Nguyên Đề Đốc Tư Lệnh Hải Quân V.N.C.H:TRẦN VĂN CHƠNĐiệp Mỹ Linh |
Tháng Năm, 2015, tôi sang California tham dự Đại
Hội Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân. Trong dịp
này, tôi được gặp lại và thăm hỏi
nhiều vị Cựu Chỉ Huy và rất nhiều
bạn hữu của Minh. Vài người bạn
hỏi tôi: “Minh chết rồi mà tại sao chị
c̣n ‘thương’ Hải Quân quá vậy?” Tôi
chỉ cười, không biết phải đáp như
thế nào! Khi cuộc vui tàn, trở về pḥng tại khách
sạn và suy nghĩ về câu hỏi của bạn
hữu, tôi mới nhớ rằng: T́nh cảm của tôi
dành cho Hải Quân không phải chỉ v́ Bố của
các con tôi – Cố Hải Quân Trung Tá Hồ Quang Minh –
là Hải Quân; mà mối t́nh cảm thánh thiện này
được khơi động từ hơn nửa
thế kỷ trước, trong vùng không gian lộng gió
của bờ biển Nha Trang cùng âm vang của sóng gào
ḥa lẫn với những bản hùng ca do Ban Quân
Nhạc Hải Quân ḥa tấu và cũng từ những
bộ quân phục tiểu lễ của Hải Quân. Thật vậy, để minh chứng, tôi xin
được trích một đoạn ngắn từ Tùy
Bút Tưởng Như Trở Về của Điệp
Mỹ Linh, được viết vào khoảng cuối
thập niên 70 hay là đầu thập niên 80 của
thế kỷ 20, trong tập truyện Tưởng Như
Trở Về: “… Cạnh những hàng thông này,
dạo vừa cùng gia đ́nh từ Dalat dời về
Nha-Trang, mỗi chiều chủ nhật, tôi thích đến
để nghe ban nhạc ‘Kèn Đồng’ (quân
nhạc) của Hải-Quân ḥa nhạc. Thỉnh thoảng khán giả cũng ‘nổi máu
nghệ sĩ’, t́nh nguyện hát một bản. Lúc
ấy tôi chỉ hơn mười tuổi. Nhưng khi
nghe một người hát ca khúc Viễn-Du tôi vẫn
hiểu bản ấy không nên hát với ban nhạc ‘Kèn
Đồng’ và trong khung cảnh này. Tuy vậy, lời ca, tiếng nhạc cũng
dẫn dắt hồn tôi đi thật xa. Nh́n trời
lồng lộng, nh́n biển mênh mông và nh́n quân
phục tiểu lễ trắng của nhạc công, tôi
thích. Tôi buồn. Và tôi ước mơ…” Sự vui thích, nỗi buồn không duyên cớ cũng
như niềm ước mơ xa vời của đứa
bé gái sắp bước vào tuổi “dậy th́”
cứ sống măi trong tôi. Đó là nguyên nhân xa và cũng
là nguyên nhân gần làm cho ng̣i bút của tôi lúc nào cũng
muốn gửi đến độc giả những nét
đẹp, nét lịch lăm cũng như ḷng quả
cảm và sự hào hùng của Hải Quân V.N.C.H. Đối với tôi, Hải Quân V.N.C.H. – từ
thủy thủ cho đến sĩ quan – đa số
đều có những đặc tính rất khác
lạ, rất đáng yêu và đôi khi đem nhiều
đau khổ đến cho những “chiếc neo cũ
kỷ” nơi “bến nhà”! Những đặc tính khác lạ của Hải
Quân là: Khi chơi th́ chơi hết ḿnh. Điều này có lẽ ít ai, dù là trong
hoặc ngoài gia đ́nh Hải Quân, có thể phủ
nhận được. Khi yêu th́ lăng mạn không ai bằng.
Vâng! Mỗi khi “chàng” làm điều chi mà thấy
“nàng” thoáng buồn hoặc có vẻ giận, “chàng”
chỉ cần “mượn” lời ca bài Hoa Biển
của Anh Thy để “ngân nga” nho nhỏ: “…Em
ơi! Giận hờn, xin như hoa sóng tan trong đại
dương…” hay là “chàng” hát nho nhỏ một
đoạn trong t́nh khúc Xin C̣n Gọi Tên Nhau của Trường
Sa “…Lời nào gian giối cũng xin qua rồi.
Để lỡ ngày sau khi ta cần nhau, c̣n đôi chút
êm vui ngày đầu, cho ḿnh măi gọi thầm tên nhau…”
th́ không một phụ nữ nào có thể không nguôi
buồn và không hết giận! Khi thi hành công vụ th́ nghiêm chỉnh và luôn
luôn nêu cao truyền thống.
Điều này được tất cả quân nhân các
cấp Hải Quân thể hiện một cách tuyệt
vời trong suốt thời gian di tản quân bạn và
đồng bào từ Vùng I và Vùng II Duyên Hải vào
Saigon, tháng 3 năm 1975; và suốt cuộc hải tŕnh
từ Saigon ra Côn Sơn rồi từ Côn Sơn đến
Guam vào cuối tháng 4 và đầu tháng 5 năm 1975. Khi đụng trận th́ tinh thần dũng
cảm của quân nhân Hải Quân cũng không thua
bất cứ một binh chủng thiện chiến nào
của Quân Lực V.N.C.H. Thật
vậy! Nếu Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù,
Biệt Động Quân, Bộ Binh, v.v… có những
trận đụng độ ác liệt với Việt
Cộng tại Cổ Thành Quảng Trị, Tử
Thủ An Lộc, Khê Sanh, Đồng Xoài, Pleime, v.v… th́
Hải Quân cũng đă góp công không nhỏ trong
những hải vụ tiếp cứu và hành quân
hỗn hợp với Bộ Binh và Địa Phương
Quân để giữ an ninh cho Vùng III và Vùng IV Sông Ng̣i
suốt cuộc chiến. Đến tháng 3 và tháng 4 năm
1975, máu lửa ngập trời trên Đường
Số 7, do cuộc rút quân khỏi vùng Cao Nguyên và các
cuộc lui binh dọc miền Duyên Hải th́ t́nh h́nh
chiến sự tại vùng III và Vùng IV Sông Ng̣i vẫn
“yên như bàn thạch”! Không một vị Tư
Lệnh Vùng III và Vùng IV Sông Ng̣i nào có thể phủ
nhận vai tṛ quan trọng của Hải Quân trong
sự b́nh yên tại Vùng III và Vùng IV Sông Ng̣i! Về những trận chiến dọc miền Duyên
Hải, suốt cuộc chiến – ngoài chiến
thắng phá hủy mật khu Vũng Rô và Duyên Đoàn
26 ở B́nh Ba, dưới sự chỉ huy của
Hải Quân Trung Úy Hồ Quang Minh – bắt được
2 ghe lớn của Trung Cộng giả ghe đánh cá, nhưng
dưới lườn ghe toàn là vũ khí hạng
nặng, Hải Quân V.N.C.H. c̣n có những đụng
độ dữ dội với Bắc quân trong những
trận sau đây: ·
Cửa Tiểu ngày
8/1/1966 ·
Cửa Bồ Đề
ngày 10/5/1966 ·
Ba Động ngày
20/6/1966 ·
Bồ Đề
lần thứ hai ngày 1/1/1967 ·
Mũi Ba Làng An
(Batangan) ngày 14/3/1967 ·
Sa Kỳ ngày 15/7/1967 ·
Đức Phổ ngày
1/3/1967 ·
Ḥn Hèo gần Nha
Trang ngày 1/3/1968 ·
Cửa Việt ngày
1/3/1968 ·
Bồ Đề
lần thứ ba ngày 1/3/1968 ·
Cửa Cung Hầu ngày
22/11/1970 ·
Gành Hào ngày 12/4/1971 Trận đụng độ cuối cùng là ngày
24/4/1972 khi HQ 4 đánh ch́m tàu địch, tại vùng
biển Phú Quốc. (1) Nếu đă đề cập đến
những trận đụng độ lớn với
Cộng Sản Việt Nam dọc bờ biển Nam
Việt Nam mà không đề cập đến trận
thư hùng giữa Hải Quân V.N.C.H. với “bậc
thầy” của Việt Cộng – là Hải Quân Trung
Cộng – th́ bài viết này sẽ phạm một
lỗi lớn ! Tôi muốn đề cập đến Trận
Hải Chiến Hoàng Sa mà nhiều ng̣i bút Hải Quân
Việt Nam và Tây Phương đă tường tŕnh, b́nh
luận và phân tích. Một trong những bài b́nh luận về
trận hải chiến Hoàng Sa đă tạo nhiều
tranh căi và phản biện là bài của nhà báo chuyên
nghiệp Bill Hayton; v́ tính cách thiên vị và không
được kiểm chứng tường tận
của Bill Hayton. Kính mời quư độc giả vào link dưới
đây để đọc bài Điệp Mỹ Linh
phản bác bài viết của nhà báo Bill Hayton về
những nhận xét thiếu trung thực của Ông
đối với trận Hải Chiến Hoàng Sa cũng
như đối với Người Lính V.N.C.H. – nói
chung – và Hải Quân V.N.C.H., nói riêng: http://www.diepmylinh.com/gop-y-voi-bill-hayton Trận Hải Chiến Hoàng Sa được
đặt dưới quyền chỉ huy trực
tiếp của Tư Lệnh Vùng I Duyên Hải – Phó
Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại –
với sự yểm trợ của Tư Lệnh
Hải Quân Trần Văn Chơn. Tôi được hân hạnh quen biết Cựu
Phó Đề Đốc Thoại; v́ Minh đă phục
vụ tại vài đơn vị dưới sự
chỉ huy của Cựu Phó Đề Đốc
Thoại khi Ông c̣n là Trung Tá Chỉ Huy Trưởng Duyên
Khu II. Về sau, theo đà lớn mạnh của Hải
Quân, Duyên Khu II được đổi thành Vùng II Duyên
Hải. Và tôi được hân hạnh gặp Cựu
Đề Đốc Trần Văn Chơn, lúc Ông c̣n là
Hải Quân Đại Tá, vào dịp Giang Đoàn 30 Xung
Phong – dưới sự chỉ huy của Hải Quân
Đại Úy Hồ Quang Minh – tổ chức tiệc
khao quân mừng chiến thắng Tam Giác Sắt. Bữa tiệc khao quân được tổ
chức rất trang trọng tại Câu Lạc Bộ
Nổi của Hải Quân. Minh bảo tôi phải góp vui
với nhân viên Giang Đoàn 30. Tôi độc tấu
Accordéon bài luân vũ Le Beau Danube Bleu của John Strauss. Sau khi đàn xong, tôi chưa kịp mang lại
đôi găng tay, Minh đến, bảo tôi phải
“tŕnh diện” Tư Lệnh Trần Văn Chơn! Thấy Minh và tôi bước đến bàn, Tư
Lệnh Trần Văn Chơn đứng lên. Thái độ
lịch sự của Tư Lệnh chinh phục ngay ḷng
quư mến của tôi. Minh đứng nghiêm, đưa
tay phải lên, chào. Sau khi Minh giới thiệu tôi, tôi cúi
chào Tư Lệnh với tất cả sự kính
trọng. Tư Lệnh Trần Văn Chơn hỏi thăm
tôi và các con tôi, rồi, thật bất ngờ, Ông xoay
sang, “dũa” Minh: “Chú mày có vợ đẹp,
con ngoan, vợ có tài th́ chú mày lo tu tỉnh đi, nghe
chưa?” Minh đứng “thẳng băng”, không dám
“nhúc nhích”! Trên đây là một kỷ niệm khó quên. Nhưng
kỷ niệm khiến Minh và tôi cảm động
nhất lại là, năm 1995, sau khi được
Cộng Sản Việt Nam trả tự do, Cựu Đề
Đốc Trần Văn Chơn đến Mỹ,
Hội Hải Quân tại Houston mời Ông đến
viếng Houston. Ban Tổ Chức hỏi Cựu Đề
Đốc Chơn, thời gian ở Houston, Ông muốn
ngụ tại khách sạn hay là muốn ngụ lại
nhà ai? Cựu Đề Đốc Chơn đáp,
muốn ở lại nhà Hồ Quang Minh. Thời gian Cựu Đề Đốc Chơn
ngụ tại nhà tôi, mỗi ngày Hội Hải Quân
nhờ người đưa đón Ông đi chơi
khắp nơi trong thành phố Houston; v́ Minh và tôi
phải đi làm. Minh bảo tôi tổ chức một
bữa tiệc vào cuối tuần để Cựu
Đề Đốc Chơn mời những người
bạn thâm giao của Ông; Minh và tôi cũng được
dịp mời bạn hữu của chúng tôi. Để chuẩn bị cho bữa tiệc nơi
deck, ngoài sân sau, Minh lo don dẹp và tôi lo nấu
ăn. Cựu Đề Đốc Chơn từ trên
lầu đi xuống, thấy tôi đang xắt lạp
xưởng, Ông cười, kể cho Minh và tôi nghe
về những ngày Ông ở tù Cộng Sản. Cựu Đề Đốc Chơn kể, lần
đầu tiên được Phu Nhân thăm nuôi, Ông
thấy Bà đem cho Ông mấy cặp lạp xưởng.
Tên quản giáo lục xét giỏ thức ăn từ
tay Bà rồi quát : “Đem nến làm ǵ mà đem
lắm thế ? Ở đây có đèn chứ không hay
sao mà đem nến?” Minh và tôi cười. Cựu
Đề Đốc Chơn bảo: “Đừng!
Đừng cười! Người ta dốt nát, nghèo
khổ, không biết món ăn, nên thương hại
người ta. Đừng cười!” Từ chi tiết này, tôi nhận thấy, cựu
Tư Lệnh Trần Văn Chơn là một Vơ Tướng
nhưng Ông lại có tâm hồn cao thượng và ḷng
độ lượng hơn cả vài Thiền Sư và
Linh Mục! Và lư do tôi viết về cựu Tư Lệnh
Trần Văn Chơn chính là sự cao thượng và
ḷng bao dung của Ông. Sau khi t́m hiểu, tôi được biết: Năm
1938, ông Trần Văn Chơn nhập học khóa Cơ
Khí Hàng Hải thuộc Trường Ecole Rosel – sau
đổi tên là Ecole Technique Speciale; rồi lại đổi
thành Trường Kỹ Thuật. Năm 1941, Ông tốt
nghiệp bằng Kỹ Thuật và tiếp tục
học khóa Vô Tuyến Truyền Tin Hàng Hải. Năm
1942 Ông tốt nghiệp khóa Vô Tuyến Truyền Tin Hàng
Hải và hành nghề sĩ quan trên các thương
thuyền. Năm 1948, ông Trần Văn Chơn theo học khóa
Hàng Hải, thuộc Trường Kỹ Thuật cùng
với ông Nguyễn Văn Thiệu, ông Lâm Ngươn
Tánh và ông Chung Tấn Cang. Sau khi tốt nghiệp
bằng Thuyền Trưởng, ông Nguyễn Văn
Thiệu ghi danh vào khóa đầu tiên tại Trường
Vơ Bị Huế – tiền thân của Trường Vơ
Bị Dalat – và sau này ông Nguyễn Văn Thiệu
trở thành Tổng Thống V.N.C.H. Ông Lâm Ngươn Tánh,
ông Chung Tấn Cang và ông Trần Văn Chơn hành
nghề Hàng Hải Thương Thuyền. Sau nhiều năm phục vụ trên các thương
thuyền, ông Trần Văn Chơn cùng ông Chung Tấn
Cang và ông Lâm Ngươn Tánh được tuyển vào
khóa I sĩ quan Hải Quân Nha Trang. V́ Trường xây
cất chưa xong cho nên sinh viên khóa I – gồm 9 người
– phải tạm trú và học hành trên Hàng Không
Mẫu Hạm Arromanches của Hải Quân Pháp. Ông Trần Văn Chơn đỗ thủ khoa khóa
I sĩ quan Hải Quân Nha Trang. Ông là sĩ quan Hải Quân
Việt Nam đầu tiên được du học và
tốt nghiệp trường Hải Chiến Hoa Kỳ
(Naval War College) ở Newport, Rhode Island. Trong thời gian là Tư Lệnh Hải Quân, Đề
Đốc Trần Văn Chơn đă có sáng kiến và
đôn đốc việc xây Tượng Đài Đức
Thánh Tổ Trần Hưng Đạo tại bến
Bạch Đằng, Saigon. Công tŕnh xây dựng Tượng
Thánh Tổ cũng được sự yểm trợ
của Hội Thánh Trần Hưng Đạo. Tượng
do điêu khắc gia Pham Thông thiết kế và thực
hiện. (2) Tháng Tư năm 1975, v́ ḷng hiếu đạo
đối với Cha Mẹ, Cựu Đề Đốc
Trần Văn Chơn đă không di tản – dù Ông
đă được Hoa Kỳ thông báo là sẽ
cấp phương tiện hàng không để Ông cùng
gia đ́nh ra đi. Không bao giờ Ông ân hận, mà ngược
lại, Ông rất vui ḷng về quyết định không
di tản để thể hiện ḷng hiếu thảo
của Ông đối với Song Thân; dù sau đó Ông
bị Cộng Sản Việt Nam cầm tù gần 13 năm! Sau khi măn tù Cộng Sản, Ông định cư
tại Mỹ, California. Để trau dồi kiến
thức, Ông trở lại học đường
với số tuổi ngoài 70! Ông
tốt nghiệp ngành Interdisciplinary Studies tại San
Jose/Evergreen Community College và chuyển qua San Jose State
University, học về Political Science. Ngoài
ra, Ông cũng tham dự hầu như tất cả
mọi sinh hoạt trong cộng đồng và các
hội đoàn Quân, Cán, Chính thuộc Thành phố San
Jose và Quận Santa Clara. Năm
2014, Ông được bà Cindy Chavez – Supervisor of Santa
Clara County – trao tặng Certificate of Recommendation. Năm
2015, Ông nhận được Certificate of Special
Congressional Recognition của U.S. House of Representatives do bà Zoe
Lofgren trao tặng. Ông
là Cựu Tư Lệnh Hải Quân V.N.C.H. được
Hải Quân Hoa Kỳ mời tham dự buổi lễ
đặt tên cho Khu Trục Hạm tối tân USS Zumwalt,
ngày 19 tháng 10 năm 2013, tại Bath Iron Work, tiểu bang
Maine. Khu
trục hạm Zumwalt (DDG – 1000) do Tư Lệnh Hải
Quân thứ 19 của Hải Quân Hoa Kỳ – Đô
Đốc Elmo Zumwalt – thiết kế. Đô Đốc
Elmo Zumwalt nguyên là cố vấn của Tư Lệnh
Hải Quân Trần Văn Chơn trong thời kỳ
chiến tranh Việt Nam. (3) Đề
Đốc Trần Văn Chơn và người bạn
cùng khóa I sĩ quan Hải Quân – Cố Đô Đốc
Chung Tấn Cang – là 2 vị sĩ quan được
bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Hải
Quân hai lần. Trong thời gian tại chức, cả
hai vị Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn
và Tư Lệnh Hải Quân Chung Tấn Cang, mỗi
vị đều lưu dấu rất đặc
biệt vào Quân Sử Hải Quân V.N.C.H. cũng như
lịch sử Việt Nam cận đại. Đó
là Trận Hải Chiến Hoàng Sa, xảy ra khi Đề
Đốc Trần Văn Chơn là Tư Lệnh
Hải Quân; và Hải Quân Việt Nam Cộng Ḥa Ra Khơi,
1975 do quyết định thức thời, sáng suốt
cũng như sự đôn đốc của Phó Đô
Đốc Tư Lệnh Hải Quân Chung Tấn Cang. (4) Xin
trở lại với Đề Đốc Trần Văn
Chơn và Trận Hải Chiến Hoàng Sa. Trong
khi những biến động đang xảy ra tại
Vùng I Duyên Hải và Hoàng Sa th́ Hải Quân Đại Tá
Nguyễn Văn Thiện – Chỉ Huy Trưởng
Hải Đội II Chuyển Vận – đang trợ
giúp Hạm Trưởng Hải Vận Hạm Hậu
Giang, HQ406, để xem xét, điều động
việc sửa chữa hầm nước phía trước
của HQ406, do giông gió lớn đẩy HQ406, làm
bể lườn chiến hạm khi chiến hạm
đang đỗ quân cụ tại Chutt, Nha Trang. Đang
thực hiện công tác cứu chiến hạm HQ406,
Đại Tá Thiện được Hải Quân Đại
Tá Lê Hữu Dơng – Tư Lệnh Phó Vùng II Duyên
Hải – thông báo rằng có công điện gọi
Đại Tá Thiện ra Đà Nẵng để tŕnh
diện Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn Chơn.
Nhưng, v́ t́m không được phương tiện
đi Đà Nẵng, Đại Tá Thiện bay về
Saigon tŕnh diện Phó Đề Đốc Diệp Quang
Thủy – Tham Mưu Trưởng Hải Quân – rồi
nhận sự vu lệnh đi Đà Nẵng. (5) Ngày
17/1/74 Đề
Đốc Lâm Ngươn Tánh – Tư Lệnh Phó
Hải Quân – đi Đà Nẵng, Vùng I Duyên Hải,
về vấn đề Hoàng Sa. Đề
Đốc Tư Lệnh Hải Quân Trần Văn
Chơn cũng chuẩn bị đi Đà Nẵng; v́ t́nh
h́nh quân sự tại Hoàng Sa đang sôi động! Nhưng,
Ông nhận được điện thoại từ
Hải Quân Đại Tá Trần Thanh Điền – tùy
viên của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu –
thông báo rằng Thổng Thống muốn gặp Đề
Đốc Chơn vào sáng hôm sau tại Dalat. Đề
Đốc Trần Văn Chơn dời chuyến đi
Đà Nẵng lại để sáng hôm sau Ông có
mặt tại Dalat, tham dự Lễ Măn Khóa 26 Vơ Bị
Quốc Gia Việt Nam với Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu. Ngày
18/1/1974 Tại
Dalat, nơi Vũ Đ́nh Trường Lê Lợi Trường
Vơ Bị Quốc Gia Việt Nam, trước sự
chủ tọa của Tổng Thống V.N.C.H. Nguyễn Văn
Thiệu và các quan khách, 175 sinh viên sĩ quan khóa 26 –
khóa Nguyễn Viết Thanh – đă tuyên thệ để
trở thành tân sĩ quan hiện dịch; 22 tân
Thiếu Úy về phục vụ Hải Quân; 15 tân sĩ
quan về Không Quân; số sĩ quan c̣n lại
được phân phối đến các binh chủng và
sư đoàn. (6) Sau
lễ măn khóa 26 tại Trường Vơ Bị, Đề
Đốc Trần Văn Chơn trở về Saigon. Sáng
19/1/74 Đề
Đốc Trần Văn Chơn đi Đà Nẵng. Trận
Hải Chiến tại Hoàng Sa kéo dài – khoảng 30 phút
– trong thời gian phi cơ đang đưa Đề
Đốc Trần Văn Chơn từ Saigon đến
Đà Nẵng! Khi
phi cơ đưa Đề Đốc Chơn và đoàn
tùy tùng, gồm có Hải Quân Đại Tá Vơ Sum,
Hải Quân Đại Tá Nguyễn Ngọc Quỳnh,
Hải Quân Thiếu Tá Văn Trung Quân – tùy viên
của Đề Đốc Chơn – và Trung Sĩ Trương
Sở Phước cùng vài hạ sĩ quan và binh sĩ
Hải Quân đến phi trường Đà Nẵng th́
Trận Hải Chiến Hoàng Sa đă kết thúc! Đón
Tư Lệnh Trần Văn Chơn tại phi trường
Đà Nẵng có Đề Đốc Tánh và Phó Đề
Đốc Thoại. Sau
khi đưa Đề Đốc Chơn đến Căn
Cứ Hải Quân Đà Nẵng, Phó Đề Đốc
Thoại thuyết tŕnh về trận chiến và tŕnh
với Đề Đốc Chơn rằng chính Phó
Đề Đốc Thoại và Hải Quân Đại
Tá Hà Văn Ngạc quyết định tấn công trước
để tránh thiệt hại.(7) Đề
Đốc Chơn chỉ thị Phó Đề Đốc
Thoại ra lệnh cho các chiến hạm và chiến
đỉnh đang hoạt động ngoài biển
cố gắng t́m kiếm và cấp cứu những
chiếc bè đă rời khỏi Trợ Chiến
Hạm Nhựt Tảo, HQ10. Hai
mươi ba quân nhân Hải Quân Việt Nam trôi dạt
trên bè được tàu dầu của hăng Shell, Ḥa
Lan vớt. Ngày
20/1/1974 Khoảng
7 hoặc 8 giờ sáng, Tuần Dương Hạm Lư Thường
Kiệt, HQ16 – đă bị trúng hải pháo của
Trung Cộng tại Hoàng Sa – vào vịnh Tiên Sa Đà
Nẵng. Nhưng, v́ độ nghiêng của chiến
hạm vượt quá mứt an toàn, Hạm Trưởng
Lê Văn Thự không thể vận chuyển cặp
cầu được. Bộ Tư Lệnh Hải Quân
Vùng I Duyên Hải phải nhờ tàu ḍng của Ty Thương
Cảng Đà Nẵng, kẹp ngang hông HQ16 mà cặp
cầu quân cảng Đà Nẵng. (8) Thương
binh được đưa đến quân y viện
Duy Tân, Đà Nẵng để điều trị. Đề
Đốc Chơn, Đề Đốc Tánh, Phó Đề
Đốc Thoại, Đại Tá Thiện, Đại Tá
Quỳnh, Hải Quân Trung Tá Huỳnh Duy Thiệp – giám
đốc Thương Cảng Đà Nẵng –
Thiếu Tá Quân cùng nhiều sĩ quan khác lên chiến
hạm Lư Thường Kiệt ngợi khen thủy
thủ đoàn và đến quân y viện Duy Tân thăm
hỏi và an ủi thương binh. Ngày
21/1/1974 và 22/1/1974 Đề Đốc Trần Văn Chơn
cũng vẫn cùng các sĩ quan tiếp tục thăm
viếng và an ủi thương binh – cả Hải Quân,
Người Nhái, Địa Phương Quân, Thủy Quân
Lục Chiến, v.v… Ngày
23/1/1974 Đại
Tá Trần Thanh Điền điện thoại tŕnh cho
Đề Đốc Chơn hay rằng sẽ có
buổi họp Tư Lệnh các quân binh chủng vào ngày
mai, tại Phan Thiết. Đề
Đốc Tánh và Phó Đề Đốc Thoại
tiễn Đề Đốc Chơn, Đại Tá
Quỳnh cùng phái đoàn đến tận cửa
chiếc Caribou thuộc Phi Hành Đoàn Phi Đoàn 427.
Đại Úy Nguyễn Ngọc Kim là Trưởng phi cơ
và Thiếu Úy Tấn là Copilot. (9) Gần
tới không phận Biên Ḥa, bất ngờ Thiếu Tá
Quân thấy ánh lửa bừng sáng bên cánh phải
của phi cơ và nghe tiếng nổ; v́ phi cơ kín gió
– airtight – cho nên không thể nghe rơ được.
Phi cơ rung chuyển, lắc mạnh, chao đảo vài
phút rồi lấy lại thế cân bằng, bay
tiếp. Đến
không phận Biên Ḥa, phi công đáp xuống phi trường
Biên Ḥa. Sau khi phi cơ dừng tại phi đạo th́
máy tắt, không di chuyển được! Phi công
từ cửa trên nh́n ra, thấy máy bên phải bị
vỡ tung. Phi công cho biết rất may mắn, nhờ dây
cable lái không bị đứt cho nên phi cơ
vẫn c̣n điều khiển được và đáp
an toàn. Đề
Đốc Chơn và tất cả mọi người cùng
chụp h́nh trên cánh phi cơ bị trúng đạn,
để lưu niệm.
Bài viết này chỉ với mục đích nêu lên
những chi tiết có thật từ tài liệu và tư
liệu của những nhân chứng hiện c̣n
sống để làm sáng tỏ nhiều chi tiết quan
trọng mà vài cuốn sách cũng như những bài
viết về Trận Hải Chiến Hoàng Sa đă –
hoặc cố ư hoặc vô t́nh – không đề
cập đến. Trong khi truy t́m tài liệu và tư liệu để
viết bài này – cũng như suốt thời gian dài
phỏng vấn rất nhiều sĩ quan, hạ sĩ
quan và thủy thủ để thực hiện cuốn
Tài Liệu Lịch Sử Hải Quân V.N.C.H. Ra Khơi,
1975 – tôi được biết rằng quân nhân các
cấp thuộc quân chủng Hải Quân V.N.C.H. đều
dành cho Cựu Tư Lệnh Hải Quân V.N.C.H. Trần Văn
Chơn rất nhiều thiện cảm và ḷng quư
trọng.ĐIỆP MỸ LINH
|