn nhân, thi sĩ ngắm sao bằng
con mắt lăng mạn; dân hải hồ nh́n trăng sao
bằng cả hai con mắt đó. Chúng tôi dùng kính
lục phân để đo cao độ tinh tú, rồi
tính toán và kẻ đường vị trí, trong khi
đó vẫn mơ ước lấy được
“ngàn sao trên trời, kết thành chuỗi ngọc em
đeo”. Khi t́m sao trời trong các nhóm Tiểu-Hùng-Tinh,
Song-Nam, Nam-Tào hay các hành tinh, để đo cao độ,
chúng tôi thường nghĩ đến cuốn Les
Lettres de Mon Moulin với chú mục đồng thả
hồn lên bầu trời lấp lánh sao đêm…
Chúng tôi nh́n vết bọt trắng sau lái tàu để
phỏng tính độ giạt và cũng tưởng tượng
đó là những bông hoa biển nở sau gót con tàu. Người
thủy thủ không lấy mộng làm thực, hoặc
lấy thực làm mộng, nhưng trong tâm trí họ,
thực và mộng đă giao duyên với nhau.
Một môn giải trí khác được chúng tôi
thực tập vài ba ngày một lần là nhiệm
sở tác chiến, nhiệm sở pḥng tai – cứu
hỏa, cứu thương, cứu thủy – nhiệm
sở đào thoát, v. v… Đây vừa là nhu cầu an
ninh vừa là một cách làm cho đời sống
hằng ngày trên chiến hạm bớt đơn điệu.
Cũng để tránh đơn điệu, chúng tôi
luôn luôn thay đổi đề tài thực tập và
thay đổi giờ tập.
Một tṛ tiêu khiển khá phổ thông là đem quà mua
được ra ngắm nghía và khoe nhau. Nhiều người
cho rằng thủy thủ sống đời giang hồ
nên ít chung t́nh. Thật là oan Thị Kính! Cứ nh́n
mấy chàng lính biển nâng niu mấy hộp phấn
son, quần áo, kể cả…đồ lót nữa,
mới thầy rằng “càng đi xa anh càng nhớ
em”. Các thủy thủ “bố trẻ con” th́ say sưa
chơi thử đồ chơi mua về cho con, say sưa
đến độ không biết bố khoái hơn hay
con khoái hơn!
Nhờ những tṛ giải trí vừa kể, chúng tôi
đă vượt qua đoạn đường dài
nhất mà không cảm thấy buồn chán. Thời
tiết tốt đều, biển khá đẹp,
xứng đáng với tên Thái-B́nh-Dương,
khiến cho chuyến đi này khá hứng thú.
Khi gần tới Guam, thời tiết trở nên
xấu. Đây là lúc cần định vị trí thiên
văn hơn hết để đáp bờ cho chính xác
th́ mây mù đă đuổi trăng sao và mặt
trời đi chơi chỗ khác. Mưa rào khắp nơi
khiến màn ảnh radar trắng xóa, không c̣n thấy
bờ đâu nữa. Hải tŕnh như vậy vào ban
đêm, giữa vùng biển lạ, nhiều đảo
nhỏ - quần đảo Mariana - và ḍng nước
chảy mạnh, quả là vất vả. Kể ra, chúng
tôi có thể chạy chậm lại để chờ
sáng mới bắt đầu đáp bờ cũng
được, nhưng coi bộ ai cũng nóng ḷng
tới bến sau một chặng đường khá
dài, nên đành chịu khó vận dụng hết kinh
nghiệm hải hành chính xác để tiến tới
Guam ngay trong đêm đó.
Sáng sớm, khi tàu tới ngoại cảnh th́ trời
đẹp trở lại. Ở đây hải đồ
nội cảng được bỏ trắng v́ lư do an
ninh.
Khi chiến hạm cặp bến, một đoàn
trẻ em thuộc gia đ́nh Hải-Quân Mỹ đón
tiếp chúng tôi bằng những chuỗi hoa đeo
cổ (lei) và các vũ điệu Hạ-Uy-Di. Họ
đón tiếp nồng hậu và đưa chúng tôi
đi xem thắng cảnh. Đáng kể nhất là
Trung-Tâm Kiểm-Báo miền Tây Thái-B́nh-Dương.
Trung tâm này được đặt tại đây v́
vùng này là nơi xuất phát của hầu hết các
trận băo tiến về phía Phi-Luật-Tân,
Việt-Nam, Trung-Hoa hoặc Nhật-Bản. Nhờ có phương
tiện đầy đủ như máy bay, đài radar,
hệ thống liên lạc với các đài khí tượng,
v .v…Trung tâm phát giác các trận băo mới phát sinh,
đặt tên cho chúng, theo dơi, tiên đoán hướng
đi, tốc độ và thông báo cho các quốc gia và
tàu bè chạy trong vùng. Chính những bản tin khí tượng
này đă bảo vệ Hải-Quân chúng ta hằng năm
trong mùa băo. Cuộc thăm viếng này được
chúng tôi chú tâm đặc biệt, v́ đoạn
đường sắp tới nằm trong vùng băo và
mùa băo cũng bắt đầu. Chúng tôi đă học
hỏi khá nhiều về những trận băo giết
người này.
Sau ba ngay nghỉ bến, chúng tôi đến Guam với
thời tiết đẹp. Nhưng chỉ nửa ngày
sau đă được báo tin có một trận băo
phát sinh ở phía trước chúng tôi và được
khuyến cáo chạy chậm lại một chút để
tránh biển xấu. Chính trận băo này đă tàn phá
miền Trung Phi-Luật-Tân trước khi chúng tôi
tới. Mới chạy chậm được hơn
một ngày th́ lại có tin một trận băo khác
mới ra đời và theo sau gót chiến hạm. Chúng
tôi phải tăng vận tốc để giữ
khoảng cách giữa hai trận băo. Sau khi được
nghe giảng dẫn tường tận về các
trận băo nhiệt đới tại Trung-Tâm
Kiểm-Báo với tất cả những ǵ đáng
sợ về chúng, để rồi đi vào vùng này,
chúng tôi có cảm tưởng như đi đêm vào
nghĩa địa sau khi nghe kể chuyện ma! Và bây
giờ lại có hai con ma kèm sandwich chúng tôi nữa. Tuy
nhiên đây chưa phải là điều đáng
sợ. Điều mà chúng tôi e ngại nhất là khi
chui qua eo San Benardino để vào nội hải
Phi-Luật-Tân mà con ma sau đuổi kịp và con ma trước
nằm chềnh ềnh gần đó th́ hết lối
chạy.
Cũng may, khi chúng tôi tới gần Phi-Luật-Tân th́
trận băo trước đă tan, c̣n trận băo sau
đă bye bye, chạy ṿng lên hướng Bắc. Nh́n
vết tàn phá của trận băo trước tại
Phi, với nhiều tàu bè bị đưa lên cạn
hoặc nhận ch́m, mới thấy hú vía.
Chiến hạm ghé Subic Bay ba ngày trước khi về
Saigon. Đây là chuyến tàu vét cho những ai c̣n
nặng nợ với Navy Exchange, cũng như đối
với ban tiếp liệu của chiến hạm v́
đây là căn cứ tiếp liệu cuối cùng
của Hải-Quân Mỹ trước khi chúng tôi
hồi hương.
Đoạn đường chót của hải tŕnh
hồi hương cũng là đoạn đường
ngắn nhất. Tại Subic cũng như trên đoạn
đường này chúng tôi phải làm sạch sẽ
trong ngoài và sơn phết lại chiến hạm để
về Saigon với bộ mặt bảnh bao hơn. Tuy
là đoạn đường ngắn nhất nhưng
ai nấy đều có vẻ nóng ḷng, hồi hộp
chờ mong ngày tới quê nhà, để mọi người
khỏi sốt ruột, anh Du, trưởng ban hải
hành hằng ngày thông báo cho mọi người qua
hệ thống phóng thanh các chi tiết về vị
trí, khoảng đường c̣n lại và ngày giờ
phỏng định đến bến. Khi anh báo
rằng sắp trông thấy bờ biển Việt-Nam
vùng Phan-Thiết, mọi người đều đổ
lên sàn chính để canh. Khi mới trông thấy
bờ ai nấy đều reo ḥ. Có lẽ ngày xưa,
khi Columbus thấy Châu-Mỹ, thủy thủ đoàn cũng
chỉ mừng đến thế là cùng!
V́ lư do kỹ thuật và thời tiết, chiến
hạm về đến Saigon trễ hơn giờ
dự trù chừng bốn tiếng, khi cập cầu
trời đă tối. Ḍng nước không thuận
tiện, mà trong ḷng lại hồi hộp khi thấy
thân nhân nóng ḷng chờ đợi trên bờ, chúng tôi
cảm thấy khá vất vả. Tuy nhiên trong ḷng ai cũng
vui, và người vui nhất có lẽ là tôi, v́ đă
trở về sau hơn một năm rưỡi xa nhà.
Hải tŕnh dài nhất trong cuộc đời binh
nghiệp của chúng tôi chấm dứt với hồi
c̣i giải tán nhiệm sở vận chuyển. Tính ra
chiến hạm đă vượt qua khoảng chín ngàn
hải lư, trong 52 ngày, xuyên qua đại dương
lớn nhất, sâu nhất và cũng … thiên đàn
nhất. Nhưng đối với tôi, cái
nhất…nhất là thủy thủ đoàn và
bộ-tham-mưu chiến hạm. Đó là niềm hănh
diện của tôi trong suốt thời gian nhận lănh
chiến hạm, huấn luyện và hoạt động
với Hải-Quân Hoa-Kỳ. Tinh thần trách nhiệm
và cầu tiến của nhân viên chiến hạm đă
khiến toán huấn luyện Hải-Quân Hoa-Kỳ
phải nể v́. Trước khi chia tay tại San Diego,
vị sĩ quan trưởng toán huấn luyện lưu
động đă nói với tôi: “Ông có thể tự
hào là đă có một thủy thủ đoàn học
hỏi nhanh và thực hành rất đúng. Thú thật
với ông, khi tôi mới gặp họ ở San Francisco,
tôi không ngờ là họ lại có thể đạt
được kết quả huấn luyện tốt
đẹp như vậy.”
Lời khen trên được nhắc lại để
riêng tặng tất cả nhân viên đă cùng tôi
nhận lănh Dương-Vận-Hạm Cam-Ranh, HQ 500, cách
nay hơn một phần tư thế kỷ. Giờ
đây một số đă vĩnh viễn nằm
xuống, một số c̣n kẹt lại quê nhà, và
số c̣n lại may mắn thoát ra được
hải ngoại. Ước mong chúng ta sớm có ngày
tái ngộ trên quê hương thanh b́nh và tự do để
cùng nhau ôn lại những kỷ niệm vui buồn
trong cuộc đời sông biển.
Hải-Quân Đại-Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh
|