
Tr/Tá Lê Hằng Minh, Tiểu Đoàn Trưởng TĐ2
Trâu Điên TQLC, QLVNCH
Gươm đàn nửa gánh,
Non sông một chèo
(Nguyễn Du)
Đất nước Việt đang thời binh biến,
Tổ quốc lâm nguy, vang dậy núi sông những
lời hiệu triệu anh hào. Khi tôi chưa chào đời
th́ vào giữa năm 1954, theo đoàn người trai
quyết xếp bút nghiên để lên đường
theo tiếng gọi non sông, làm tṛn trách nhiệm người
công dân trong thời quê hương khói lửa. Người
thanh niên tên Lê Hằng Minh đă từ giă người
mẹ hiền, rời bỏ cuộc sống gia đ́nh
ấm êm nơi Hàng Keo - Gia Định, từ giă mái trường
Huỳnh Khương Ninh & Trương Vĩnh Kư sau
khi tốt nghiệp Tú Tài để cùng người anh
Lê Minh Đảo (thiếu tướng Lê Minh Đảo gia
nhập khóa 10 trường Vơ Bị Liên Quân Đà
Lạt, là một trong số những tướng lănh
của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa), lên
đường nhập ngũ. Ông theo học khóa 5 Liên
Trường Vơ Khoa Thủ Đức (Khóa V́ Dân) và sau khi
ra trường vào đầu năm 1955 với cấp
bậc Thiếu Úy Trừ Bị, người chiến sĩ
Lê Hằng Minh đă cùng bao chiến hữu khác ngược
xuôi khắp nẻo đường đất nước,
xông pha vào những trận tuyến ngăn giữ bước
quân thù xâm lăng, hầu mong mang yên vui cho mảnh
đất miền Nam Tự Do thân yêu. Đầu năm
1957, v́ muốn vẫy vùng ngang dọc hơn cho thỏa
chí tang bồng, ông rời khỏi Sư đoàn 4/
Bộ binh dă chiến (sau này là Sư đoàn 7/ BB) để
t́nh nguyện gia nhập Thủy Quân Lục Chiến,
Lực lượng Tổng Trừ Bị ṇng cốt
của Quân đội VNCH và lần lượt đảm
trách các chức vụ: Trưởng Ban 5 TQLC, Trung đội
trưởng (Tiểu đoàn 1), Đại đội trưởng
(Tiểu đoàn yểm trợ), (Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn 4), Chiến đoàn phó (Chiến đoàn
A) và Tiểu đoàn trưởng (Tiểu đoàn 2/
TQLC).
Tham dự nhiều chiến dịch quan trọng cùng
những trận đánh hào hùng trên khắp các mặt
trận chiến trường đất nước
từ: Đồng Xoài, U Minh, Bời Lời, Đầm Dơi,
Bến Cát, Đức Cơ, Plei-me, B́nh Định, Bồng Sơn
- Tam Quan, Quảng Ngăi, Thừa Thiên, Huế, Phù Lưu,
Quảng Trị v.v... Với những thành tích chiến
đấu dũng cảm, Lê Hằng Minh được
thăng cấp Trung úy sau hai năm ra trường và
được gởi đi du học khóa Sĩ quan TQLC
ở Quantico - Hoa Kỳ năm 1959 - 1960. Đầu năm
1959, Lê Hằng Minh đưa Đại đội Trinh Sát
TQLC/ Tân Lập về Sài G̣n tham dự khóa học
Nhảy dù ở Trung tâm Huấn luyện Hoàng Hoa Thám
tại Bà Quẹo. Trong thời gian huấn luyện này,
ông chứng tỏ sự gan dạ và là một cấp
chỉ huy gương mẫu, xứng đáng làm gương
và hướng dẫn quân nhân thuộc quyền noi theo
không nề hiểm nguy. Yêu thích đường bay trên
những nấc thang mây thênh thang của người lính
Nhảy Dù, Lê Hằng Minh luôn hănh diện khi chỉ cho
mọi người xem huy hiệu "Cánh Dù" luôn
gắn trên túi áo ngực mà ông đă đạt
được sau khóa huấn luyện. Trong biến
cố 11/11/60, ông cùng Đại Đội Chiến Đấu/
TQLC về giải vây cuộc đảo chánh Tổng
thống Ngô Đ́nh Diệm. Sau đó, năm 1960 ông
giữ chức vụ Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn Yểm trợ tiếp vận/ Thủy
Quân Lục Chiến. Và rồi nổi trôi theo vận
hạn quốc gia cùng t́nh h́nh đất nước
rối ren, thêm một lần nữa, vị Tiểu
đoàn trưởng Lê Hằng Minh của TĐ4/TQLC
lại là một trong những đơn vị tham gia
cuộc đảo chánh Tổng thống vào ngày 1/11/63.
Những biến cố đất nước cùng
những thăng trầm của cuộc đời binh
nghiệp vẫn không làm mất đi tinh thần
quả cảm của một người chiến sĩ
với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cùng
tinh thần trách nhiệm đối với đồng
bào Tổ quốc, ông vẫn cùng với bao lớp người
thanh niên chiến hữu luôn giữ vững sự cang cường
chiến đấu như ánh thép gươm đao
vẫn lóe sáng mỗi khi lâm trận ngoài địa
đầu giới tuyến. Sau khi tu nghiệp khóa AWS
ở Hoa Kỳ về (1964 - 1965), đầu tháng 11/1965,
Thiếu tá Lê Hằng Minh được bổ
nhiệm làm Tiểu đoàn trưởng TĐ2/ TQLC và tên
tuổi ông đă gắn liền với danh hiệu
"Trâu Điên", một tiểu đoàn lừng danh
của Binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói riêng
và của Quân đội Việt Nam Cộng Ḥa nói chung
từ trận đánh An Quư vào tháng 2/1966 ở Bồng
Sơn - Tam Quan. Từ tư thế bất ngờ bị
phục kích khi tiến chiếm mục tiêu ấp
chiến lược này, dù bị bao vây tứ phía
bởi sự bố trí sẵn bên ngoài lẫn sự pḥng
thủ rất mạnh của VC bên trong, bị bắn
phá nă đạn như mưa vào các toán quân, nhưng
điều đó không làm chùn bước được
của những người lính luôn luôn trong tư
thế chuẩn bị, sẵn sàng xung phong nên ngay
giữa cánh đồng trống, không nơi ẩn
nấp, vị TĐT đă cùng với tất cả các
chiến sĩ lúc ấy vẫn hiên ngang tràn vào và
tiến lên dũng mănh đến nỗi VC phải
khiếp sợ với khí thế hăng như trâu
điên của TĐ2 quyết băng ḿnh phá tan lằn
lửa đạn, dù phải đối chọi với
tử sinh chạm gần trong gang tấc. Kết quả
TĐ2/ TQLC toàn thắng chiếm hẳn được
mục tiêu tuy phải chịu sự tổn thất
vừa chết vừa bị thương mất gần
một trung đội, trong số đó có Trung úy
Nguyễn Ngọc Điệp (khóa 17/ VBĐL) v..v...
Với chiến tích "phản phục kích" vẻ
vang này, Tiểu đoàn do Thiếu tá Lê Hằng Minh
chỉ huy và yêu cầu sự đề đạt danh
hiệu, đă được Bộ tư lệnh TQLC
chấp thuận cho mang danh xưng Trâu Điên (Crazy Buffalo)
biểu tượng sự Cảm Tử, Hi Sinh và Dũng
Mănh. Ngoài ra c̣n được tuyên dương công
trạng trước Quân đội lần thứ tư
và được mang dây biểu trưng màu xanh Quân Công
Bội Tinh. Bắt đầu từ đó, các tiểu
đoàn khác cũng được đặt tên để
có những danh hiệu riêng như: Quái Điểu, Sói
Biển, Ḱnh Ngư, Hắc Long, Thần Ưng, Hùm Xám,
Ó Biển, Mănh Hổ.
Người lính Lê Hằng Minh như chúng ta đă
thấy là một chiến sĩ rất gan ĺ và quả
cảm khi xông pha ngoài mặt trận, bởi ông luôn
đặt trọng trách hi sinh v́ Tổ quốc lên hàng
đầu. Nhưng bên trong con người của ông
lại là một nghệ sĩ giàu cảm tính và nhân
hậu. Ông sinh trưởng trong một gia đ́nh
lễ giáo gồm 10 anh chị em. Người mẹ
đă tần tảo một ḿnh lo bảo bọc các con
khi người Cha đă qua đời năm ông 17
tuổi. Sống và lớn lên từ ngôi nhà cổ kính
giữa vườn cây bóng mát xum xuê nơi Hàng Keo
nằm trên đường Chi Lăng nối dài,
gần chợ Bà Chiểu cạnh đền Lăng Ông
nổi tiếng hiển linh, khói trầm nghi ngút quanh năm
bên mộ Tả quân Lê Văn Duyệt vẫn tỏa sáng
uy linh của bậc trung thần đại nghĩa,
phải chăng đă ảnh hưởng phần nào
đến tâm t́nh con người Lê Hằng Minh từ
thuở nhỏ. Thích sống đời trai oai phong dũng
mănh nhưng cũng là người yêu văn nghệ,
đàn nhạc, thơ văn. Đôi khi cũng rất
ủy mị, ướt át. T́nh cảm của ông cũng
rất dạt dào đối với anh chị em trong gia
đ́nh cùng sự kính trọng, hiếu thảo đối
với bậc sinh thành và nhất là t́nh yêu quê hương
đất nước được thể hiện
rất rơ nét trong những vần thơ mộc mạc
được viết ra từ đáy tâm hồn
thiết tha:
QUÊ TÔI
Thuận Thành đất của Ba
Rạch Kiến quê hương Má
Quê nội quận Cần Đước
Bên ngoại làng Long Ḥa.
Sinh tại miền Gia Định
Việt Nam vạn nẻo đường
V́ sống cuộc đời lính
Tôi có lắm quê hương.
Pleiku xuống Sóc Trăng
An Giang về Vũng Tàu
Nha Trang ra Đà Nẵng
Bến Hải xuôi Cà Mau...
Gia Định đất linh thiêng
Lăng Ông ôi nhiệm màu!
Xa gần đều biết tiếng
Cầu tài lẫn rể, dâu...
Pleiku miền đất đỏ
Thần sống chốn rừng núi
Người Thượng đeo cung, nỏ
Vai mang nặng chiếc gùi
Sóc Trăng thơm ruộng lúa
Những cô gái gốc Miên
Nắng cháy da đen đúa
Đôi mắt thật mơ huyền...
An Giang xứ mắm ruốc
Thánh địa đạo Ḥa Hảo
Câu kinh buồn năo ruột
Thất Sơn huyền bí sao!
Danh lam đất Vũng Tàu
Tuyệt vời ơi Băi Sau
Băi Trước đông du khách
Bể rộng với trời cao
Xứ dân gầy cát trắng
Cô gái miền Nha Trang
Tháp Bà đến cầu Đá
Tóc thề những cô nàng
Vượt qua đèo Hải Vân
Ḷng luống những bâng khuâng!
Thương năo nề Đà Nẵng
Hải cảng của Trung phần
Chia đôi bờ đất nước
Bến Hải thuộc Đế Đô
Xứ Huế ngàn năm trước
Thành Nội lắm nhiều mồ...
Cà Mau là xứ cá
Đỉa nhiều tợ bánh canh!
Muỗi độc ôi nhiều quá!
Cuộc đời thật mỏng manh!
Tŕu mến đất Thần Kinh (Huế)
Sài G̣n sao dễ thương!
Gia Định tôi yêu kính!
Đất Nước là Quê Hương!
(LMH viết vào ngày 25 Tết, Kỷ niệm ngày giỗ
Ba. Kính tặng các bà Mẹ vạn nẻo đường
con đă gặp)
Trên con đường rong ruổi nghiệp binh đao,
ông cũng mang nặng t́nh thương yêu đối
với các chiến hữu, những người cùng chí
hướng lên đường nối gót chinh nhân.
Cuộc đời của những người chấp
nhận Đời Lính Chiến với tất cả
những vui buồn gian khổ:
CÁNH CHIM TRỜI
Anh, tôi và chúng ta
Thuộc đoàn quân thiện chiến
Sinh tử siết t́nh ta
Chiến thắng cùng chia, thù quyết trả!
Những buổi dừng quân nơi thôn lạ
Anh đứng gác,
Anh vá áo,
Anh ngủ say,
Anh nấu nướng,
Máy thu thanh với tuồng cải lương
... muôn thuở!
Tôi viết thư bên ngọn đèn dầu
... ngàn thương!
Các em bé, quây quần bên đàn anh xa lạ
Khẽ vuốt lên ṇng súng: Anh ơi súng tên ǵ?
Cô em gái, rộn ràng, nhà vui quá...
cảm giác lạ!
Bà mẹ già, thương xót đàn con muôn phương
... "ôi tội nghiệp"!
Tay ngoáy trầu liên miên
Những cánh chim trời, mai về đâu
... nào ai biết?
... lại giết giặc
... lại cơm vắt với x́ dầu
... lại lên đường!
(LHM thân tặng các chiến sĩ vô danh không vụ
lợi và để tang cho cố Thiếu tá Nguyễn Văn
Nho và những chiến hữu TĐ4/ TQLC đă hi sinh trong
trận chiến B́nh Giả cuối tháng 12-1964)
Những lời ấy là tất cả những tâm t́nh
của ông trên bước đường hành quân xuôi
ngược đó đây. Qua những trận đánh
ác liệt và sau những tiếng súng, người lính
trẻ lại trở về với những nỗi
niềm cô đơn trăn trở trong những phút giây
nhớ nhung và trống vắng:
Lạc mẹ chim nức nở
Thổn thức chi ve sầu
Khúc nhạc buồn muôn thuở
Cuộc đời là bể dâu...!
Lá vàng rơi rụng măi
Mưa thu dài lê thê
Kiếp sống đầy ngang trái
T́nh yêu đâu chẳng về...?
Và trong những ngày mùa đông rét mướt ở
Washington trong thời gian du học, ông trải rộng
niềm thương nhớ đến người
mẹ hiền và cô em gái út ở quê nhà:
Hoa Tuyết triền miên phủ núi đồi
Nhẹ nhàng rơi măi rụng không thôi
Những cô gái Mỹ hây đôi má
Tuyết phới qua mi, đậu cánh môi
Ngập lối vài xe không chạy nổi
Trẻ thơ "đấu tuyết" ném liên
hồi
Lăo bà run rẩy lê thê bước
Bóng dáng thanh gầy giống Mẹ tôi!
(Tặng em Ánh Tuyết. Ghi một ngày nhớ má 15/1/65.
Mùa đông Washington. LHM)
Cuộc sống ông cũng rất chí t́nh gắn bó
với bạn bè đồng đội:
Nhớ Soạn, thương Thông, lại mến Tâm*
Dakbla than văn gió th́ thầm
Đêm đông gối súng, sương nhiều quá!
Dế khóc đêm dài... tôi lặng câm!
(LHM. Kontum - Dakbla ngày 14/12/65. Một đêm nhớ
Soạn và trước khi đi hành quân. * Thiếu tá Tôn
Thất Soạn, Thiếu tá Hoàng Tích Thông và Trung úy Tâm).
Và người thanh niên ấy cũng có những phút giây
mơ mộng say đắm về t́nh yêu:
Em là... ly rượu đắng
Đốt cháy con tim này
Em là... hoa tư tưởng
Khiến ḷng anh vấn vương
Em là nàng chim én
Mang mùa xuân nhớ thương...!
Hoặc thương nhớ về những h́nh bóng xa xôi
nơi đất lành ông đă đi qua:
Phong Dinh có bến Ninh Kiều
Có ḍng sông đẹp với nhiều giai nhân
Cuộc đời luống những phù vân
Trở về chốn cũ cố nhân xa rồi!
Thân em như cánh hoa trôi
Thương em như cánh chim trời bơ vơ
Yêu em lỡ cả cuộc đời
Nhớ thương chỉ gởi mây trời từ
đây...
(Bài thơ "Về Phong Dinh" của LHM đă
được nghệ sĩ Hồ Điệp diễn ngâm
trong chương tŕnh Thi Văn Tao Đàn năm 1966).
Cuộc đời gian khổ của người lính
chiến rày đây mai đó, luôn cận kề bên
những sống chết hiểm nguy, làm sao dám nghĩ
đến chuyện t́nh yêu và mộng ước mai
sau. Nhưng t́nh cảm đó vẫn không thể
thiếu trong trái tim người lính trẻ, vẫn có
những nỗi niềm u ẩn, vấn vương,
mộng mơ và nhung nhớ...
NGƯỜI EM GÁI DAKBLA
Dừng quân nhặt cánh hoa hồng
Nhớ người em gái trên ḍng Dakbla
Xuân sang rồi đến đông tàn
Quan san cách trở đôi đàng ngàn thương
Tôi đi chinh chiến muôn phương
Môi em vẫn mọng vẫn hường ấy chăng?
V́ tôi là lính áo rằn
Ra đi nào biết mấy trăng mới về!
Bởi v́ em quư hoa hồng
Nên trời bắt phải chờ trông
V́ hồng nhiều gai lắm
Hợp rồi vẫn là không
Kontum mấy dặm sơn khê
Lều khuya rét mướt gió về chơi vơi
Nhớ em đếm tiếng sương rơi
Sương bao nhiêu giọt buồn ơi là buồn...

Ngoài
sự yêu thích thơ văn, ông c̣n là người
rất tài hoa về âm nhạc. Học đàn năm 12
tuổi, ông đánh thành thạo tất cả các
loại đàn dây và điêu luyện nhất là Tây Ban
Cầm với những nhạc khúc cổ điển Tây
Ban Nha. Trong thời gian c̣n đi học, ông thường
đệm đàn cho ban nhạc của trường
Petrus Kư, ban Khuyến nhạc của Đài phát thanh Pháp Á
và ban nhạc Đồng Nai (đàn và hát chung với người
anh là Lê Minh Đảo và người em gái kế là
Mộng Huyền, một chi tiết nhỏ để nói
lên con người hiền lành hiếu thảo của
ông là dù mê đánh đàn ca hát tới đâu, xong
việc là ông lo sớm về nhà để phụ giúp
mẹ việc nhà và săn sóc các em).
Qua hai lần sang Mỹ tu học, ông cũng trau dồi
thêm về kiến thức âm nhạc với các danh tài
ngoại quốc và đă sáng tác một số ca khúc
như: Hoa cài trên súng (1959), Bơ vơ (1960), Người
anh chinh chiến (1964), Em là mùa thu (1965), Sao buồn (1966)
v.v... Có lẽ, Lê Hằng Minh cũng là người lính
duy nhất, dù ở hậu cứ hay bất cứ
tuyến đầu trận địa nào, đi đâu
cũng mang theo bên ḿnh cây đàn Guitaire yêu quư, hễ có
dịp dừng quân hay nghỉ ngơi là ông lại ôm
đàn thay cho tay súng, đánh lên những tiếng đàn
du dương trầm bổng cùng những ca khúc
tuyệt vời cho bạn bè binh lính thưởng
thức, tạm quên những gian khổ quân hành, vơi
bớt nỗi nhớ nhà, cô đơn. Ông luôn lấy
sự hào hiệp, tử tế vui vẻ của ḿnh
để đối đăi và cư xử với
mọi người chung quanh. Trong chỉ huy, ông nguyên
tắc mực thước, sống đời thường
lại nhân ái giản dị nên ông được
hầu hết các bạn bè chiến hữu dành cho t́nh
cảm thương mến tốt đẹp.
Trong bài viết những cảm nghĩ về một
vị chỉ huy khả kính của ḿnh (ĐSST), Thiếu
tá Lâm Tài Thạnh đă viết đôi ḍng hồi tưởng
như sau: Trong những ngày cuối năm 1965 về dưỡng
quân tại hậu cứ Thủ Đức (Tam Hà), hôm
đó là một buổi chiều thứ bảy, tôi và
Quang chẳng biết làm ǵ cho qua "chiều cuối
tuần cạn túi" trong pḥng ngủ độc thân
v́ cả hai nguyên quán đều ở xa, bà con họ hàng
ở Sài G̣n cũng chẳng mấy thân thích gần gũi,
c̣n em gái hậu phương th́ cũng chẳng quen
biết nhiều với lại điều kiện "đầu
tiên" bó buộc. Thôi th́ nằm nhà cho ăn chắc
mặc bền. Chúng tôi mang quân dụng ra lau chùi đánh
bóng để qua thời giờ giữa buổi trưa
quá tĩnh lặng, bỗng nghe vang lên tiếng Tây Ban
Cầm réo rắt với bản Panama (Cánh buồm xa
xứ) khi th́ như sóng vỗ lúc chẳng khác cơn
gió heo may. Tôi nói nhỏ với Quang: "Ông cũng
ở nhà như ḿnh", Quang trả lời: "Ông chưa
có lập gia đ́nh" rồi chúng tôi lại
tiếp tục công việc c̣n dang dở. Khoảng 30 phút
sau, tiếng đàn ngưng hẳn và vào lúc chúng tôi không
chuẩn bị để chào kính th́: "Chiều
thứ bảy mà không đi bát phố à? Sĩ quan
trẻ mà nằm nhà, dở vậy??". Chúng tôi lúng
túng chào tay và cùng trả lời: "Tiền lính tính
liền thưa Th/T, với lại chả biết đi
đâu". Ngắn gọn, dứt khoát như khi ban
lệnh hành quân: "Mặc quân phục vào, đi
với tôi ra hồ tắm "Ngọc Thủy"
uống nước giải khát". Năm phút sau, chúng
tôi đă có mặt trên xe do chính Tiểu đoàn trưởng
làm tài xế với tôi ngồi kế bên (Quang là khóa
đàn em nên cố t́nh nhường tôi ngồi trước
với Đại Bàng hoặc v́ e ngại sơ suất
khi nói chuyện nên bán cái cho tôi??). Trước khi
rời trại, người c̣n nói nhỏ: "Ḿnh
đi gần đây khỏi gọi HS Danh (tài xế) làm
chi, cho chú ta ở nhà với vợ con". Trong tự
nhiên đối xử như một người anh
cả trong gia đ́nh sau khi gọi nước uống
cho chúng tôi, NT Minh hỏi thăm về nguyên quán, gia
đ́nh, học vấn, quân trường v.v... Từ dè
dặt, ngần ngại như lệ thường
của bất cứ một Sĩ quan cấp trung đội
trưởng nào khi phải trực tiếp tiếp xúc
với Đơn vị trưởng ở cấp cao mà thường
khi "chạm mặt" th́ chỉ có "Từ
chết tới bị thương", chúng tôi đă
vui vẻ trao đổi trả lời các câu hỏi.
Dần đà câu chuyện trở nên thân t́nh có tính cách
đời thường thực tế và tươi mát
hơn. Trước khi ra về, tôi c̣n nhớ rơ: "Các
sĩ quan trẻ nhiều năng nổ, chịu khó,
kỷ luật, ham học hỏi là xương sống
và ch́a khóa thành công của đơn vị. Các em
cố gắng nhé, thôi ḿnh về". Lời nói chân t́nh,
tha thiết có giá trị động viên cao của
cố Niên trưởng Lê Hằng Minh đă làm cho tôi
và Quang thực sự xúc động và cảm mến
vị chỉ huy đầy đức độ, nghiêm
nhưng không "quan liêu", oai nhưng không
"khắc nghiệt".. Gần 10 năm sau có
lần tôi đă lặp lại câu nói đó của người
cùng toàn thể Sĩ quan TĐ 9 trong ngày tôi nhận
chức vụ TĐT.
Nơi hậu cứ Thủ Đức - Tam Hà là nơi
Tiểu Đoàn 2/ TQLC thường về đây dưỡng
quân, sau này c̣n được gọi là hậu cứ Lê
Hằng Minh sau năm 1966.
Trở lại với người chiến sĩ Lê
Hằng Minh, khi chiến trường miền Trung càng lúc
càng sôi động th́ Tiểu đoàn 2/ TQLC cùng
những đơn vị bạn càng đi sâu vào
những gian lao chiến đấu với tất cả
mọi căng thẳng hiểm nguy ŕnh rập từng
phút từng giây. Từ đầu mùa hè năm 1966,
họ phải điều động và tham dự
nhiều trận hành quân liên tiếp suốt ba tháng không
ngày về thăm nhà, nghỉ phép. Đánh B́nh Định,
Quế Sơn vừa xong, lại bay vào Quảng Ngăi,
rồi về Đà Nẵng, Huế...
Ngày Quân lực Việt Nam Cộng Ḥa được chính
thức thành lập và công bố là ngày 19 tháng 6 năm
1966. Để tưởng thưởng những phần
tử ưu tú có công trong sứ mạng diệt
Cộng tại tiền tuyến, một số cấp
chỉ huy đơn vị chiến đấu được
thăng cấp đặc cách tại mặt trận vào
ngày lễ trọng đại này, trong đó có
thiếu tá Lê Hằng Minh. Vừa được thăng
cấp Trung tá vào ngày 19/6/66, Lê Hằng Minh đă cùng
Tiểu đoàn 2 và một số đơn vị tác
chiến khác lại lao vào mặt trận Lam Sơn 283
ở Gia Đặng - Phù Lưu (21/6 đến 23/6),
tiếp thêm những trận thắng vẻ vang với
sự chiến đấu rất gan ĺ dũng cảm
của họ. Trong một bài phóng sự, kư giả Dzoăn
B́nh đă viết về chuyến gặp gỡ bất
ngờ với Tr/T LHM như sau: "Chúng tôi ghi vào
sổ tay và tự nhủ sẽ khai thác về cái
chết oai hùng của Thiếu úy Bằng, Đại đội
3 thuộc TĐ Trâu Điên. Hỏi về sự anh dũng
của đại úy Sứ, tung hoành đè bẹp VC
bằng đoàn Cọp Bay M-113. Và ḷng tự nhủ
sẽ phải "vớ" được con người
chỉ huy Trâu Điên mà khi nói về cá nhân xuất
sắc, phần đông đă khuyên chúng tôi nên đi t́m
hai ông Trung tá Lê Hằng Minh và Tôn Thất Soạn.
Họ nói: "Hai ông này mới có 31 tuổi nhưng
đánh đấm ĺ lợm "ch́" lắm. Cả
hai đều là Cọp Biển. Trận Phù Lưu - Gia
Đặng, cả hai đều đứng khơi khơi
đánh xung phong như đi biểu diễn".
Thế rồi, chiều 24/6/66, Huế... buồn xa
vắng, mưa lất phất... như trời khóc
sụt sùi. Chúng tôi đi "lô ca chân" tạt vào
văn pḥng triển lăm ngó anh em đang bầy biện
SKZ và súng Nga vừa thu được. Th́nh ĺnh, chúng tôi
đụng đầu với hai ông quan Cọp Biển.
Nh́n vào ngực thấy cái lon bạc trắng, chẳng
rơ là cấp ǵ. Ngó lên nón "bê rê" thấy hai cái
bông bạc: cấp Trung tá.
- Ủa! Sao hai ông Trung tá này trẻ quá. Nếu
phỏng đoán bạo lắm cũng chỉ nghĩ
họ tới 26 tuổi là cùng.
Dù Trung tá Minh để râu mép, nhưng nét mặt tràn
đầy nhựa sống, hồn nhiên yêu đời
của họ đă giúp chúng tôi mạnh dạn làm
quen. Sau màn tự giới thiệu, chúng tôi cùng bước
vào một quán nước bên đường tṛ
chuyện. Trung tá Soạn giơ tay giới thiệu:
"Đây, kể về trận đánh ác liệt
tại Phù Lưu, tôi xin nhường lời lại cho
Tr/T Minh". Cho đến phút này, con người mang tên
Minh mới bắt đầu lên tiếng. Ông cao
giỏi lắm là một thước 55, nặng lối
47 kư là tối đa. Khuôn mặt nhỏ nhắn,
mắt hơi ốc nhồi, miệng cười
rất có duyên, nhờ điểm thêm bộ râu mép
đă làm tăng thêm vẻ "bô trai" của Tr/T
họ Lê. Nh́n ông có thể nhận ra ngay qua h́nh
ảnh của người anh ruột là Thiếu tá Lê
Minh Đảo ở pḥng 3 của QĐ 4. Hai anh em Minh
giống nhau như khuôn đúc.Chúng tôi hỏi:
"Tại sao lại đặt tên là Trâu Điên?".
"V́ tụi tôi hăng và xung phong đánh Cộng như
Trâu Điên, chỉ biết húc tới. Có thể nói chưa
hề "thất" trận nào. Tiểu đoàn 2
TQLC được kể là đơn vị nổi
nhất và đứng đầu sổ về công
trạng".
Ngừng một lát, ông kể tiếp: "Kỳ này
mệt chớ phở, mới đi đánh nhau sơ sơ
gần 3 tháng chưa về Sài G̣n. Khi hành quân "cú"
Lam Sơn 283, tiểu đoàn Trâu Điên mệt - hết
muốn đi - v́ vác nặng gần trọn ngày.
Thế mà tới 5 giờ chiều, khi gần tới
đầu làng Gia Đặng, đơn vị tôi đă
bị dồn cục v́ mới vượt qua cái
cầu. Anh em xúm sát gần nhau. Tôi vội lướt lên
hàng đầu để ra lệnh cho họ trở
về theo cự ly đă định người này cách
người nọ 10 thước. Đi xúm xít bị nó
"đớp" th́ chết cả đám. Ấy
thế rồi, tôi vừa lướt lên đầu th́...
thoáng bắt gặp phía trước cách lối 10 thước,
3 cái đầu vội thụp xuống. Linh cảm
rất bén nhạy, tôi ra dấu cho toán quân tiên phong
nằm ngay xuống, bố trí về phía có địch
vừa phát hiện. Tôi cho nổ một loạt đạn
trung liên vào cái hố có 3 VC, một tên có thượng
liên, hai tên có tiểu liên AK50. Th́ ra chúng là tổ
viễn tiêu. Nếu không kịp phát giác th́ tụi tôi
đă lọt vào ổ quỉ. Bắn loạt đầu,
VC trả lời như pháo Tết, may mà chiến sĩ
Trâu Điên đă nắm chiếm ưu thế và ở
ngoài tuyến bố trí của địch. Suốt ngày
đi "lô ca chân" mệt mỏi phờ người,
thế mà gặp địch, lính lại ḥ hét xung phong
như trâu điên và tất cả quên đói, đánh
địch suốt từ năm giờ chiều cho
đến chín giờ tối. Bọn chúng rút khỏi
trận địa để lại hơn bảy mươi
xác chết. Tiểu đoàn Trâu Điên lại được
lệnh quay về mục tiêu Phù Lưu, cách Gia Đặng
10 cây số. V́ tiểu đoàn 808 VC đêm trước
đă từ Gia Đặng luồn một lèo "lĩnh"
về Phù Lưu. Không thể tưởng tượng
được, liền ba đêm ba ngày đi liên miên.
Đánh nhau tơi bời tới 21-6-66, suốt đêm
đó mắt thao láo nằm vây địch, thế mà sáng
hôm 22-6 lại "tỉnh bơ" đi đuổi
địch về Phù Lưu, lại xung phong đánh
chiếm từng hầm, diệt từng hố, phải
băng suối đánh xáp lá cà với VC suốt
từ 4 giờ chiều đến 2 giờ đêm
mới khóa tắt họng súng địch...".
Sau khi kể những chi tiết hấp dẫn về
trận đánh, Tr/T Minh nhún vai nói tiếp: Từ nay
đến 30/6, cậu chịu khó ra Huế, chúng tôi
sẽ mời cậu đi theo hành quân ngay từ lúc
mới mở màn, có thế mới viết kỹ và
sống động hơn là đánh đấm xong
từ khuya rồi mới ḷ ḍ ra viết theo kiểu
"nghe đồn rằng...". Tr/T Minh hẹn sẽ
khao chúng tôi một chầu khi tái ngộ tại Thanh
Thế khi về tới Sài G̣n. Chúng tôi chia tay hai ông Tá
và về Sài G̣n viết loạt bài phóng sự, đặc
biệt viết thêm chuyện về Lê Hằng Minh trên
Nhật báo Sống. Chúng tôi chân thành viết v́ yêu
mến người chiến sĩ Cọp Biển, đánh
giặc hay như chơi đàn. Ra trận đánh nhau
bằng súng đạn, xong rồi lại... thản nhiên
gảy đàn vui nhộn trước ba quân. Dù đă
31 cái xuân xanh mà... Trung Tá Minh vẫn cô độc. Ông
vui với đời Cọp Biển và chịu ế
vợ có lẽ v́... tự linh cảm thấy ngày mai...
của đời chiến sĩ, thuộc đơn
vị đă lẫy lừng danh tiếng về tài xung
phong diệt địch... 'Bài phóng sự chiến trường
của Dzoăn B́nh".
Từ trận chiến thắng Lam Sơn vang dội này,
báo chí từ Sài G̣n bay ra mặt trận quan sát và
phỏng vấn Tr/Tá Lê Hằng Minh. Buổi lễ
chiến thắng được tổ chức trọng
thể tại Huế. Ṿng hoa chiến thắng và huy chương
lại một lần nữa ngập trên vai người
anh hùng mũ xanh, chỉ huy tiểu đoàn Trâu Điên.
Từ Huế, những cánh quân chia ra để xuôi Nam
ngược Bắc. TĐ1 (Th/T Phan Văn Thắng) theo
Chiến đoàn B (Tr/T Tôn Thất Soạn) di chuyển vào
Quảng Ngăi. TĐ2 ở lại An Ḥa (phía Bắc thành
phố Huế) để nhận tăng phái cho SĐ1/ BB
với đoàn quân xa GMC nằm chờ từ chiều
ngày 28/6/66 để chuẩn bị di chuyển vào sáng
sớm hôm sau.
Sau đây xin được trích phần tường
thuật ngắn của vị Đại úy cố vấn
thuộc TĐ2/ TQLC là Thomas E. Campbell về những
diễn biến của trận đánh: 27 xe GMC, khởi
hành từ An Ḥa lúc 7 giờ 30 sáng ngày 29/6 với 573
TQLC. Khi đoàn xe cách Huế khoảng 30 cây số và c̣n
20 cây số th́ đến Quảng Trị theo Quốc
lộ số 1, lúc này vào khoảng 8 giờ 30 sáng, di
chuyển với tốc độ khoảng 30 - 35 KPH. Hai
xe bị bắn bởi đạn 75 ly và bị cháy
phải tấp vào lề đường, từ đồi
ở phía Tây bắn ra với khoảng cách 400 mét. Đoàn
xe phải ngừng lại, Trung tá Minh ra lệnh cho
Bộ chỉ huy/ TĐ di chuyển đến gần
đường xe lửa cách lộ khoảng 60 - 75 mét.
Việt Cộng từ đường rầy bắn ra
rất mạnh. Sau một lúc giao chiến, ông Minh
bị thương bởi hai viên đạn trúng
ngực. Tôi thấy ông bị thương nặng.
Một quả lựu đạn nổ làm tôi bị thương
vào tay, cổ nhưng nhẹ. Khi tôi trở lại
chỗ Trung tá Minh th́ thấy ông đă chết, có
lẽ v́ trúng miểng lựu đạn vào đầu".
Tiếp theo xin được trích lại bài viết
của kư giả Dzoăn B́nh đăng trên Nhật báo
Sống về "Trận phản kích tuyệt vời
cuối cùng của Trung tá Lê Hằng Minh" sau đây:
"Theo đúng lời hẹn, chúng tôi ra Huế đúng
ngày 29/6/66. Đến Phú Bài lúc 15 giờ chiều, gặp
loáng thoáng một đoàn quân nhạc có sĩ quan
Cọp Biển đứng chỉ huy. Bên cạnh, có
chiếc phi cơ ở phía sau, chúng tôi thấy một
quan tài phủ Quốc kỳ. Cũng như lần trước,
khi xuống sân bay, chúng tôi cũng gặp cảnh tương
tự. V́ thế, ḷng chỉ thấy buồn lâng lâng...
tay cầm tờ báo Sống, bụng nóng ruột mong téléphone
gọi Tr/T Minh để khoe bài báo viết về khí phách
của Trâu Điên và Tiểu đoàn trưởng Trâu Điên.
Nhưng... chúng tôi giật ḿnh khi có tiếng la của
một Trung sĩ ra lệnh:
- Này, trung đội 2 sửa soạn chào quan tài Trung Tá.Các
tiếng x́ xào tự nhiên lọt vào tai tôi:- Tiểu
đoàn Trâu Điên vừa đánh bại trận phục
kích kinh khủng của VC ở quốc lộ 1.Chúng tôi
lật đật vớ lấy người nói câu này
rồi hỏi hấp tấp:- Có ai chết không?- Có,
Trung tá Tiểu đoàn trưởng chết rồi!- Có
phải Trung tá Minh không?
Không đợi trả lời, chúng tôi chạy như
bay ra phía có chiếc quan tài và... quả đă rơ ràng -
đúng là vị trí cuối cùng của Trung tá Lê
Hằng Minh. Dường như... chúng tôi có chảy nước
mắt trong phút giây đó. Cái sự khóc xảy ra
thật kỳ dị. Tôi không có ư thức về cái khóc
bất thần này. Nhưng... đó là điều
ở trong đáy ḷng tôi. Cảm thấy bồn
chồn, tự nhiên tôi thấy tất cả đều
phi lư và trong giây phút như mê ấy, tôi vẫn chưa
định thần để nhớ cho kỹ lại,
liệu ḿnh đang làm ǵ? đang ở đâu? và có
chuyện chi đang xảy tới. Cảm giác nghẹn
ngào xâm chiếm và đè nặng trĩu. Tôi bùi ngùi nói
bâng quơ như khấn vái: "Trung tá Minh ơi! Tôi
viết bài đề cao tiểu đoàn Trâu Điên và
viết về Trung tá đây này". Tôi trịnh
trọng trải tờ báo lên nắp quan tài và lấy
cái nón bê rê xanh đè chặn lên cho gió khỏi bay. Tôi
tưởng như Lê Hằng Minh đang tủm tỉm
cười với tôi, một nụ cười ma quái
xuyên qua nắp chiếc áo quan... vô lư ấy.
Ḷng không định mà tôi đột nhiên đứng
nghiêm rất thẳng người để chào anh
lần cuối, nước mắt lại ứa ra. Tôi
khấn vái lần nữa: "Anh Minh hăy phù hộ cho tôi
có nhiều cơ hội đi với các bạn đồng
đội của anh, để viết thật
nhiều, viết thật đều, để cho
triệu người ở phần đất này thông
cảm được sự gian khổ của những
người lính chiến hôm qua c̣n đây, hôm nay đă
ra người thiên cổ. Có trông thấy cảnh này
mới thương đến người chiến
binh".
Tôi cố tưởng tượng và h́nh dung lại con
người anh rồi đột ngột hỏi thăm
một Tr/Úy Cọp Biển đứng gác quan tài
rằng: "Trung Tá bị... vào đâu?". Chẳng
hiểu tôi là cái "thống chế" ǵ mà hỏi
dồn dập và hơi có vẻ "vô lễ" như
vậy, người sĩ quan lắc đầu đáp
giọng bùi ngùi: "Ông bị hai phát vào ngực.
Tụi nó c̣n quất thêm một tạc đạn,
miểng tạc đạn phá bể sọ". Tôi rùng
ḿnh liên tưởng đến phút giao tranh ác liệt,
Tr/Tá Lê Hằng Minh tả xung hữu đột giữa
đám cuồng tín như thú dữ. Ông đă bắn
đến viên đạn chót và đă gục ngă anh dũng
như tất cả các chiến sĩ Cọp Biển
từng hi sinh tô thắm cho lá cờ binh chủng, ngày
thêm nổi bật truyền thống oai hùng của
đoàn quân Cọp Biển".
Nói Về Một Người Chết là những
cảm xúc của nghệ sĩ Tô Kiều Ngân trong bài
tạp ghi đăng trên báo năm 1966: "Đêm văn
nghệ đă tàn, anh em TQLC dừng quân tại Kontum
tỏ ra hả hê, thoải mái với một chương
tŕnh ca vũ hào hứng. Trong ánh sáng mờ mờ, chen
giữa những tiếng nhạc dặt d́u, bỗng
xuất hiện một người: mắt to, tóc
ngắn, quần áo cọp biển, chiếc lon Thiếu
tá gắn nơi ngực, bộ râu mép rất xanh, ông
ta tới gần ban nhạc, cầm lấy cây lục
huyền cầm. H́nh ảnh đó chẳng có ǵ đẹp,
v́ dáng dấp, quần áo của con người đó
đi kèm với chiếc đàn lục huyền quả
thật là một cuộc hôn phối không cân xứng.
Nhưng tôi giật ḿnh, trước mắt tôi bỗng
hiện ra một chân trời chói chang nắng vàng,
rồi tiếng hát của bọn du mục giang hồ,
những trái cam mọng đỏ, gió của sa mạc,
rồi những cuộc đấu ḅ rừng, tiếng
castagnettes reo đều trong tay cô gái Tây Ban Nha quay đều
lả lướt.
Mọi người đều ngồi im, hướng
về người chiến sĩ đang đàn kia. Đầu
anh hơi cúi thấp, đôi mắt anh ban năy to và sáng,
bây giờ bỗng trở nên dịu hiền. Anh như
không chú ư đến mọi người, năm ngón tay
lướt trên cần đàn, năm ngón kia búng vào sáu
dây gợi lên những tiếng sóng vỗ, mưa sa.
Thật là "thế gian bất hiểu tài hoa khách".
Đất Kontum giá lạnh, heo hút này đă mang đến
cho tôi một bất ngờ. Sau đêm đó, tôi
biết anh ta là Hằng Minh, Thiếu tá Lê Hằng Minh,
Chiến đoàn phó Chiến đoàn A/ TQLC.
Trở về Sài G̣n, tôi gửi sách lên tặng Minh,
Minh viết thư về cho tôi nói rằng rất
nhớ "tiếng sáo ru hồn" và Minh gởi cho tôi
mấy bản nhạc để tŕnh bày ở Đài Phát
Thanh. Yêu cầu đó đă được đáp
ứng. Một chiều hành quân nào đó, Minh đă
được nghe vọng ra tiền tuyến tiếng hát
của Mai Hương tŕnh bày bài nhạc của anh.
Ít lâu sau, tôi được tin Minh đi đánh
giặc ở Bồng Sơn, Phú Yên rồi mới đây,
tôi gặp Minh ở Đà Nẵng trong những ngày khó khăn
nhất của t́nh h́nh đất nước. Vẫn
mớ tóc ngắn, đôi mắt to, bộ râu mép xanh ŕ,
nụ cười hiền hậu. Th́ ra Cọp biển
bơi hoài, nay Kontum, mai Bồng Sơn, ngày kia đă
dạt ra Đà Nẵng. Gặp nhau ngắn ngủi, chia tay
không kịp hẹn ḥ th́ hôm qua đây, Huy Phương
đột ngột báo tin cho tôi:
- Anh ơi! Ông Hằng Minh chết rồi.
Tôi sửng sốt, người lặng đi, gai ốc
nổi cùng ḿnh. Hằng Minh chết rồi ư? Tôi
sững sờ như chưa khi nào nghe tin có người
chết mà sững sờ như thế, kể cả lúc
tôi nghe tin hai bà má tôi kế tiếp nhau qua đời
trong ṿng một tháng. Bà mẹ tôi như lá vàng,
Hằng Minh là chiếc lá đương xanh.
Buổi chiều ngồi trong quán nước đường
Lê Lợi, hai người bạn nói chuyện với
nhau về lẽ sống chết ở đời. Có
những người bạn vừa cụng ly với ta
chiều nay, sáng mai lại đă vĩnh viễn nằm
yên, giă từ tất cả. Chuyện đó bây giờ
xảy ra như cơm bữa.
Tôi chợt nhớ tới Hằng Minh, người
chiến sĩ vừa đánh giặc vừa đánh
đàn. Lê Hằng Minh là chiến sĩ, chiến sĩ
th́ sống chết là chuyện thường nhưng giá
Hằng Minh đừng có ngón đàn tuyệt diệu,
đừng có một tâm hồn tràn đầy yêu thương
th́ khi nghe tin anh chết, sự ngậm ngùi cũng không
đến nỗi nhiều như thế!".
Sau ngày cố Tr/T Lê Hằng Minh tử trận, Tổng
cục chiến tranh chính trị có cho phát thanh một
số chương tŕnh "Thơ và nhạc Lê
Hằng Minh", trích từ những bài thơ và
nhạc phẩm do ông sáng tác về t́nh yêu, t́nh
bạn và đời quân ngũ trên làn sóng Đài phát
thanh Quân đội ở Sài G̣n để tưởng
niệm đến một anh hùng mũ xanh đă
nằm xuống v́ Tổ quốc và dân tộc Việt
Nam.
Dẫu cũng là người trai trong thời ly
loạn, đă là chiến sĩ cầm súng giữ biên
cương, tất cả đều xem cái chết
nhẹ tựa lông hồng, sẵn sàng chấp nhận
tử sinh bất cứ giờ phút nào xảy đến
với ḿnh nhưng Thiếu tá Lê Minh Đảo lúc ấy
không thể nào ngăn được ḷng xót đau khôn
cùng trước sự ra đi vĩnh viễn của người
em trai thân yêu. Ông đă khóc bằng những giọt
lệ đau ḷng khi viết nên những ḍng chữ
hết mực thương yêu:
Minh,
Anh ghi lại cuộc đời em trong khi em đă
nằm yên nghỉ dưới ḷng đất nước
Việt Nam thân yêu, điêu linh và tang tóc này."V́
quốc vong thân", em để lại cho quốc gia này
bao nuối tiếc, cho thế hệ 1966 một gương
sáng soi chung cùng với một sự thiệt tḥi to tát.
Quân lực VNCH mất đi một chiến hữu oai hùng,
một cán bộ chỉ huy ưu tú, lỗi lạc và
gan ĺ... Văn nghệ Việt Nam mất đi một nhân
tài có ngón đàn tuyệt diệu, một thi nhân
với những ḍng thơ đa cảm tràn đầy
yêu thương.
Gia đ́nh chúng ta, lúc em c̣n sống, t́nh thương
của em, em ban hết cho tất cả mọi người,
sự hi sinh của em vô bờ bến. Cho nên, mất
em, gia đ́nh mất tất cả, những người
c̣n ở lại không c̣n đủ nghị lực để
tin tưởng vào ngày mai. Riêng anh, sự mất mát
thật quá ư lớn lao và tàn nhẫn. Anh mất
một đứa em hiền ḥa, hiếu thảo,
một chiến hữu anh hùng tài ba, một "Bá Nha
của Tử Kỳ", một người tri
kỷ... Thật vậy, không ai hiểu anh bằng em, cũng
như không ai biết rơ em bằng anh.
Em giă
từ thế gian giữa tuổi "hoa niên" đầy
mộng mơ, huy hoàng. Bao nhiêu người hướng
về em, tin tưởng ở tương lai rực
rỡ của em. Thế mà đành phải khóc em, khóc
cho con người tài hoa bạc số!
Em như một v́ sao. Sáng quá! Rực rỡ quá! Ánh
sáng làm lóa mắt mọi người. Tất cả
đều hướng nh́n em đang vượt
thẳng tít lên cao và tan biến trong vũ trụ bao la
để cho mọi người phải bàng hoàng,
ngẩn ngơ, tiếc rẻ. Em đă tự tạo cho
em một sự nghiệp vĩ đại làm hănh
diện cho gia đ́nh, cho gia tộc họ Lê. Những
đời sau này chưa chắc ǵ con cháu chúng ta
sẽ làm được như em.
Hầu hết nhân vật trọng yếu của
Quốc Gia mến tiếc em, phúng điếu và
đưa linh cữu em đến nơi an nghỉ
cuối cùng. Báo chí ngoại quốc và Việt Nam ca
tụng em, dành cho em những hàng Tít lớn. Đài Phát
thanh dành những chương tŕnh đặc biệt ca
ngợi và thương tiếc người chiến sĩ
anh hùng, người nghệ sĩ tài hoa. Nhưng anh nghĩ
rằng: "Nói đến Lê Hằng Minh mà chỉ nói
đến phương diện ái quốc và nghệ
thuật không chưa đủ. Lê Hằng Minh c̣n có
nhiều đức tính cao quư khác. Cuộc sống
nội tâm của Hằng Minh chứa đầy
những u ẩn, dồn ép của một con người
đa sầu đa cảm, quảng đại và vị
tha, đem t́nh thương của ḿnh ban cho tất
cả mọi người....".
Đó là những lời xúc cảm với muôn vàn đau
đớn tiếc thương của Th/Tá Lê Minh Đảo
khi ông chợt nghe tin em trai ḿnh vừa anh dũng hi sinh.
Và trên những tờ nhật báo Sống, Tiền
Tuyến... với những tin tức đang sôi bỏng
ngoài chiến trường trong thời điểm đó,
đă ghi lại bài phóng sự tường thuật:
Trận phục kích Thần Sầu Quỷ Khốc
của T.Đ. Trâu Điên như sau:
"Chúng tôi đến thăm trận địa
giữa lúc xác địch máu đỏ c̣n bốc hơi,
nằm ngổn ngang dọc đường rầy xe
lửa, lẫn bên tử thi của các chiến sĩ
Cọp Biển thuộc T.Đ. Trâu Điên gục ngă kế
bên thân địch, điều đó chứng tỏ quân
ta đă đánh cận chiến với quân xung phong
của VC cho tới phút thở hơi cuối cùng.
Nh́n chung quanh là những dăy đồi trọc chập
chùng bát ngát chạy dài tới vùng Cận Sơn. Địch
chém vè tẩu thoát về phía núi nhưng binh lực
TQLC Mỹ, Thiết giáp và các thiên thần mũ đỏ
thuộc Tiểu đoàn 5 Nhảy dù đă được
trực thăng vận cấp kỳ nhảy xuống
trận địa và tiến sâu vào ḷng núi để
chận đường rút của địch.
VC phục kích hai mặt dồn ta lọt vào tầm súng
địch.
Pḥng tuyến bố trí của VC dài 3 cây số. Nơi
được chọn làm chiến trường nằm
gần ranh giới Quảng Trị - Thừa Thiên, cách
Huế 34 cây số. Địch nằm ôm lấy con
đường số 1. Chúng phục cả hai bên
đường. Bên tay mặt, chúng ẩn nấp sau
bụi rậm, bố trí SKZ và súng thượng liên
khai hỏa bắn ngay vào quân xa gồm 27 chiếc chuyên
chở toàn bộ T.Đ. Trâu Điên xuất phát từ
Huế khoảng 7 giờ sáng 29/6/66.
Tiểu đoàn này có nhiệm vụ ra Đông Hà dự
cuộc hành quân hỗn hợp với Đồng Minh (T.Đ.
này cũng vừa tạo thành chiến tích Phù Lưu
đè bẹp T.Đ. 808 VC). Khi súng địch nổ bùng,
các chiến sĩ Trâu Điên phản ứng tự nhiên
bằng cách nhảy khỏi xe, tràn qua tay trái băng qua
đồng trống lối vài chục thước
để chiếm lănh cao địa VC là dăy đường
rầy xe lửa.
Nhưng địch đă nằm đầy nhóc tại
phía này và quân ta đă chạy thẳng vào đúng
tầm súng của quân xung phong VC. Trong trường
hợp thất thế này chỉ một phút lúng túng là
toàn T.Đ. sẽ tan ră trong nháy mắt. Khi mà SKZ nổ
từng loạt bắn cháy ngay trong 5 phút đầu 14
xe ngút lửa, khi mà phía địch quét ra hàng loạt
thượng liên bắn như mưa rào. Chạy qua phía
trái th́ đụng vào lưới lửa tập trung
hỏa lực của địch đă nắm ưu
thế địa h́nh chọn lựa từ trước.
Nhưng Tr/T Lê Hằng Minh, tiểu đoàn trưởng
T.Đ. Trâu Điên đă tỉnh táo nhận rơ lối mai
phục của địch bố trí cả 2 bên
đường. Như vậy tầm súng của địch
phía đường rầy có thể bắn vào đồng
chí của chúng phía bên kia mặt đường sau
bụi rậm. Quả đă rơ ràng là VC chỉ bắn
thật sự khoảng 5 phút mở màn trận đánh
và khi ta nhào qua phía đường rầy xe lửa, th́
bọn VC bên này chỉ bắn với mục đích dùng
tiếng nổ uy hiếp tinh thần quân ta, xua quân ta
chạy về phía bố trí hỏa lực chính của
địch. Nhận định tổng quát toàn bộ
chiến trường với phản ứng chớp nhoáng,
Tr/T Lê Hằng Minh ra lệnh cho Đại úy tiểu đoàn
phó Nguyễn Văn Hay mang toán quân thoát hiểm sau đợt
SKZ phủ đầu dồn toàn lực băng qua
đường vượt qua đám lửa khét
lẹt mùi xăng và thịt người chết cháy,
để xung phong đánh thốc vào pḥng tuyến
của VC nằm phía bụi rậm. Nếu VC thật
sự bắn theo đường bắn thẳng th́ chúng
sẽ quạt vào quân của chúng đang rời
khỏi đường rầy xe lửa để xông
vào đánh cận chiến với các chiến sĩ
Cọp Biển từ trên đoàn xe bốc cháy nhảy
xuống xáp chiến giữa làn sóng biển người
của đối phương.
Bên cạnh Tr/T Lê Hằng Minh c̣n có một trung đội
cảm tử có nhiệm vụ bảo vệ cho Ban
Chỉ huy TĐ, nhưng các chiến sĩ cảm tử này
đă bị hàng trăm quyết tử VC cố ư
nhắm vào bộ phận đầu năo của ta để
lao vào tiêu diệt dù phải đổi giá đắt.
Trung Tá Lê Hằng Minh, người chiến sĩ
Cọp Biển, anh cả của TĐ2/ TQLC với 31
tuổi xuân tràn đầy nhựa sống ấy đă
oanh liệt gục ngă sau khi điều động toàn
tiểu đoàn lật ngược thế cờ
phản kích địch và giật lại thế
chủ động chiến trường.
Để giúp bạn đọc có một khái niệm
tổng quát về trận phản kích của VC trên
quốc lộ 1 ngày 29/6/66, chúng tôi xin lược
thuật vài nét chính như sau:
Lực lượng VC gồm có Tiểu đoàn chính quy
800 được tăng cường thêm Đ.Đ. Pḥng không
C-15 gồm súng nặng 12 ly 7 và đại liên 50 có bánh
xe, tăng cường thêm Đ.Đ. C-16 gồm súng cối
82 ly, SKZ 57 ly và 2 cây đại bác 75 ly. Đơn vị này
nhắm đánh xe tăng và yểm trợ cho quân xung
phong khi tiến cũng như lúc giải quyết
chiến trường. Tăng cường thêm Đ.Đ. C-13
gồm bộ phận truyền tin, điện
thoại... Quân số VC tham dự trận phục kích
gồm 700 người cộng thêm quân du kích địa
phương thuộc đơn vị H99 trang bị các
vơ khí như carbin garant M1 FM 24x29 v..v... Trận phục kích
vận động chiến của VC áp dụng theo
kế hoạch chặt đứt đầu (Đ.Đ.1
của Đại úy Trần Kim Hoàng & Đ.Đ.3 của Trung
úy Đinh Xuân Lăm), cắt làm đôi, rồi khóa chặt
đuôi (Đ.Đ.2 của Đại úy Nguyễn Văn Hay &
Đ.Đ.4 của Đại úy Nguyễn Xuân Phúc) để tiêu
diệt bộ phận giữa (Bộ Chỉ huy &
Tiểu đoàn trưởng TĐ2).
Trận phục kích này, TĐ. Trâu Điên đă phản
phục kích thật dữ dội kinh hoàng. Đánh hết
sức ḿnh nhưng sức người có hạn, Tr/T Lê
Hằng Minh cùng một số chiến sĩ anh dũng
khác như Chuẩn úy Cầu v.v... đă gục ngă sau
khi chọc thủng pḥng tuyến địch và kịp
điều động các chiến sĩ Cọp
Biển c̣n sống sót tập trung binh hỏa lực
đánh thốc ngược trở lại pḥng
tuyến thứ hai của VC. Chắc chắn là cho
tới giờ nhắm mắt, Tr/T Minh cũng c̣n đủ
trí minh mẫn để... chết trong niềm hănh
diện v́ thế chiến thắng đă lật ngược
được ngay sau 15 phút giao tranh và Tr/T Lê Hằng
Minh đă oanh liệt đền nợ nước vào
phút thứ 30.
Chính v́ phản ứng mau lẹ, nhận định
tổng quát trận địa và nắm được
ư của địch, nên trận phục kích mà VC đă
công phu mai phục từ 2 giờ sáng với quân số
đông đảo, hỏa lực hùng hậu, chúng tin
chắc chỉ sau 10 phút phát hỏa là hơn 400
chiến sĩ Cọp Biển sẽ rơi vào lưới
lửa của VC. Kết quả sẽ là phân nửa
bị hạ ngay đợt súng đầu tiên và
một phân nửa bị lùa đi v́ lọt vào
giữa "tổ ong" trùng điệp ngập quân
thù và... đơn vị tiếp ứng nếu kịp
lên tới trận địa th́ nhiệm vụ của
họ là đi lượm xác đồng đội và
lo dập tắt đám cháy của đoàn GMC trúng SKZ
57 ly.
Nhưng kết quả trái lại. Đại tá Ngô Quang Trưởng,
Tư lệnh Sư đoàn 1, đă phải nói thành
thật rằng trong đời binh nghiệp của ông,
kể cả hồi Pháp, chưa hề thấy trận
phục kích nào lại biến thành trận phản kích
tuyệt vời như trận đánh trên cây số 34,
tại quốc lộ 1 ngày 29/6/66 vừa qua.
Dù đă bị thất thế, trong lúc VC mai phục
ở vị trí do chính địch chọn lựa. Quân
ta ngồi trên xe, SKZ bắn loạt mở đầu bên
ta đă bị trúng đạn 14 xe. Tuy vậy, ai
gục th́... đành chịu, c̣n lại tỉnh táo
dựa lưng vào nhau tác chiến ngay..."
(Trích ghi từ phần phóng sự chiến trường)
V́ thế với sự phục kích đại quy mô,
lực lượng hùng hậu là một Trung đoàn VC
với sự chủ động chọn lựa địa
h́nh mọi ưu thế nắm chắc cùng khẩu
hiệu "phải chuẩn bị thật chắc
ăn mới đánh" không ngờ gặp sự xung
phong chiến đấu dũng mănh của các chiến
sĩ Trâu Điên TĐ2/ TQLC cùng sự tài t́nh đảm lược
của vị Tiểu đoàn trưởng khét tiếng
đă biến thành trận phản kích lẫy lừng
lần thứ nhất tạo thành trên chiến địa
Việt Nam.
Khi TĐT Lê Hằng Minh vừa gục ngă cũng là lúc
bại quân VC đang cố t́m đường tháo
chạy về hướng núi Hồ Bơi, Cánh Giơi
v.v.... Nhưng Tiểu đoàn 5 Nhảy Dù đă kịp
thời bám sát truy lùng, chận đường tẩu
thoát của địch. Giữa lúc trận đánh
đang tiếp diễn các cánh quân của Nhảy Dù,
Trung đoàn 3, Thiết quân vận M 113, Thủy quân
lục chiến Mỹ đang rượt địch th́
tướng Walt, Tư lệnh Cọp Biển Hoa Kỳ
đă ngồi trực thăng đi quan sát chiến trường.
Mặt khác tướng Hoàng Xuân Lăm, Tư lệnh Quân
đoàn I cũng cùng với Đại tá Ngô Quang Trưởng,
Tư lệnh Sư đoàn I ngồi trực thăng
theo sát trận địa. Tướng Walt từ trên nh́n
xuống ở ven sông thấy có hai xác VC nằm
chết gục bên cây đại bác 75 ly khổng
lồ, Tướng Walt thận trọng cho gọi
một đơn vị Cọp Biển, có thêm đoàn
quân khuyển trực thăng vận xuống bao quanh khu
vực này. Sau đó chính tướng Walt đă hạ
cánh xuống nơi có cây đại bác 75 và tịch
thu mang về Bộ Chỉ huy.
Chỉ trong ṿng một tuần lễ với ba chiến
thắng Lam Sơn 283 (Phù Lưu - Gia Đặng); 284 truy kích
tiểu đoàn 808 VC và 285 là trận phản phục kích
thần sầu của Tiểu đoàn Trâu Điên tại
mặt trận miền Trung đă vang dội khắp các
chiến trường. Để viết nên những trang
sử xanh này, Trung tá Lê Hằng Minh cùng một số các
chiến sĩ oai hùng khác... đă vĩnh viễn ra
đi từ chốn Tử Sinh!
Đến đây, tôi cố h́nh dung ra buổi sáng kinh hoàng
và đầy máu lệ hôm ấy. Một buổi sáng
mai c̣n tươi đẹp ánh nắng vàng rực
rỡ. Trên con đường quốc lộ số 1
chạy dài từ Huế ra đến Quảng Trị -
Đông Hà, khói lửa đă bùng lên nơi đoạn
đường Cầu Pḥ Trạch, Phong Điền -
Thừa Thiên trên cây số 34. Trận chiến diễn
ra thật khốc liệt chỉ hơn nửa tiếng
thời gian nhưng đă lấy đi bao mạng
sống con người và gây ra bao cảnh tang thương,
từng ngày từng giờ trên quê hương điêu
linh khốn khổ Việt Nam. Đă bao nhiêu chiến sĩ
anh hùng đă nằm xuống như những người
vừa ngă xuống nơi đây. Ḍng máu thanh xuân
của họ đă chảy thắm trên mảnh đất
cằn khô quê mẹ cho mạch sống tương lai
được thêm phần tốt tươi. Những
giờ phút kinh hoàng đau thương ấy chỉ
diễn ra ngoài trận địa. Hậu phương,
thành phố nơi tôi đang yên vui cắp sách đến
trường, chỉ biết hồn nhiên với khung
trời tuổi nhỏ, sống cuộc đời êm
ả trong mái ấm gia đ́nh. Làm sao có thể
biết rơ và thấu hiểu hết được
sự hi sinh như thế nào của những người
lính chiến và những tàn phá khổ đau trên quê hương
khói lửa triền miên ngày ấy.
Người chiến sĩ Lê Hằng Minh đă hiên
ngang chiến đấu dưới màu cờ cùng đồng
đội, chiến hữu. Và trong buổi sáng đẹp
trời hôm đó, anh đă ra đi, dũng cảm và
liệt oanh khi tuổi đời thanh niên của anh
đang tràn đầy sức sống mạnh mẽ,
trẻ trung. Chiếc đàn Guitaire yêu quư mà anh luôn mang
theo bên ḿnh cũng đă vỡ tan trước mũi súng
quân thù. Cuối tháng sáu, gió Hạ Lào đang thổi
về như tiếng mẹ ru buồn bay lướt trên
những dăy đồi trọc trống vắng
quạnh hiu. Hồn anh du nhập theo bóng núi Trường
Sơn trùng trùng ngạo nghễ, để lại xác
thân bên ven bờ quốc lộ 1 những niềm đau
nuối tiếc sống cuộc đời chưa
phỉ, chưa đành đoạn xa rời những người
thân yêu quư, xin cho trôi ra ḍng biển lớn bao la trước
mặt, rửa sạch hết những hờn đau
của một kiếp người. Nắng vàng tươi
của buổi sớm mai đang trải rộng mênh mông
trên mảnh đất cằn khô sỏi đá,
tiễn đưa những người chiến sĩ
đă sống và vừa chết cho quê hương.
Những người con của Mẹ đă ra đi và
nằm xuống, nhưng khí hùng bất tử của các
anh vẫn là những giọt nắng vàng tươi
lấp lánh và chiếu sáng trong hồn Dân tộc, trong
ḷng những người c̣n lại hôm nay và măi đến
muôn đời sau. Trung tá Lê Hằng Minh đă anh dũng
đền xong nợ nước vào lúc 8 giờ 50 phút
sáng tại chiến trường miền Trung năm 31
tuổi, ngày 29 tháng 6 năm 1966, trong bao niềm tiếc
thương của bạn bè, thượng cấp và
đồng đội chiến hữu khắp các
đơn vị.
Chiều hôm sau, chiếc quan tài phủ lá cờ Tổ
quốc đă đưa người chiến sĩ Lê
Hằng Minh về Sài G̣n. Chiều hôm ấy mưa rơi
tầm tă, gió lạnh tơi bời như những
niềm đau cắt ruột của những người
thân trong gia đ́nh vừa mất đi một người
con, người em, người anh thương yêu. Người
mẹ đă cho đi bốn người con trai (Lê Minh
Đảo, Lê Hằng Minh, Lê Hằng Nghi, Lê Quang Thạch)
vào trong Quân ngũ. Sau này đă khóc trước sự
ra đi vĩnh viễn của 2 người con (Tr/T LHM
& T/S LQT) cùng năm tháng ṃn mỏi đợi chờ
2 người con c̣n lại trong lao tù Cộng sản mười
mấy năm dài sau biến cố lịch sử 30/4/75
(Thiếu Tướng LMĐ & Đại úy LHN). Chiếc
quan tài buồn đă được đưa về ngôi
nhà mà Tr/T LHM đă được sinh ra và lớn lên
ở Hàng Keo - Gia Định. Người Mẹ đă
một thân C̣ nuôi dưỡng một đàn con với
bao ḍng nước mắt đau khổ chảy xuôi. Hôm
nay thêm một lần chảy xuống thành ḍng máu
lệ trong trái tim của người mẹ hiền già
nua héo hắt! Mọi người trong gia tộc đều
thương tiếc và yêu thương LHM đến
nỗi cho sơn chiếc quan tài màu trắng là màu ông
rất ưa thích lúc sinh thời. Họ đều không
được nh́n mặt ông lần cuối mà chỉ
biết ôm lấy chiếc quan tài đă phủ kín xác
thân, than khóc tiếc thương. Đám tang của ông
được cử hành trọng thể, trang nghiêm
với các lễ nghi quân cách, Tổ quốc ghi công, và
an táng tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi - Sài G̣n.
Cố Tr/T Lê Hằng Minh được ân thưởng:
Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương,
Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương,
với nhiều Anh Dũng Bội Tinh, Nhành Dương
Liễu, Ngôi Sao Vàng, Bạc và nhiều huy chương
khác của QLVNCH.
Trên mộ là bức h́nh cố Trung tá Lê Hằng Minh
mặc quân phục, đội nón sắt (do một phóng
viên người Mỹ chụp và đăng h́nh trên báo
Marine Corps Gazette & Time News) cùng khắc hai câu thơ
"V́ tôi là lính áo rằn. Ra đi nào biết mấy
trăng mới về". Bởi ông đă chọn
đời binh nghiệp, hiến cuộc đời cho
Tổ quốc, sẵn sàng chấp nhận hi sinh nên
đă không dám nghĩ đến t́nh riêng, sợ vướng
khổ cho cuộc đời cô nhi quả phụ nên khi
chết vẫn c̣n độc thân, chưa lập gia
đ́nh. Cái chết của Tr/T Lê Hằng Minh đă là
một cái tang xót đau lớn cho gia đ́nh, ngờ
đâu 6 tháng sau lại thêm sự ra đi vĩnh
viễn của người em gái kế là Lê Mộng
Huyền đang là một cô giáo hiền ḥa tươi
trẻ (dạy học trường Quốc Gia Nghĩa
Tử), v́ không chịu nổi sự buồn đau trước
cái chết đột ngột của người anh
ruột mà cô hết ḷng yêu kính.
Là một sĩ quan ưu tú của quân đội, là
một nghệ sĩ vui tính với ngón đàn tuyệt
diệu. Tr/T Lê Hằng Minh c̣n là một người con
rất hiếu thảo với mẹ. Dường như
ông biết đời lính chiến của ḿnh có
thể ra đi bất cứ lúc nào nên ông đă
viết một lá thư tỏ bày sự kính yêu cùng
một khoản tiền dành dụm được lúc
du học ở Hoa Kỳ, để lại cho mẹ sau
ngày ông mất đi. Và đây là những ḍng hồi
kư ông đă ghi lại những cảm xúc và tâm t́nh lúc
bé thơ, thể hiện một con người đa
cảm và nhân ái:
"Ngày... tháng... năm...
Bệnh viện Nguyễn Văn Học tục gọi là
bệnh viện nhà nước hay nhà thương thí cũng
thế. Anh em ḿnh lớn lên bên bệnh viện này, liên
hệ mật thiết với nó như bóng với h́nh.
Ḿnh chào đời vào lúc 8 giờ tối ngày 18/5/1935
tức (16/4 năm Ất Hợi) trong khu Bảo sinh, pḥng
dành cho công chức, do bà sáu Nhiều đứng đỡ...
Hầu như ḿnh thuộc nằm ḷng vị trí của
bệnh viện, nào là pḥng khám bệnh, phát thuốc,
trại 1, trại 2, trại 3, trại 4, trại 5,
trại 7, trại Bùi Văn Lố và trại bảo
sanh. Sở dĩ ḿnh nhớ như vậy v́ bao lần
má sinh các em, nào lúc ba bệnh, những khi ḿnh ốm
đau đều nhờ nó cả!
Ḿnh lớn khôn, đi xa, thấy rộng, ḿnh có
cảm tưởng càng ngày bệnh viện càng nhỏ
hẹp lại, cằn cỗi, già... theo má ḿnh vậy!
Mỗi lần đi xa trở về, đi ngang bệnh
viện, ḿnh tŕu mến nh́n, có ư thưa: "Con
mới về đây".
Ngoài má ra, bệnh viện này là bà mẹ thứ hai có
công ơn nuôi dưỡng anh em ḿnh khôn lớn khỏe
mạnh đến ngày nay!"
"Ngày... tháng... năm...
Đến trường
Sáng hôm ấy, vào năm 1940, ḿnh được má
đưa đến trường Mac Ferrando - Gia Định.
Đêm trước, ḿnh thấy nao nao, cảm giác là
lạ khi nghe ngày mai ḿnh phải đi học. Ḿnh
thấy ba má, chị Hai, chị Ba, anh Tư đều
bận rộn việc đi học của ḿnh. Nhứt
là anh Tư *, anh vỗ tay dí vào mũi ḿnh, vừa
nhảy cà tửng vừa chộ ḿnh. "Ê, mai mày
đi học rồi. Ê, ê...". Ḿnh nghĩ có lẽ v́
ảnh đi học mà ḿnh ở nhà đi chơi
với anh Xái nên ảnh tị, bây giờ nghe ḿnh đi
học ảnh khoái lắm!
Sáng sớm, bị ba đánh thức rất sớm, ḿnh
ăn lót ḷng cháo trắng với đường, ba cho
ḿnh "hai đồng nửa xu" mới tinh, tay ôm
cuốn dầu "con thỏ và con rùa", tay phải
nắm tay má rụt rè tới trường... thỉnh
thoảng ḿnh buông tay má vạch túi xem hai đồng
nửa xu c̣n không.
Đến cổng trường, trời... học tṛ sao mà
đông thế. Những đứa lớn đùa
giỡn, la lối, rượt bắt nhau như ong
vỡ tổ. Mặt ḿnh lúc ấy h́nh như mếu
rồi, ḿnh sợ quá nắm tay má thật chặt,
mặt cứ rúc vào tà áo dài bằng hàng trắng
thật mới của má, ḿnh ngửi mùi hàng thấy
ngọt ngào làm sao! Có những tên lạ cũng
mếu, ngơ ngác theo ba má chúng đi xin học như
ḿnh!
Trước căn pḥng hiệu trưởng, nhiều
người d́u con đi học nên có sự chen lấn
xảy ra. Có một tên chèn ḿnh v́ bị ba nó kéo lên
phía trước... Suưt chút bị sút tay khỏi tay má,
ḿnh sợ lạc má nên vội thúc vào hông nó thật
mạnh khiến hắn khóc ré lên...
Đến phiên ḿnh vào, trời khiếp, ông Đốc Măo
sao to béo thế. Ông cầm đơn xin học của
ḿnh đoạn nhướng mắt nh́n ḿnh qua làn kính
trắng, giọng oang oang hỏi má: "Tṛ Minh chưa
đủ tuổi mà học cái ǵ?". Má vội
đưa tấm danh thiếp giới thiệu của ông
Dournot, thanh tra người Pháp, ông này quen với ba sao
đó. Bấy giờ ông Đốc Măo "dịu
giọng" ngay: "Thôi được" và ra
lệnh người tùy phái dẫn má và ḿnh đến
lớp năm A gặp thầy Phước làm ḿnh
thất vọng quá. Đang hi vọng trở về v́ chưa
đúng tuổi! Mặt méo xẹo, riu ríu theo má đi
gặp thầy Phước, tay ông đang cầm cây thước
nhịp nhịp vào không khí, ḿnh thấy ông ta nghiêm quá,
vội rúc vào ḷng má, ôm chân má thật chắc.
Thầy Phước khẽ cười, cúi đầu
đáp lễ má và nói: "Dạ, bà giao em cho tôi",
tay th́ nắm lấy tay ḿnh kéo đi, ḿnh khóc rú lên
"má ở đây má ơi!", má cười gượng,
gỡ tay ḿnh đang ôm đùi má và an ủi ḿnh:
"Không sao đâu con, má phải về c̣n đi
chợ nữa chớ". Ḿnh cố gào thét nhưng vô
hiệu!
Má đi rồi, thầy Phước vừa dỗ
vừa dọa, tay ông cầm cây thước dọa
dọa. Không c̣n má, ḿnh thấy bơ vơ trong thế
giới của học đường và sợ hăi trước
ông giáo xa lạ, ḿnh hết dám khóc. Thầy Phước
d́u ḿnh đến ngồi bàn thứ hai.
Ḿnh lấy tay áo mới, chùi mắt và mũi, khẽ
liếc chung quanh, thấy các bộ mặt
"mếu" chẳng khác ǵ ḿnh, chúng đang
lấm lét nh́n ông thầy. Ḿnh thấy dường như
vừa mất mát cái ǵ to lớn lắm!
(*) (Anh Tư: Thiếu Tướng Lê Minh Đảo)
Ngày... tháng... năm...
Ngày băi trường đầu tiên
Ḿnh làm quen thế giới học đường
được một năm rồi, sau kỳ thi
tất cả 52 đứa đều được lên
lớp tư. Không biết thông lệ từ hồi nào,
ngày băi trường là học sinh đóng tiền liên
hoan đăi Thầy do các tên lớn đề xướng
và tổ chức.
Hôm ấy, từ lớp tư trở lên đều liên
hoan rầm rộ. C̣n lớp ḿnh im ru buồn hiu v́ toàn
là bé con. Chẳng có tên nào lănh đạo, thành
lớp ḿnh buồn hơn đám ma!
Có lẽ cảm thấy nỗi buồn ấy, hơn
nữa sắp xa đám học tṛ, các tác phẩm do chính
tay ḿnh gầy dựng cả năm trời... bất
thần có tiếng leng keng của người Tàu già bán
kẹo đục đi qua. Thầy Phước vội
kêu vào bảo đục 53 phần kẹo, mỗi
phần một xu!
Năm mươi ba phần kẹo được đục
xong, thầy Phước móc bóp đếm cẩn
thận năm tờ giấy một cắc và ba đồng
xu, trả tiền kẹo, tay run run...
Lúc ấy, ḿnh hết nh́n người bán kẹo
lại nh́n thầy Phước, xong lại nh́n 53
phần kẹo, miệng nuốt nước bọt. Ḿnh
thấy thương thầy Phước quá, bao nhiêu
lần bị phạt, bị đ̣n trong năm đều
tiêu tan hết...
Thầy Phước tay chắp sau đít, đi qua đi
lại như bao ngày, ông ho gằn mấy tiếng có
lẽ v́ cảm động, đoạn nói: "Các em,
hôm nay ngày băi trường, thầy tṛ ḿnh bắt
đầu xa nhau... Hôm nay, thầy đăi các em một
xu kẹo đục, bắt đầu tṛ Ẩn đi
lên lần lượt lănh kẹo". Tụi ḿnh lănh
hết, c̣n lại một phần, ông cầm lấy và
ra lệnh ăn. Đứa nào đứa nấy mặt
hớn hở nh́n Thầy đầy tŕu mến!
Trong đời ḿnh, có lẽ không có bữa tiệc nào
quư và cảm động bằng một xu kẹo đục
của thầy Phước..."
Tâm hồn Lê Hằng Minh giàu cảm t́nh và nhân hậu
là thế, nên khi hồi tưởng lại giây phút tôi
gặp chú lúc đi lạc giữa súng ống và binh lính
ngổn ngang, sợ hăi đứng khóc một ḿnh trong
ngày biến cố đảo chánh ở thành Cộng Ḥa.
Đang là vị sĩ quan chỉ huy và cũng chắc
rất đang bận rộn với những trách
nhiệm của ḿnh, vậy mà chú cũng đến bên
tôi, dỗ dành cho nín khóc và đưa về tận nhà.
Đó là h́nh ảnh tôi không quên qua nghĩa cử của
một người có tấm ḷng nhân ái đối
với trẻ em. Và cũng từ cơ duyên đó, 38 năm
sau tôi mới có dịp viết, vẽ lại chân dung
người lính Việt Nam Cộng Ḥa cao đẹp qua
h́nh ảnh cố Trung tá Lê Hằng Minh.
Chú Minh ơi, sau khi cánh cổng rào nhà cháu khép lại,
là từ đó cháu không bao giờ c̣n gặp lại chú
nữa. Nhưng hôm ấy, cháu c̣n giữ lại nơi
chú một nụ cười tŕu mến vỗ về, dù
cháu đă hết sợ và nín khóc từ lúc mới
gặp chú. Cả ngày hôm đó, con bé tám tuổi
vẫn nhớ tới chú v́ c̣n giữ mấy cánh hoa
sứ trắng trong túi áo mà chú đă nhặt và hái
cho. Cháu đă đem ép vào những cuốn sách mà cháu
yêu thích nhất v́ nghĩ hương thơm hoa sứ
sẽ c̣n hoài trên những trang sách đó. Thỉnh
thoảng qua hồ tắm Nguyễn Bỉnh Khiêm chơi
và đi lượm hoa sứ rụng, cháu vẫn c̣n
nhớ tới chú với lời hẹn hôm nào gặp
lại sẽ được chú đàn cho nghe như
lời chú hứa.. Mà chẳng biết tới bao
giờ đây (?).Hơn một năm sau, nhà cháu
dọn ra khỏi cư xá đi nơi khác và chút
kỷ niệm thân ái bé nhỏ ấy cũng dần
nhạt nḥa theo những ngày tháng cháu lớn khôn thêm.
Một đôi lần cháu theo mẹ vào Tổng Y
Viện Cộng Ḥa thăm ba cháu những lúc ông bị
thương, cháu lại nh́n thấy những hàng bông
sứ trắng được trồng dọc theo
mấy dăy hành lang bệnh viện trắng toát u
buồn, làm những cánh hoa rơi khẽ chỉ
lặng lẽ tỏa hương để không gian
nhẹ bớt phần thê lương của những người
thương binh. Cháu lại thoáng nhớ đến chú
rồi lại quên trong cái tuổi hồn nhiên vô tư
lự. Vài năm sau, có một lần cháu sang nhà hàng xóm
chơi, thấy sân nhà bác Thiếu tá Nhàn mới
nở mấy cây hoa sứ kiểng rất đẹp.
Cháu hỏi xin, bác từ chối, cháu cố năn
nỉ: "Cháu chỉ xin bác một bông thôi, bác xem có
bông nào xấu nhất, bác cho cháu nhé!". Bác Nhàn
bật cười: "Hoa nào cũng đẹp,
chỉ có mỗi bác Nhàn là xấu thôi, không có hoa nào
xấu cả, cháu ơi". Bác Nhàn nói thế để
lờ đi đấy mà (Dĩ nhiên là không rồi, v́
đó là hoa kiểng của bác mới nở được
có mấy bông). Nhưng lúc ấy cháu c̣n trẻ con, nên
nghĩ bụng, bác Nhàn xấu thật, ḿnh xin có
mỗi một hoa nào xấu nhất, vậy mà bác cũng
không cho. Rồi cháu chợt nhớ tới chú, tới
những bông sứ trắng nơi hàng cây bóng mát
tuổi thơ của cháu ngày nào mà đă có lần
được chú hái cho bỏ đầy hai túi áo ngày
xưa.
Năm tháng trôi qua với biết bao đổi thay,
biến động của cuộc sống và t́nh h́nh
đất nước, cháu đâu c̣n có dịp nào
để nhớ lại câu chuyện bé nhỏ ngày xưa
ấy.. Cho đến một hôm, trước ngày Quân
lực 19/6/02 vài ngày, cháu t́m hiểu và liên lạc
với một số vị chỉ huy của những
trận chiến oai hùng của Quân đội VNCH để
phỏng vấn trong chương tŕnh phát thanh
"Tiếng Việt mến yêu" nhân dịp kỷ
niệm ngày Quân lực VNCH. T́nh cờ cháu nh́n thấy
h́nh của chú trên b́a đặc san Sóng Thần - 2002
trong văn pḥng làm việc, cháu thấy khuôn mặt và
nụ cười của người lính này sao nh́n
quen quá, rất quen, rồi... không sao nhớ thêm
được tí nào nữa. Cháu vẫn nhớ chú tên
Minh nhưng không biết nguyên tên họ chú là Lê
Hằng Minh. Ngay lúc đó cháu cũng đang đọc
cuốn bút kư "Cuộc chiến dang dở"
của chuẩn tướng Trần Văn Nhựt (cũng
là bạn học với chú) vừa gửi tặng. Đến
đoạn viết về cuộc đảo chánh ngày
1/11/63 với sự tham dự TĐ4/ TQLC của chú, cháu
mới chợt nhớ ra như ḍng suối đă
được khơi nguồn. Câu chuyện và
những h́nh ảnh đă lăng quên, nay giật ḿnh
nhớ lại th́ đă 36 năm trôi qua. Cháu cũng không
biết rằng sau lần gặp chú th́ chỉ hơn
hai năm sau, chú đă anh dũng hi sinh trong cuộc
chiến ở miền Trung, và cũng không hề
biết chú là em của Th/Tướng Lê Minh Đảo dù
đă tṛ chuyện với ông vài lần qua một
cuộc phỏng vấn trên Đài Phát Thanh. Thêm một t́nh
cờ ngẫu nhiên khi cháu nhớ ra chú và muốn t́m
hiểu thêm về trận đánh ngày 29/6/66, lúc
tiếp chuyện với Đại tá Ngô Văn Định là
người thay thế chức vụ Tiểu đoàn trưởng
TĐ2/ TQLC ngay buổi chiều chú vừa hi sinh, cháu
nhắc với ông: "Hôm nay là ngày giỗ của chú
Lê Hằng Minh, ngày 29 tháng 6". Ông cũng bùi ngùi nói:
"Đó là người chiến hữu thân của tôi
đă mất cách đây đúng 36 năm, không ngờ
hôm nay c̣n có người nhắc nhớ và viết
đến. Cám ơn cô Ngọc Thủy!".
Rồi ông liên lạc ngay với người bạn
rất thân của ông từ nhiều năm qua và cũng
là một người bạn rất thân mến
từng sát cánh cùng chú trong nhiều năm binh
nghiệp hiện đang định cư ở Iowa là
Đại tá Tôn Thất Soạn, và bất ngờ trong
một cuộc điện đàm, Đ/T Tôn Thất
Soạn có cho cháu biết ông đă nghe được
câu chuyện này cách đây hơn ba mươi năm
về trước: "Trong ngày 1/11/63, TĐ4/ TQLC chia ra làm
2 cánh quân. Lúc đó tôi là Tiểu đoàn phó TĐ4/TQLC
giữ cánh B đóng ở Nha Cảnh sát, c̣n Tiểu
đoàn trưởng Lê Hằng Minh th́ đưa cánh quân
A qua thành Cộng Ḥa. Sau ngày đảo chính, có một
lần, anh ngồi cười kể cho tôi nghe
chuyện gặp một cô bé đi lạc, anh đă
đến dỗ dành và đưa cô bé ấy về nhà.
Tôi nghe anh Định kể về nguyên nhân câu chuyện
của cô muốn đi t́m chi tiết để
viết về anh Minh là tôi nhớ lại ngay cũng câu
chuyện này đă từng được nghe Lê
Hằng Minh kể, tôi không ngờ cô bé đi lạc
hồi đó là cô Ngọc Thủy bây giờ". Và
sau đó ông đă gởi ngay cho cháu một bài
viết về một số những trận đánh ông
từng tham dự sát cánh với chú, trong đó có
đoạn: Trong những ngày diễn tiến của
biến cố 1/11/63, Tiểu đoàn 4/ TQLC đă hoàn thành
nhiệm vụ giao phó mà không gây thiệt hại ǵ cho
đơn vị đối phương hoặc dân chúng
địa phương. Điều này đă nói lên
được tinh thần kỷ luật của
đơn vị rất cao cũng như t́nh Quân dân như
cá nước của các chiến sĩ Ḱnh Ngư (TĐ4/
TQLC) mà điển h́nh là một câu chuyện kể
của người anh cả Ḱnh Ngư (TĐT Lê Hằng
Minh) một ngày sau đó (1/11/63): "Với quân
phục rằn ri cọp biển, đi đứng hiên
ngang hùng dũng, nón sắt chiến trận nặng
nề, chụp trên đầu của khuôn mặt
sạm nắng, cặp mắt quầng thâm thiếu
ngủ, với bộ ria mép rậm rạp như trong
phim "cow boy" Mexico, với dây súng gắn dài đạn
đồng đeo chéo ngực v.v... khiến ai nh́n mà không
khiếp đảm, huống hồ là một em bé gái bé
bỏng 8 tuổi của đô thành hoa lệ Sài G̣n, nào
có biết chiến tranh là ǵ; nên khi Đ/U Minh và các binh sĩ
từ trên xe GMC nhảy tràn xuống đường
gần thành Cộng Ḥa để chiếm các vị trí
bố pḥng dọc theo nhà dân hai bên vệ đường,
khiến em bé gái này sợ hăi quá, khóc thét lên... Tuy
với vóc dáng bên ngoài "gồ ghề" là
thế, vậy mà bên trong chứa ẩn một trái tim
nhân hậu và đầy t́nh cảm. Đ/U Minh người
anh cả Ḱnh Ngư, đă quỳ một chân xuống
bên cạnh em bé gái đó, để đưa tay
vuốt tóc em bé cho đỡ sợ và nói những
lời an ủi dịu ngọt để cho em vững tâm
mà nín khóc...
Sau đó em bé đă hiện nét mặt vui mừng, tṛ
chuyện và anh đă đưa cô bé về nhà gần
đó...". Đại úy Minh đă kể lại cho tôi
nghe câu chuyện này vừa xảy ra hôm qua với nét
mặt hân hoan của một người nhân hậu
vừa làm được việc tốt lành. Tôi có
nghe nhưng rồi cũng bỏ qua, nhưng không
ngờ sau 38 năm, lại được em bé gái đó,
bây giờ là một nữ văn sĩ hiện định
cư ở San Jose, Cali... lúc đọc được
ĐSST - 2002, đă bất ngờ nh́n thấy lại h́nh
cố Tr/Tá Lê Hằng Minh trên trang b́a sách của đặc
san. Một kỷ niệm trong sáng của một
thời thơ ấu đă gợi lại h́nh ảnh
một anh hùng mũ xanh của năm nào! Nhưng
thật đáng buồn, v́ bây giờ người anh hùng
đó đă thành người thiên cổ!"
Nghe ông Đ/T Soạn nhắc lại cháu rất cảm
động, nên viết thành mấy câu thơ:
Sao người không tặng cho tôi
một bông sứ trắng cho đời thơm hương
Tặng chi tôi một giọt sương
Trên bông hồng đỏ, dễ thường không khô?
Biết đời như một giấc mơ
Th́ tôi xin một phút chờ cho vui!
Nhớ bông sứ trắng một thời
Có con bướm trắng bay rồi, đă bay...
(Thơ N.T.)
Chú Minh ạ, cháu thật sự xúc động bởi
chú không những là người lính có t́nh người
nhân hậu và trái tim nghệ sĩ năm xưa cháu
đă gặp, mà qua chú sống dậy trong ḷng cháu
những h́nh ảnh thật kiêu hùng cùng những hi sinh
quả cảm của những người trai thời
loạn đă dành cho Tổ quốc Việt Nam: sự
sống và tuổi trẻ cùng tấm ḷng yêu dân
tộc quốc gia. Hơn nữa, chú và hàng trăm
vạn người lính trẻ khác đă chiến đấu
và đă chết cho quê hương. Đó là những anh hùng
không tên tuổi. Nhưng Tổ quốc và ḷng người
dân Việt không bao giờ quên họ. Trong ḍng cảm xúc
này cùng sự hỗ trợ từ những người
thân của chú, cháu mong được nhắc nhớ
lại h́nh ảnh của một chiến sĩ Lê
Hằng Minh, cũng là h́nh ảnh của muôn ngàn người
anh hùng không tên tuổi mà cháu rất kính phục và
biết ơn họ đă dâng hiến cuộc đời
cho tổ quốc non sông và đă "vị quốc
vong thân", đem lại yên vui êm ấm cho bao người
trong đó có cả những tháng ngày thơ ấu,
tuổi trẻ của cháu đă hưởng được
sự an lành tốt đẹp.
Chú Minh biết không, nh́n những bức h́nh của chú
trước mặt, cháu thấy lại nguyên vẹn h́nh
ảnh của người đại úy trẻ đă
nh́n cháu với nụ cười tŕu mến vỗ
về và cháu vẫn là cô bé tám tuổi đi lạc
ngày nào, không có thời gian cách biệt. Nhưng có
một điều, cháu sẽ chẳng bao giờ
gặp lại để chú đánh đàn cho nghe, và
những cánh hoa sứ ép khô cùng hương hoa ngày cũ
trên những trang sách đẹp ngày xưa của cháu
đă trôi lạc theo ḍng đời bể dâu đă
từ lâu lắm rồi... không t́m thấy nữa.
Sau ngày chú ra đi, ngủ yên trong ḷng đất
mẹ, chín năm sau, miền Nam tự do thân yêu
của chúng ta đă rơi vào tay cộng sản. Đă 27
năm qua, quê hương vẫn lầm than tăm
tối. Bây giờ cháu đang sống ở xứ người,
ḷng vẫn nhói đau mỗi khi đọc những
mẩu tin tức ở quê nhà, bao nhiêu là thảm
cảnh và tệ trạng, bao nhiêu là bất công phi lư,
cuộc đời những người dân nghèo
Việt Nam vẫn triền miên đọa đày trong
đói khổ lầm than. Đó là những tiếng kêu như
rên xiết, xé ruột trong ḷng mà cháu không biết ḿnh
phải làm sao! Cháu biết chú cũng buồn như cháu
và mọi người khi thấy quê hương thân yêu
ḿnh qua bao năm vẫn điêu linh khốn khổ, chưa
có được ngày đẹp tươi của ánh
sáng Tự do - Giàu mạnh cho mọi người
được hưởng cuộc đời văn ḿnh,
ấm no chung.
Thôi để cháu nói qua chuyện khác cho chú nghe nhé. Bây
giờ cũng đang là mùa hạ ở xứ Mỹ này,
ở đây không có hàng cây bông sứ trắng như
ở quê nhà, nhưng có một loài hoa khác rất đẹp
cũng rộ nở vào mùa hè, đó là hoa Magnolia, c̣n
được gọi là hoa Thiết Mộc Lan. Hoa màu
trắng, nở to như hoa sen làm mát rượi cả
một mùa hè, mát cả con đường cháu vẫn
đi qua hàng ngày. Với cánh hoa tươi đẹp này
cháu xin gởi tặng chú trong ngày giỗ thứ 36
của chú hôm nay. Và cũng xin kính tặng hai bài thơ
nhỏ để tưởng nhớ đến chú cùng
dâng lên anh linh các chiến sĩ Việt Nam Cộng Ḥa
đă hi sinh cho Tổ quốc Việt Nam:
SAU CUỘC CHIẾN
Người lính đó không về sau cuộc
chiến
Phố vẫn đông trong những ngày cuối tuần
Ngôi Giáo đường rung hồi chuông cầu
nguyện
Nửa cho chàng, nửa cho khắp Việt Nam!
Ngọc Thủy
Mùa hè 29/6/2002
NGƯỜI CHIẾN SĨ MŨ XANH
Hồi năm tám tuổi tôi đi lạc
Người dẫn tôi về: Lê Hằng Minh!
Ba tám năm rồi, tôi vẫn nhớ
Người gọi tôi là cô bé xinh!
Trong tôi h́nh ảnh người không mất
Măi măi anh hùng của Việt Nam
Người lính dễ thương và lẫm liệt
Khiến tôi yêu măi Nước cùng Non.
Ba tám năm rồi, người đă mất *
Giang sơn buồn quá... cũng như người!
Tôi và triệu triệu người xa xứ
Buồn quá cứ nh́n mây trắng trôi!
Tôi lật từng trang buồn kư ức
Từng trang nước mắt đọng bao giờ!
Một lần tháng sáu ngày hai chín
Tôi gởi về người: thân ái xưa!
Ba tám năm rồi, tôi mấy tuổi?
Người ơi... tôi biết người thiên thu!
Lê Hằng Minh hỡi, trên sông núi
Hồn xác người đâu? đang ở đâu?
Có thể đă tan cùng cát bụi?
Hay là đang quyện khói hương đây?
Trên đường trận mạc, người đi
tới
Áo trận bao lần mưa nắng phai...
Ba tám năm rồi như giấc mơ!
Non sông Tổ quốc... chuyện không ngờ!
Có người nhắc Huế rồi lau mắt
Nhắc những anh hùng, thôi, đủ chưa?
Lê Hằng Minh ở trong ḷng Huế
Cùng bạn bè đi vào sử xanh
Một nén hương thơm mà ấm nhỉ
Tôi đi khép lại cửa mông mênh!
Hồi năm tám tuổi, tôi đi lạc
Không gặp người th́ tôi ra sao?
Nhiều lúc giật ḿnh tôi nhớ lại:
Tuổi thơ là một giấc chiêm bao!
Người mất, tuổi tôi c̣n bé lắm
Bây giờ vẫn bé đến muôn năm
Nếu người c̣n sống tôi c̣n lạc
Lại được người d́u mỗi bước
chân?
Lê Hằng Minh hỡi! thương mến chú!
Những giọt lệ từ "cô bé xinh"
Xin rót xuống đây - ḷng biển cả
Ḷng người chan chứa một niềm tin
Rằng mai đất nước ḿnh tươi
thắm
Huế dựng uy nghi một tượng đài
Trong khói nhang thơm trùm quá khứ
Bao người vị quốc đă vong thân!
* (Trung Tá Lê Hằng Minh đă anh dũng hi sinh lúc 31
tuổi tại mặt trận miền Trung, Vùng I
Chiến thuật ngày 29 tháng 6 năm 1966).
CHÚT HƯƠNG TRONG GIÓ
Sáng, em nh́n một đám mây
Trời xanh, mây trắng, chút này đủ thương!
Gió như c̣n chở chút hương
Của hoa sứ trắng trong vườn mộng xưa...
Sáng mà sao em c̣n mơ
Ai kia trong đám lá chưa nhuộm vàng?
Nghĩ hoa sứ chắc giờ tan
Như mây trắng lát bay ngang mặt trời...
Ơi hoa sứ một thời ơi
Buồn trong con mắt cuối đời không chao?
Ai kia trong đám lá chào?
Không đâu! Gió động cành đào xuân duyên...
Trả cành hoa sứ cho em *
Trả luôn những bước chim chuyền b́nh minh!
Hỡi ơi em nói một ḿnh
Cành xuân gió động, giọt t́nh... là sương!
N.T.
* (hoa Sứ c̣n được gọi là hoa Đại)

ANH HÙNG VÔ DANH
Họ
là những anh hùng không tên tuổi
Sống âm thầm trong bóng tối mông mênh
Không bao giờ được hưởng ánh quang vinh
Nhưng can đảm và tận t́nh giúp nước.
Họ là kẻ tự ngh́n muôn thuở trước
Đă phá rừng, xẻ núi lấp rừng sâu
Và làm cho những đất cát hoang vu
Biến thành một dải sơn hà gấm vóc...
Họ là những anh hùng không tên tuổi
Trong loạn ly như giữa lúc thanh b́nh
Bền một ḷng dũng cảm chí hi sinh
Dâng đất nước cả cuộc đời
trong sạch.
Tuy công nghiệp không ghi trong sử sách
Tuy bảng vàng bia đá chẳng đề tên
Tuy mồ hoang xiêu lạc dưới trời quên
Không ai đến khấn nguyền dâng lễ vật
Nhưng máu họ đă len vào mạch đất
Thịt cùng xương trộn lẫn với non sông
Và anh hồn chung với tấm t́nh trung
Đă ḥa hợp làm linh hồn giống Việt.
Đằng Phương
V́ tôi là lính áo rằn
Ra đi nào biết mấy trăng mới về
(LHM- thơ khắc trên mộ)
1.
Đọc quyển sách nhỏ 50 trang này, quư vị và
các bạn sẽ cảm động.
Cô bé Ngọc Thủy 8 tuổi ngày xưa ở cư xá
Thành Tín, thích nhặt bông sứ trắng, "chưa
hiểu biết ǵ nhiều về chiến tranh".
Bỗng một hôm, cô bé đi lạc vào biến
cố đảo chánh Tổng Thống Ngô Đ́nh
Diệm ngày 1-11-1963.
"Một ḿnh bé nhỏ lạc lỏng bên cạnh
những người lính mặc áo trận rằn ri
chung quanh. Chẳng biết cơ duyên nào mà chú Minh
lại xuất hiện lúc ấy, đến vỗ
về trấn an cho tôi nín khóc. Chú hỏi nhà tôi ở
đâu để dắt tôi về hộ"
2.
"Chú Minh" chính là Cố Trung Tá Lê Hằng Minh,
Tiểu Đoàn Trưởng, Tiểu Đoàn 2 "Trâu
Điên", đơn vị lừng danh của binh
chủng Thủy Quân Lục Chiến. Ông Minh nổi
tiếng gan ĺ và dũng cảm. Cùng các đồng
đội, ông tung hoành trên nhiều chiến trận
hiển hách, xông pha lửa đạn, anh dũng ra vào
chốn sinh tử.
Ông Quan Cọp Biển Lê
Minh Hằng là em trai của Thiếu Tướng Lê Minh
Đảo, vị tướng oai hùng trên mặt
trận Xuân Lộc trong những giây phút tử thủ
cuối cùng, trước khi miền Nam sụp đổ
năm 1975.
Anh Cả Ḱnh Ngư Lê Minh Hằng được mô
tả như sau: tóc ngắn, mắt to sáng dịu
hiền, bộ râu mép rất xanh, nét mặt tràn đầy
nhựa sống, hồn nhiên , yêu đời, đánh
giặc hay như chơi đàn, giầu cảm t́nh và
nhân hậu, miệng cười rất có duyên, nụ
cười hiền hậu, đi đứng hiên ngang hùng
dũng.
"Có lẽ Lê Hằng Minh là người lính duy
nhất, dù ở hậu cứ hay bất cứ
tuyến đầu trận địa nào, đi đâu
cũng mang theo bên ḿnh cây đàn Guitar yêu quư. Hễ có
dịp dừng quân hay nghĩ ngơi là ông lại ôm
đàn thay cho tay súng, đánh lên những tiếng đàn
du dương trầm bổng cùng những ca khúc
tuyệt vời cho bạn bè binh lính thưởng
thức".
Trung Tá Lê Minh Hằng cũng là thi sĩ, nhạc sĩ,
tác giả các ca khúc "Hoa Cài Trên Súng (1959), Bơ Vơ
(1960), Người Anh Chinh Chiến (1964), Em Mùa Thu (1965),
Sao Buồn (1966).
Thuận Thành đất của Ba
Rạch Kiến quê hương Má
Quê nội quận Cần Đước
Bên ngoại làng Long Hoà
Sinh tại miền Gia Định
Việt Nam vạn nẽo đường
V́ sống cuộc đời Lính
Tôi có lắm quê hương
Lê Hằng Minh
(Quê Tôi)
3.
"Thế gian bất thiểu tài hoa khách", Ôi
người xưa đă khuất mà thiên thu vạn
tuế danh. 36 năm sau, cô bé Ngọc Thủy lưu
lạc ở hải ngoại, cơ duyên đưa đẩy,
bổng nhận ra "khuôn mặt sạm nắng",
"bộ ria mép rậm rạp" , nụ cười
thân ái quen thuộc của vị đại uư TQLC ngày
xưa:
"Chú Minh biết không, nh́n những bức h́nh
của chú trước mặt, cháu thấy lại nguyên
vẹn h́nh ảnh của người đại uư
trẻ đă nh́n cháu với nụ cười tŕu
mến vỗ về.
Và cháu vẫn là cô bé tám tuổi đi lạc ngày nàọ
Không có thời gian cách biệt. Nhưng có một điều,
cháu sẽ chẳng bao giờ gặp lại để
chú đánh đàn cho nghe, và những cánh hoa sứ ép
khô cùng hương hoa ngày cũ trên những trang sách
đẹp ngày xưa của cháu đă trôi lạc theo
gịng đời bể dâu đă từ lâu lắm
rồi.... Không t́m thấy nữa".
"Trung Tá Lê Hằng Minh đă anh dũng đền
xong nợ nước vào lúc 8 giờ 50 phút sáng tại
chiến trường miền Trung năm 31 tuổi, ngày
29 tháng 6 năm 1966, trong bao niềm tiếc thương
của bạn bè, thượng cấp và đồng
đội chiến hữu khắp các đơn vi".
"Những người con của Mẹ đă ra đi
và nằm xuống, nhưng khí hùng bất tử
của các anh vẫn là những giọt nắng vàng tươi
lấp lánh và chiếu sáng trong hồn Dân Tộc, trong
ḷng những người c̣n lại hôm nay và măi đến
muôn đời sau".
Người lính đó không về sau cuộc
chiến
Phố vẫn đông trong những ngày cuối
tuần
Ngôi giáo đường rung hồi chuông cầu
nguyện
Nửa cho chàng, nửa cho khắp Việt Nam
(Ngọc Thủy)
4.
36 năm sau, cô bé 8 tuổi ngày xưa trở thành văn
sĩ, thi sĩ , xướng ngôn viên khả ái, giám
đốc của chương tŕnh phát thanh Tiếng
Việt Mến Yêu trên làn sóng Radio AM 1430, tại Thung Lũng
Hoa Vàng San José. Chị Ngọc Thủy cũng là chủ
biên tạp chí văn học nghệ thuật Suối Văn.
"Bố tôi là người trong quân đội, nên
suốt đời thơ ấu của tôi lớn lên
gắn liền với mầu áo xanh và sự hào hùng
của các bác các chú chiến binh. Tôi yêu đời Lính
thật gần gũi và tự nhiên. V́ họ là
những h́nh ảnh quen thuộc hiện diện chung
quanh đời sống tôi từ lúc bé thơ".
Chỉ trong ṿng một tuần lễ, có cái ǵ thiêng liêng
mănh liệt thôi thúc chị Ngọc Thuỷ hoàn tất
nhanh chóng tập sách Một Thời Để Nhớ. Vói
cánh hoa tươi đẹp này, cháu xin gởi tặng
chú trong ngày giỗ thứ 36 của chú. 50 trang gom góp các
h́nh ảnh chiến tích oai hùng, với nhiều tài
liệu chi tiết "kính dâng anh linh các anh hùng tử
sĩ đă vị quốc vong thân, và anh linh người
anh hùng mũ xanh Lê Hằng Minh".
"Cuối tháng 6, gió Hạ Lào đang
thổivề như tiếng mẹ ru buồn bay lướt
trên những dăy đồi trọc trống vắng
quạnh hiụ Hồn anh du nhập theo bóng núi Trường
Sơn trùng trùng ngạo nghễ. Để lại xác
thân bên ven bờ Quốc Lộ 1 những niềm đau
nuối tiếc sống cuộc đời chưa
phỉ, chưa đành đoạn xa rời những người
thân yêu quư. Xin cho trôi ra gịng biển lớn bao la trước
mặt, rửa sạch hết những hờn đau
của 1 kiếp người".
Cố Trung Tá Lê Hằng Minh là biểu tượng
của những người thanh niên cuồng nhiệt yêu
nước, gươm đàn nửa gánh, non sông
một chèo. Họ đă đứng lên đáp lời
sông núi, tiếc ǵ thân sống. Họ là những người
lính Việt Nam Cộng Hoà rạng danh muôn thuở.
Bây giờ đă hết thời chinh chiến
Nghe khúc quân hành bỗng nhớ xưa
Ai đó bỏ thân ngoài chiến địa
Ngh́n thu c̣n ấm những Bài Thơ
(Ngọc Thủy)
Dọc Đường Quảng Trị (Bút Kư Ngọc
Thủy)
Pḥ Trạch - Phong Điền
những người
chiến sĩ, trên sông núi
hồn xác giờ đâu? đang ở đâu?
có thể đă tan cùng cát bụi?
hay là đang quyện gió mây đây?
n.t.
Ra khỏi thành phố Huế là con đường dài
ngút mắt màu xanh của đồng ruộng núi non.
Con đường quốc lộ I thênh thang đă
từng ôm dấu chân những người lính
chiến, chuyên chở bao linh hồn đă khuất
từ chiến cuộc hôm qua. Ḷng tôi bổng dưng
nao nao hồi hộp như nghe có tiếng ai gọi bên
đường, nhưng nh́n quanh quất chỉ
thấy cát bụi đang cuốn vồng sau lưng, phía
trước là dăy Trường Sơn nhập nḥa màu
lam tím thẫm xa xa. Tầm mắt tôi đi qua những
khu vườn cây lá đang đứng lặng buồn
cùng đất nghèo sỏi đá với vẻ hiền
ḥa an phận. Hóa ra con đường này dẫn đến
Quảng Trị, một nơi tôi chưa từng đặt
chân đến bao giờ nhưng vẫn thấy rất
gần gũi thân quen với những địa danh,
bởi nơi đây từng là địa đầu
hỏa tuyến với những trận đánh ác
liệt để đương đầu chặn
đứng cuộc xâm lăng của Cộng quân
Bắc Việt cách đây hơn ba mươi năm
về trước. Lúc ấy tôi c̣n nhỏ, được
sống an lành nơi thành phố Sàig̣n. Ṿng đai an
ninh được che chắn bảo bọc bằng
sự chiến đấu và hy sinh dũng cảm
của những người lính Quốc Gia miền Nam.
Tôi không được biết ǵ nhiều về
chiến cuộc thời gian lửa đạn đó, nhưng
tôi có nghe qua để thuộc nhớ và yêu quư
những cái tên Đông Hà - Quảng Trị - Thừa
Thiên - Ái Tử - La Vang - Mỹ Chánh - Cam Lộ - Gio
Linh... với biết bao sự khốc liệt, oai hùng mà
tôi cảm thấy rất xúc động và hănh
diện về những địa danh ghi lại
những chiến công lừng lẫy ấy như tôi
từng hănh diện tự hào về những bài
Quốc sử thời Lư - Trần - Lê - Nguyễn... có
những trận Bạch Đằng - Đống Đa
- Mê Linh - Vân Đồn - Chi Lăng - Nhật Tảo - Ba
Đ́nh...
Từ Huế ra Quảng Trị theo dọc đường
quốc lộ I năm xưa cũng đă ghi lại
những trận đánh hào hùng của Quân Đội
Việt Nam Cộng Ḥa như: Hạ Lào - Lam Sơn, A Lưới
- Khe Sanh, Cổ Thành Quảng Trị, A Shau, Mỹ Chánh -
Hải Lăng...
Mắt tôi vừa chạm đến hai chữ Phong
Điền khi xe vừa tiến vào thị xă này, tôi
liền nhớ ngay đến câu truyện Một
Thời Để Nhớ mà tôi đă viết về
trận phản phục kích lẫy lừng của
Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên Thủy Quân Lục
Chiến đă xẩy ra ở cầu Pḥ Trạch năm
1966.
Trên xe, ngoài một số người đang ngắm
cảnh hai bên đường như tôi, một số
đang ngủ gà ngủ gật v́ sáng thức sớm
để khởi hành nhanh, trong đó có Vũ là người
hướng dẫn viên cho đoàn. Tôi vội đứng
dậy, đi xuống cuối ḷng xe lay lay Vũ, anh chàng
bừng mắt dậy ngơ ngác, tôi liền hỏi: Vũ
ơi, đoạn đường này có đi ngang qua
cầu Pḥ Trạch không vậy? Vũ nhíu mày suy nghĩ:
Ơ... Vũ cũng không biết, chị Thủy có
cần ǵ không? Tôi nói mau: Nếu có đi ngang qua
cầu Pḥ Trạch, Vũ vui ḷng ngừng xe cho chị
xuống để chụp ở đó một tấm h́nh.
Chị cần chuyện đó, em giúp được không?
Vũ suy nghĩ vài giây rồi trả lời: Được
chứ, Vũ sẽ nói anh Thành ngừng lại chỗ
nào chị muốn xuống. Chị đă có sẵn máy
chụp h́nh chưa? Như cái máy, tôi bước lên vài
hàng ghế, chỗ anh chị Phương-Nhẫn
ngồi, hỏi ngay: Một lát nữa, xe ngừng, anh Phương
có thể chụp giúp hộ tôi mấy tấm h́nh
được không? Những người bạn đồng
hành của tôi sốt sắng nhận lời ngay
khiến tôi mừng quá v́ không ngờ hôm nay lại có
dịp đi ngang những nơi chốn ḿnh đă
từng viết qua nhưng thực sự chưa lần
nào được đặt chân tới bao giờ. Tôi
vội vàng đi nhanh lên hàng ghế trên, ngồi sau lưng
Thành, người tài xế trẻ tuổi lúc nào cũng
sẵn nụ cười hiền lành trên môi. Vừa chăm
chú theo dơi hai bên đường v́ thực sự,
cả tôi lẫn Thành đều không ai biết cầu
Pḥ Trạch nằm ở đâu, có trên đoạn
đường sắp đi tới hay không, vừa
chuyện tṛ mưa nắng với Phi Nga, người
bạn ở Pháp về Kinh Đô ánh sáng Ba Lê.
Quận lỵ Phong Điền khá rộng với
nhiều ấp xă, thôn Đại Lược, làng Đồng
Xuyên, Mỹ Xá.... Những lũy tre xanh vươn ḿnh
trong nắng vẫn không che dấu được nét
vẻ cằn khô của miền Trung nắng cháy, khó
nghèo dù có phá Tam Giang chảy xiết gịng nước
đổ dài từ bờ biển phía Đông. Tôi phóng
tầm mắt qua bên kia ḍng phá Tam Giang, nhớ tới
những câu thơ của thi sĩ Tô Thùy Yên mà mường
tượng đến bước quân hành của
những người lính chiến đă từng gian
khổ nơi đây:
’chiếc trực thăng bay là mặt nước
như cơn mộng nhanh
phá Tam Giang, phá Tam Giang
bờ băi hỗn mang, ḍng bát ngát
cát hôn mê, nước miệt mài trôi
ngó xuống cảm thương người lỡ bước
trời nước mênh mông, thân nhỏ nhoi
phá Tam giang, phá Tam Giang
nhớ câu ca dao sầu vạn cổ:
Phá Tam Giang ngày rày đă cạn!’
(Tô Thùy Yên)
Xe chạy bon bon trên đường trường
quốc lộ. Qua nhiều xóm làng, kênh rạch, cánh
đồng xanh cùng những băi cát dài trơ trụi.
Đây rồi, cây cầu dài phía trước có lẽ
là cầu Pḥ Trạch. Tôi khẽ đập vai Thành: Thành
ơi, xem kỹ có phải cây cầu này là Pḥ
Trạch th́ ngừng cho tôi xuống nhé. Tới gần,
tấm biển xanh lớn kẻ chữ trắng
nổi: Cầu Pḥ Trạch. Lư Tŕnh KM 794+394. Chiều Dài:
124.8m. Chiều Rộng: 12m. Xe ngừng lại ngay đầu
cầu. Tôi gọi anh Phương nhờ đem máy h́nh
theo rồi nhẩy xuống xe v́ biết tất cả các
loại xe không được phép ngừng nơi đây
nên phải vội vàng. Tôi đưa mắt ngó quanh.
Đây là chiếc cầu đúc mới, được
xây ngoài mặt lộ sau này. C̣n chiếc cầu
sắt cũ phía trong, nơi Tiểu Đoàn 2 Thủy
Quân Lục Chiến Trâu Điên bị Việt cộng
phục kích với một lực lượng và kế
hoạch quy mô gồm một Tiểu đoàn 800 chính quy
cùng du kích địa phương thuộc đơn
vị H99 trang bị nhiều vũ khí đại bác,
đại liên, súng cối v.v... bố trí dài 3 cây
số, mai phục sẵn hai bên đường từ
nửa đêm trước v́ biết tin Tiểu Đoàn
2 TQLC sẽ khởi hành từ Huế ra tăng phái cho Sư
Đoàn I Bộ Binh ngoài Quảng Trị - Đông Hà vào
rạng sáng ngày 29 tháng 6/1966. Thế là tôi cũng
từ Huế vượt qua ba mươi cây số trên
dọc đường số I để đến
được nơi xẩy ra trận đánh kinh hoàng
nhưng cũng thật lẫy lừng ngay bên cầu Pḥ
Trạch cách đây đúng ba mươi tám năm, cũng
vào một buổi sáng đầy ánh nắng vàng tươi
như hôm nay. Thật không ngờ, với những
cảm xúc đang dâng cao đến nghẹn ngào trong tôi.
Cách hai năm về trước cũng vào khoảng
thời gian này, tôi bắt đầu đặt bút
viết nên câu chuyện tưởng nhớ về
vị Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2 TQLC Lê
Hằng Minh đă anh dũng hy sinh tại nơi này
(29/6/66). Giờ đây trước mặt tôi, chiếc
cầu sắt cũ kỹ rỉ sét nằm chơ vơ
bên con rạch nhỏ, không người, xe qua lại
từ nhiều năm qua. Lặng lẽ âm thầm. Nhưng
đó là dấu tích đă ghi lại chiến công cùng
những cái chết oai hùng mà thời gian không bôi xóa
được. Cảnh vật c̣n nguyên như đang
sống dậy từng phút giây hùng tráng. Lùm cây cổ
thụ cao che bóng mát bên đường cũng đă
thấm bao gịng máu đổ. Không biết ngày đó
chú Minh đă ngă xuống bởi viên đạn xé nát
lồng ngực nằm ở đoạn đường
nào. Chắc chú chẳng ngờ, có một đứa bé
chú gặp lúc tám tuổi nay đă lớn lên với
gần bốn mươi năm sau, đang đứng
đây t́m lại h́nh ảnh chú hiên ngang chiến đấu
cùng quân giặc năm nào. Trong một thoáng ngắn,
những h́nh ảnh tôi đă dựa vào các lời
kể của những người trong cuộc hoặc
liên quan, tài liệu báo chí để viết dựng
lại những diễn tiến trận đánh trong câu
truyện ’Một Thời Để Nhớ’ chợt
hiện lên rơ từng chi tiết. Ḱa, đường
rầy xe lửa phía bên kia, nơi giặc chờ
sẵn để phục kích, đoàn xe của Tiểu
Đoàn Trâu Điên vừa tới, đạn từ
trong bắn ra xối xả như tên. Nhưng vị
Tiểu Đoàn Trưởng TĐ 2 đă cùng với các
đồng đội chiến hữu không hề nao núng,
quyết tiến xung phong, hàng hàng lớp lớp như
vũ băo, người và đạn phản công lại
chớp nhoáng như gươm bay. Quân địch rơi
rụng thảm thương, vội chém vè chạy lui
về phía núi Cận Sơn. Nhưng các lực lượng
TQLC Mỹ, Thiết Giáp và Tiểu Đoàn 5 Nhẩy Dù
đă kịp thời truy quét sạch. Dăy đồi
trọc phơi ḿnh trước mắt tôi, hóa ra cũng
có lúc là sự thật để đối diện
thật gần. Ai đi ngang đoạn đường
này có c̣n nhớ và biết chăng, vùng đất xám
hoang vu kia đă từng thấm trộn bao xương máu
của những người chiến sĩ đă đổ
xuống cho quê hương dân tộc được
tự do yên vui.
Gịng nước dưới chân cầu vẫn lặng
lờ trôi chảy. Cảnh bỗng trở nên buồn
hiu hắt trước ánh nắng soi chiếu quá tỏ
tường lên mảnh đất nghèo cằn khô chưa
đủ sức nuôi dưỡng ruộng đồng tươi
tốt ph́ nhiêu.
Gió im ĺm không lay động nổi hàng cây rung
tiếng lá. Nhưng sao ḷng tôi quá đỗi xao động,
bàng hoàng. Tôi ngó tới ngó lui, mắt muốn thâu nh́n
tất cả. Nhưng rồi cũng phải bước
nhanh lên xe, sợ mọi người phải chờ lâu
dù biết tất cả đều kiên nhẫn dành cho
tôi nhiều thông cảm.
Thôi từ biệt những người chiến sĩ
đă ở lại nơi này năm xưa. Đất
thiêng sẽ giữ lại hồn linh các vị để
sớm có một ngày cùng muôn dân nước Việt
dựng lại lá cờ Tổ Quốc thân yêu rạng
rỡ bay trong ánh nắng huy hoàng Tự Do.
Ḷng dấy lên bao cảm xúc đến nghẹn ngào, tôi
nhớ đến những câu thơ đă viết
tặng vị Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu
Đoàn 2 Trâu Điên TQLC cùng những vị anh hùng
đă hy sinh tuổi trẻ cùng xương máu cho
xứ sở Việt Nam:
’xin rót xuống đây ḷng biển cả
ḷng người chan chứa một Niềm Tin
rằng mai Đất Nước ḿnh tươi
thắm
Huế dựng uy nghi một tượng đài
trong khói nhang thơm trùm quá khứ
bao người Vị Quốc đă Vong Thân!’
n.t.
ngọc thủy
mùa hè 2004
|