QUÂN
LỰC HOA KỲ TẠI HẢI NGOẠI TỔNG QUÁT Nguyễn Mạnh TRí |
Quân đội Hoa Kỳ hay Các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ (tiếng Anh: United States Armed Forces) là tổng hợp các lực lượng quân sự thống nhất của Hoa Kỳ. Các lực lượng này gồm có Lục quân, Hải quân, Thủy quân lục chiến, Không quân, Tuần duyên và Lực lượng Vũ trụ.
US
Armed Forces Hoa
Kỳ có một truyền thống dân sự kiểm soát
quân sự mạnh mẽ. Trong lúc Tổng
thống Hoa Kỳ là người lãnh đạo
tổng thể về quân sự thì Bộ
Quốc phòng Hoa Kỳ, một bộ hành chính liên
bang, đóng vai trò là cơ quan chính nơi mà các chính sách
quân sự được thực hiện. Bộ
Quốc phòng Hoa Kỳ do Bộ
trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ lãnh đạo.
Bộ trưởng là một người thuộc
giới dân sự và là một thành viên trong Nội
các Hoa Kỳ. Bộ trưởng cũng phục
vụ trong vai trò tư lệnh quân sự đứng
thứ hai sau Tổng thống Hoa Kỳ. Để điều
phối hành động quân sự với ngoại
giao, Tổng thống Hoa Kỳ có một Hội
đồng An ninh Quốc gia với một
vị cố
vấn an ninh quốc gia lãnh đạo để
hội ý. Cả Tổng thống Hoa Kỳ và Bộ trưởng
Quốc phòng Hoa Kỳ được cố vấn
bởi một Bộ
Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ gồm sáu
thành viên là lãnh đạo của các quân
chủng. Bộ Tổng tham mưu Liên quân Hoa Kỳ
do Tổng
Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ lãnh đạo. Tất
cả năm quân
chủng được đặt dưới
quyền hướng dẫn của Bộ Quốc Phòng,
trừ Tuần
duyên Hoa Kỳ được đặt dưới
quyền của Bộ
Nội An Hoa Kỳ vào năm 2003 sau khi có việc
tái tổ chức chính phủ theo sau vụ
tấn công khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001.
Tuần duyên Hoa Kỳ có thể được thuyên
chuyển sang Bộ
Hải quân Hoa Kỳ theo lệnh của Tổng
thống hay Quốc
hội Hoa Kỳ trong thời chiến. Tất
cả năm lực lượng vũ trang là trong
số 7
lực lượng đồng phục của Hoa Kỳ;
hai lực lượng còn lại là Đoàn
Ủy nhiệm Y tế Công cộng Hoa Kỳ và Đoàn
Ủy nhiệm Quản trị Khí quyển và Đại
dương Quốc gia. Từ
lúc lập quốc, quân sự đã đóng vai trò
quyết định trong lịch
sử Hoa Kỳ. Ý nghĩa mang tính định hình và
sự thống nhất quốc gia đã được
hình thành từ các chiến thắng như các cuộc
chiến chống hải tặc Barbary cũng như Chiến
tranh 1812. Mặc dù vậy, những người sáng
lập ra Hoa Kỳ vẫn nghi ngờ về một
lực lượng quân sự thường trực (vì
lo sợ một kẻ độc tài nào đó có
thể dùng lực lượng quân sự để thao
túng đất nước) cho đến khi Chiến
tranh thế giới thứ hai bùng nổ thì
một quân đội hiện dịch lớn mạnh
mới được chính thức thiết lập Đạo
luật An ninh Quốc gia Hoa Kỳ 1947, được
thông qua sau Chiến
tranh thế giới thứ hai và trong thời gian
bắt đầu xảy ra Chiến
tranh lạnh, đã tạo nên khung sườn cho Quân
đội Hoa Kỳ hiện đại. Đạo
luật này đã sáp nhập các bộ cấp nội
các là Bộ
Chiến tranh Hoa Kỳ và Bộ
Hải quân Hoa Kỳ thành Tổ
chức Quân sự Quốc gia (sau đó đổi
tên thành Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ vào năm 1949).
Nguồn nhân lực của Quân đội Hoa Kỳ là
từ con số lớn những người tự
nguyện phục vụ mặc dù chính sách quân dịch
cũng từng được sử dụng nhiều
lần trong quá khứ cả thời chiến cũng như
thời bình nhưng nó đã không được dùng
kể từ năm 1972. Tính đến năm 2020, Hoa
Kỳ có 1,377,863 quân nhân hiện
dịch, 849,450 quân nhân trừ
bị, chi tiêu khoảng 721.5 tỷ USD, 3.42% GPD (2019)
mỗi năm để tài trợ cho các lực lượng
quân sự của mình, chiếm khoảng 42 phần
trăm chi tiêu quân sự thế giới. Tính chung, các
lực lượng vũ trang Hoa Kỳ sở hữu
số lượng lớn các trang bị mạnh và tiên
tiến mà giúp cho họ khả năng lớn cả
về phòng thủ và tấn công. QUÂN LỰC HOA KỲ TẠI HẢI NGOẠI
(Tất
cả con số dưới đây đề trích
từ US Military Deployment – From
Wikipedia, the free encyclopedia và Where
U.S. troops and military assets are deployed in the Middle East from Rashaan
Ayesh
- Axios dated 8/1/2020) Tính đến
đầu năm 2020, quân đội Hoa Kỳ đồn
trú tại 170 quốc gia với 170,000 quân trên
800
căn cứ quân sự trên thế giới. Đó là
chưa kể khoảng 40,000 nhân viên dân sự mà Hoa Kỳ
từ chối công bố chi tiết. Ba nơi có quân
số đông nhất là 55,165 tại Nhật Bản,
34,674 tại Đức
Quốc và 26,184 tại Hàn Quốc. Đó là chưa
kể 14,000 quân tại Afghanistan và 5,200 quân tại Iraq.
Các số liệu này thường thay đổi vì các
đơn vị luôn được triển khai và rút
đi thường xuyên. Tổng cộng có chừng
131,435 tại Đông
Á - Đông Nam Á và Thái Bình Dương, 63,361 quân nhân
đóng quân tại châu
Âu, hơn 13,109 tại Tây Á, Trung Á, Nam Á, Phi Châu
và Ấn Độ Dương. Căn
cứ hải ngoại lớn nhất là ở Yokosuka, Nhật
Bản, nơi đây
phục vụ như cảng nhà cho hạm đội
triển khai tiền phương lớn nhất và là căn
cứ hoạt động của Đệ 7 Hạm
đội của Hải quân Hoa Kỳ. Vào đầu năm
2013 thì 42 trong số 52 tàu hải quân của Mỹ
hoạt động tại vùng Viễn
Đông dùng căn
cứ Yokosuka, Guam và Singapore.
Căn
cứ Hải quân Yokosuka của HQHK tại Nhật
Bản Theo
Bộ Quốc phòng Mỹ, tổng chi phí cho các căn
cứ nước ngoài và việc triển khai quân
tới đây là 24.4 tỷ USD trong năm tài khóa 2020.
Con số này chưa tính tới chi phí cho các hoạt
động chiến đấu đang diễn ra tại
Iraq và Afghanistan. Kể từ khi ông Donald Trump khởi
động chiến dịch tranh cử Tổng thống
Mỹ vào năm 2015, ông đã chỉ trích số
tiền mà các đồng minh của Mỹ đóng góp
cho việc bảo vệ chính họ. Ông đòi hỏi
các đồng minh cần sự bảo vệ của quân
lực Hoa Kỳ phải trả toàn chi phí cho sự
hiện diện của Hoa Kỳ, cọng thêm 50%
tiền phụ trội về việc nhờ vả
sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Đây là vấn
đề tế nhị đòi hỏi sự thông
cảm và tương nhượng của cả 2 bên trên
cả 2 phương diện kinh tế và quân sự
trong quan hệ chiến lược. Người
dân ở các nước khác nhìn nhận thế nào
về sự hiện diện của quân đội
Mỹ:
Năm
2018, một cuộc điều tra đã được
thực hiện ở 14 nước, bao gồm Nhật
Bản và Hàn Quốc, với khoảng 1,000 người
được hỏi ở mỗi nước. Người
dân ở các nước này nói chung cảm thấy tích
cực hoặc có thái độ trung lập về quân
nhân Mỹ đồn trú tại đây. Những người
có tiếp xúc trực tiếp với quân nhân Mỹ
hoặc có gia đình và bạn bè tương tác
với lực lượng này thường có xu hướng
nói tốt về quân Mỹ. Ngoài ra, khoảng 10-20%
số người được hỏi cho hay đã
nhận được lợi ích tài chính từ sự
hiện diện của quân đội Mỹ. Điều
này có thể bao gồm việc các quân nhân Mỹ
sử dụng dịch vụ từ các doanh nghiệp
của họ hoặc bản thân họ được
quân đội Mỹ tuyển dụng. Tất nhiên quan
điểm của người dân địa phương
là đa dạng. Đã có những phong trào phản
đối lính Mỹ trên đảo Okinawa của
Nhật Bản, quanh căn cứ không quân Ramstein
của Đức, và ở cả Hàn Quốc. Mỹ càng
yêu cầu các nước chủ nhà chi trả cho
sự hiện diện của họ thì các chính trị
gia ở các nước đó càng ít ủng hộ
việc duy trì thỏa thuận giữa đôi bên. Biểu
tình của dân chúng Nhật tại Okinawa Quân lực Hoa
Kỳ tại Trung Đông: Hoa
Kỳ đã duy trì sự hiện diện tốn kém
nhất tại Trung Đông trong những thập niên
vừa qua với ít nhất là 60,000 quân trực
thuộc United States Central Command. Theo tờ New York Times, binh sĩ
Mỹ tại Trung Đông đang chuẩn bị cho tình
huống xấu nhất. Lầu Năm Góc đang xúc
tiến việc đưa thêm 4,500 quân tới Iraq và
Kuwait do căng thẳng gần đây có liên quan đến
Iran. Ngoài việc tăng quân,
Mỹ còn điều đến khu vực nhiều vũ
khí chiến lược như máy bay tuần thám,
hệ thống phòng không Patriot, máy bay ném bom chiến lược
B-52, tiêm kích tàng hình F-22 … Từ
nhiều thập niên Mỹ đã xây dựng một
hệ thống đồng minh rộng lớn ở Trung
Đông đủ sức đáp ứng những thách
thức chiến lược của Mỹ trong khu
vực. Tuy nhiên, trang web lesclesdumoyenorient.com nhận định
dù vậy, nếu xảy ra đối đầu
với Iran, các đồng minh của Mỹ ở Trung
Đông vẫn tuân theo chủ nghĩa thực dụng. Ba
nước tại Trung Đông có quân Mỹ nhiều
nhất là Kuwait, Bahrain và Qatar. Mỹ triển khai
khoảng 13,000 quân đến nhiều căn cứ
ở Kuwait. Hai nước đã ký hiệp định
hợp tác quốc phòng từ sau cuộc chiến tranh vùng
Vịnh năm 1991. Tại Qatar có căn
cứ Al Udeid, căn cứ không quân lớn nhất
của Mỹ ở Trung Đông với 11,000 quân. Năm
2018, Qatar thông báo kế hoạch trị giá 1.8 tỉ USD
nâng cấp căn cứ này. Tại
Bahrain có Căn cứ Yểm trợ Hải Quân (Naval Support Activity Bahrain or NSA
Bahrain) của Hoa Kỳ và cũng là Bộ Chỉ
huy
U.S.
Naval Forces Central Command và United
States Fifth Fleet. Phối trí
của quân lực Mỹ như sau (số lượng
khác nhau tùy theo năm và cách tính của các mạng
truyền thông): ·
Kuwait: Có
13,000 quân. ·
Bahrain: 7,000
quân. ·
UAE: đến
2,502 quân. ·
Kuwait: khoảng
2,018 quân. ·
Thổ Nhĩ
Kỳ: 1,702 quân. ·
Qatar: 562 quân (Chưa
kể căn cứ Không quân Al Udeid của Hoa Kỳ). ·
Jordan: khoảng
3,000 quân. ·
Saudi Arabia:
khoảng 346 quân. ·
Egyt: 294 quân. Thế
trận Hoa Kỳ tại Trung Đông - Ảnh chụp màn
hình Quân
lực Hoa Kỳ tại Afghanistan: Afghanistan
bao gồm nhiều nhóm sắc tộc, và nằm ở
ngã tư đường giữa Đông và Tây.
Nước này từng là một trung tâm thương
mại và di cư cổ đại. Vùng này cũng
đã trải qua nhiều lần bị xâm lược
và chinh phục, gồm cả từ Đế
quốc Ba Tư, Alexandros
Đại đế, người
Ả Rập Hồi giáo, các
dân tộc người Turk và
những người du mục Mông
Cổ, Đế
quốc Anh, Liên
bang Xô Viết và cả Hoa
Kỳ. Từ năm 1978,
Afghanistan đã phải trải qua một cuộc nội
chiến kéo dài và
đẫm máu, với sự can thiệp từ nước
ngoài dưới hình thức Chiến
tranh Xô viết tại Afghanistan và cuộc
xung đột năm 2001 với Hoa Kỳ trong
đó chính phủ Taliban cầm
quyền đã bị lật đổ. Cũng cần nói
rỏ Taliban là
một phong trào chính
thống Hồi
giáo Sunni cực đoan
của người Pashtun,
thống trị phần lớn Afghanistan từ
năm 1995 đến năm 2001, khi những lãnh đạo
của họ đã bị loại bỏ khỏi
quyền lực bởi một nỗ lực quân sự
hợp tác giữa Hoa
Kỳ, Anh
Quốc và Liên
minh phía Bắc. Tháng 12 năm 2001, Hội
đồng bảo an Liên Hiệp Quốc đã
cho phép thành lập một Lực
lượng Hỗ trợ An ninh quốc tế (ISAF).
Lực lượng này, gồm binh lính NATO,
đã hỗ trợ chính phủ của Tổng
thống Hamid
Karzai trong việc
thiết lập an ninh trên toàn quốc. Năm 2005, Hoa
Kỳ và Afghanistan
đã ký kết một thỏa thuận đối tác
chiến lược cam kết mối quan hệ lâu dài
giữa hai quốc gia. Cùng lúc ấy, khoảng 30 tỷ
USD cũng đã được cộng đồng
quốc tế rót vào cho việc tái thiết đất
nước.
Những năm
theo sau đó, sứ mệnh của cuộc xâm chiếm
này thay đổi từ xung đột vũ trang
giữa các quân đội chính quy sang chống chiến
tranh du kích. Thỏa thuận, được ký kết
tại Qatar vào ngày 29/2/2020, nhằm mở đường
cho hòa bình ở Afghanistan sau hơn 18 năm xung đột.
Hoa Kỳ và các đồng
minh NATO sẽ rút toàn bộ quân đội khỏi
Afghanistan sau 14 tháng nếu Taliban giữ nguyên các cam
kết của họ theo thỏa thuận được
ký kết, theo giới chức. Các cuộc thảo
luận giữa chính phủ Afghanistan và Taliban sẽ
tiếp nối theo sau. Liên minh sẽ hoàn thành việc rút
các lực lượng còn lại của mình khỏi
Afghanistan trong vòng 14 tháng sau công bố của tuyên
bố chung và thỏa
thuận Mỹ-Taliban... chiếu theo việc hoàn tất
đầy đủ các cam kết của Taliban", tuyên
bố do Mỹ và Chính phủ Afghanistan đưa ra nói.
Hơn 2,400 lính Mỹ đã thiệt mạng trong
cuộc xung đột. Hoa
Kỳ hiện có khoảng 8,600 binh sĩ ở Afghanistan cùng
với 8,000 quân NATO. Theo Reuters, trong cuộc phỏng
vấn phát ngày 8/8, Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Mark Esper cho biết Hoa Kỳ dự kiến sẽ
cắt giảm số binh sĩ của nước này
ở Afghanistan xuống “con số dưới 5 nghìn”
vào cuối tháng 11/2020. Quân
lực Hoa Kỳ tại Iraq: Khoảng 5,200 quân
Mỹ vẫn còn ở Iraq tính đến tháng 1/2020.
Số lượng có thể giảm đi vì Iraq không còn
muốn sự hiện diện của quân lực Hoa
Kỳ sau vụ ám sát tướng Soleimani của Iran. Quân
lực Hoa Kỳ tại Nhật Bản:
Kể từ khi kết thúc Thế chiến 2 vào năm
1945, Mỹ đã duy trì một số căn cứ quân
sự và hàng chục ngàn nhân viên quân sự ở
cả Nhật Bản và Hàn Quốc. Sau khi Nhật
Bản giành lại chủ quyền vào năm 1951,
Mỹ và Nhật Bản đã ký một hiệp ước
hướng tới sự tương trợ quốc phòng
và một thỏa thuận cho phép Mỹ hoạt động
và duy trì các căn cứ quân sự ở Nhật
Bản. Hiện nay có xấp xỉ 55,000 lính Mỹ
ở Nhật Bản chưa kể đến hải
cảng Yokosuka dành cho Đệ Thất Hạm Đội
của Hoa Kỳ. Mỹ đã đàm phán các thỏa thuận với Nhật Bản về nội dung chi tiết về việc chia sẻ kinh phí với từng nước. Thỏa thuận hiện nay của Nhật Bản không tuyên bố rõ về tổng đóng góp. Tuy nhiên, mức đóng góp hiện nay của Nhật Bản lên tới xấp xỉ 1.7 tỷ USD. Bộ Quốc phòng Mỹ hiện ước tính tổng chi phí duy trì hiện diện quân sự tại Nhật Bản là 5.7 tỷ USD. Nếu theo cách tính của Tổng thống Trump thì Nhật phải trả cho Mỹ 5.7 tỷ USD + 2.85 tỷ lệ phí bảo vệ = 8.55 tỷ USD hàng năm. Các con số này chỉ là phản ảnh một phần về quan hệ tài chính giữa nước chủ nhà và Mỹ trong lĩnh vực quốc phòng. Chúng chưa chứa đựng các chuyển giao khác, như việc Nhật Bản mua các hệ thống vũ khí của Mỹ và các chi phí khác mà chính quyền Nhật Bản chịu. Ngoài ra, phải để ý đến khía cạnh quan trọng nhất là dân chúng Nhật và các chính trị gia Nhật nhìn về vấn đề này. Với sự hiện diện của Trung Quốc như là một thế lực mới nổi muốn thâu tóm ảnh hưởng về kinh tế cũng như quân sự trong khu vực Á Châu thì sự liên minh Mỹ-Nhật phải được đặt lên tầm cao mới. Cũng cần để ý là trong cuộc chiến Việt Nam thì Nhật Bản cũng hưởng lợi rất nhiều. Căn
cứ Mỹ tại Okinawa Quân
lực Hoa Kỳ tại Hàn Quốc:
Kể từ khi kết thúc Chiến tranh Triều Tiên vào
năm 1953, Mỹ đã duy trì một số căn
cứ quân sự và hàng chục ngàn nhân viên quân
sự ở Hàn Quốc. Hiện có xấp xỉ 26,500
quân Mỹ ở Hàn Quốc. Giờ đây chính
quyền Trump đang yêu cầu Hàn Quốc trả thêm
tiền cho các binh sĩ Mỹ đóng tại các nước
này. Truyền thông cũng đưa tin rằng ban lãnh
đạo quân sự Mỹ ở Hàn Quốc đã
thảo luận khả năng rút tới 4,000 quân
khỏi Hàn Quốc nếu nước này không tăng
khoản đóng góp của mình. Lầu Năm Góc
kể từ đó đã phủ nhận thông tin này.
Mỹ đã đàm phán các thỏa thuận với
cả Nhật Bản và Hàn Quốc với nội dung
chi tiết về việc chia sẻ kinh phí với
từng nước. Chẳng hạn, năm 2019, Mỹ và
Hàn Quốc đàm phán một thỏa thuận kêu
gọi Hàn Quốc đóng góp xấp xỉ 893 triệu
USD. Bộ Quốc phòng Mỹ hiện ước tính
tổng chi phí duy trì hiện diện quân sự của
Mỹ ở Hàn Quốc là 4.5 tỷ USD. Theo cách tính
của Tổng thống Trump thì Hàn Quốc phải
trả cho Hoa Kỳ 4.5 tỷ USD + 2.25 tỷ USD chi phí
bảo vệ = 6.65 tỷ USD. Điều cần lưu
ý là phía Nam thủ đô Seoul của Hàn Quốc thì Hoa
Kỳ vừa mới hoàn tất trại
Humphreys (USAG Humphreys) ở Pyeongtaek, tỉnh Gyeonggi, Hàn
Quốc hiện là căn cứ quân sự lớn
nhất của quân đội Mỹ ở nước
ngoài. Trại Humphreys là nơi đồn trú của hàng
ngàn quân nhân và nhà thầu quân đội Mỹ, ước
tính lên tới 25,000 người. Phía sau các bức tường
dày và cao vút bao quanh căn cứ quân sự tọa
lạc cách Seoul 65 km về phía nam này là môi trường
hoàn toàn khác với phần còn lại của thủ
đô Hàn Quốc. Vấn đề thương thuyết với Hàn Quốc về sự hiện diện của quân lực Hoa Kỳ tại đây cũng là vấn đề hóc búa vì trong nhiều khía cạnh, tinh thần dân tộc của dân chúng cũng như các chính trị gia Hàn Quốc còn quá khích hơn cả người Nhật. Đi xa hơn thì Hoa Kỳ vẫn còn lá bài tủ là sự hiện diện của Bắc Triều Tiên mà cho đến bây giờ tương lai vẫn chưa biết ra sao. Trại
Humphreys phía Nam Hán Thành Quân
lực Hoa Kỳ tại Liên Âu:
Lính Mỹ ở Châu Âu là di sản thời hậu
Thế chiến Hai khi quân đồng minh đóng
tại Tây Đức. Quân
đội Hoa Kỳ ở Đức đóng vai trò là
một phần của sự răn đe chống
lại Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, và họ
tiếp tục phục vụ như một lực lượng
răn đe chống lại Nga bây giờ. Thốn
kê mới nhất cho thấy quân
số của Hoa Kỳ đóng tại Âu Châu khoảng
63,361 người với khoảng 34,674 quân Mỹ
và nhân viên hỗ trợ tại Đức, 12,353 quân
tại Italy, 9,000 quân tại Anh và Tây Ban Nha với
khoảng 4,000 nhân viên quân sự và gia đình.
Trong năm 2020, cộng với số quân Hoa Kỳ và
NATO đã đóng sẵn ở châu Âu, một lực lượng
đa quốc gia (19 nước) gồm 37 nghìn quân
sẽ tham gia cuộc tập trận mà phần
tại Ba Lan bắt đầu vào đầu năm. Toàn
bộ cuộc tập trận kéo dài từ tháng 4
sang tháng 5/2020. Quân
lực Hoa Kỳ tại Âu Châu Quân
đội Hoa Kỳ ở Đức đóng vai trò là
một phần của sự răn đe chống
lại Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh, và họ
tiếp tục phục vụ như một lực lượng
răn đe chống lại Nga bây giờTại
châu Âu, lính Mỹ đóng ở Đức là nhiều
nhất, rồi tới Italy, Anh và Tây Ban Nha. Hiện Hoa
Kỳ có khoảng 35,000 quân Mỹ và nhân viên hỗ
trợ tại Đức.
Khoảng 2/3 là bộ binh và 1/3 là Không quân. Nhưng quan
trọng hơn là con số quân Mỹ ở Đức
sẽ được 2 chính quyền Đức - Mỹ
hạn chế ở mức 25 nghìn, theo Wall Street Journal. Hãng
Reuters cho biết, Bộ trưởng Quốc phòng
Mỹ Mark Esper ngày 29/7 thông báo sẽ giảm 11,900 binh sĩ
nước này đồn trú tại Đức, điều
chuyển lực lượng sang Ý và Bỉ, nghĩa là
gần 6,000 binh sĩ vẫn ở lại châu Âu. Các
chính trị gia Mỹ và Anh cảnh báo rằng quyết
định của tổng thống Mỹ rút binh sĩ
khỏi Đức có nguy cơ mang lại lợi
thế chiến lược cho Kremlin và làm tổn
hại liên minh quân sự phương Tây. Theo hãng thông
tấn Ba Lan (PAP) hôm 06/06, Thủ tướng Mateusz
Morawiecki nói rằng "Ba Lan đang nói chuyện
với Hoa Kỳ" về việc tăng thêm quân
Mỹ "để bảo vệ tuyến phía Đông
của NATO". Ông
Trump từ lâu than trách rằng các thành viên NATO phải
bỏ thêm tiền cho quân đội. Hiện tại, các
quốc gia Liên Âu chỉ chi ít hơn 2% GDP cho quốc phòng
trong khi Hoa Kỳ chi đến 4.4% GDP. Cụ
thể, Berlin sẽ tăng chi tiêu quốc phòng từ
mức 1.42% GDP vào năm 2020 lên 1.5% vào năm 2024 và
tiếp tục đạt mức 2% vào đầu
những năm 2030. Cuối
năm 2019, thỏa thuận mới về điều
chỉnh mức đóng góp cho ngân sách chung vừa đạt
được giữa 29 quốc gia thành viên NATO,
bắt đầu từ năm 2021, cho thấy tỷ
lệ đóng góp cho ngân sách NATO của Đức
sẽ tăng từ 14.8% lên 16.35%, trong khi mức đóng
góp của Mỹ cho khối quân sự này sẽ
giảm từ 22.1% xuống còn 16.5%.
Điều này đồng nghĩa với việc
mức đóng góp hằng năm của Đức cho
ngân sách NATO sẽ tăng thêm khoảng 33 triệu Euro,
trong khi Mỹ sẽ giảm khoảng 120 triệu Euro
tiền đóng góp. Trong năm 2019, Mỹ đã đóng
gần 470 triệu Euro cho ngân sách 2.12 tỷ Euro của
NATO, trong khi mức đóng góp của Đức là 313
triệu Euro. Sự thương thuyết giữa
Hoa Kỳ và Nhật Bản, Hàn Quốc và Đức
Quốc có nhiều điểm tương đồng tùy
theo tình hình trong khu vực.
Căn
cứ không quân Ramstein Quân lực Hoa Kỳ tại Đông Nam Á: Tại Đông Nam Á, 3 quốc gia có thể đóng góp nhiều nhất vào vai trò chiến lược của Hoa Kỳ là Philippines, Singapore và Việt Nam. ·
Philippines:
Thỏa ước Căn cứ
Quân sự năm 1947 được tu chính vào năm
1979, thay đổi vai trò của người Mỹ
tại Vịnh Subic từ làm chủ sang làm khách.
Bản tu chính xác nhận chủ quyền của
Philippines trên căn cứ và giảm khu vực dành cho
Hoa Kỳ sử dụng từ 244 km² xuống 63 km².
Quân đội Philippines đảm nhiệm trách vụ
vòng ngoài chu vi của căn cứ để giảm các
biến cố giữa quân sự Hoa Kỳ và dân sự
Philippines. Năm 1991, núi
lửa Pinatubo cách Vịnh Subic khoảng 32 km bùng
nổ với sức mạnh gấp 8 lần hơn núi
St. Helens. Vịnh Subic, từng là một trong các căn
cứ hải quân được bảo trì tốt và
đẹp nhất tại Thái Bình Dương bị chôn
dưới một lớp đất cát thấm nước.
Căn
cứ Không quân Clark, hoàn toàn hư hại và kế
hoạch đóng cửa bắt đầu khởi
sự. Khi Thỏa ước Căn cứ Quân sự năm
1947 hết hạn vào năm 1991,
các cuộc thương lượng căng thẳng
giữa hai chính quyền Mỹ và Philippines bắt đầu
nhưng cuối cùng Thượng viện Philippines bác
bỏ phê chuẩn hiệp ước. Năm 1992,
cờ Mỹ hạ xuống tại Subic lần cuối
cùng. Việc rút quân này đánh dấu lần đầu
tiên, kể từ thế
kỷ 16, không có một lực lượng quân
sự ngoại quốc nào hiện diện trên đất
Philippines. Sau một cuộc đối đầu kéo dài
3 tháng tại Scarborough giữa tàu hải quân Trung
Quốc và Philippines năm 2012, cuối cùng Trung Quốc
đã chiếm kiểm soát bãi cạn nằm trong vùng
đặc quyền kinh tế của Philippines. Hơn 20
năm kể từ khi những binh sĩ cuối cùng
của hải quân Mỹ rút khỏi căn cứ
hải quân trên Vịnh Subic vào năm 1992, Philippines ngày
16/7/2015 tuyên bố mở cửa trở lại căn
cứ này cho chiến hạm Hải quân Hoa Kỳ. Theo
thời báo The Philippine Star cuối năm 2019, Bộ
Quốc phòng Philippines đã phê chuẩn cho phép Mỹ và
Australia tham gia vào kế hoạch cải tạo xưởng
tàu cũ của Philippines trên đảo Luzon. Theo đó,
xưởng đóng tàu này sẽ được
cải tạo, nâng cấp thành một căn cứ
hải quân mới. ·
Singapore:
Hiện nay tại căn cứ Hải Quân của
Singapore có 4 chiến hạm của Hoa Kỳ luân phiên
đồn trú tại đây mà nòng cốt là 2
chiến hạm tác chiến ven bờ loại LCS. Căn
cứ Hải Quân Changi tại Singapore ·
Việt
Nam: Theo tài
liệu từ phía Việt Nam ngày 8 tháng 3 năm 2016,
tại căn cứ quân sự Cam Ranh, Quân
chủng Hải quân Việt Nam tổ chức
lễ khai trương cảng quốc tế Cam Ranh,
một trong những cảng biển lớn nhất
Việt Nam với tổng chiều dài khai thác cầu là
2,147 m, độ sâu 20 m, tiếp nhận được
tàu sân bay tải trọng 110,000 DWT (dead
weight tonnage), tàu khách có dung tích 100,000 GRT (gross tonage) và
sửa chữa, đóng mới các công trình biển như
giàn khoan đến 200m nước. Có thể tiếp
nhận 18 tàu cùng lúc và 185 tàu mỗi năm, là
cảng đầu tiên tại Việt Nam thiết
kế cho phép neo đậu tàu trong điều kiện
gió bão đến cấp
8. So sánh với kích thước của Hàng không
Mẫu hạm lớp Nimitz với trọng tải
tối đa 104,600 tấn, chiều dài 332.8 m và mớn
nước tối đa 41 ft (12.5
m) thì có thể cảng này đủ sức để
HKMH cập bến an toàn. So sánh với cảng Subic
của Philippines thì cảng Subic gần quần đảo
Trường Sa hơn nhưng cảng Cam Ranh chỉ cách
thủy lộ từ Malacca lên Đông Bắc Á chỉ
vài chục hải lý. Hiện Việt Nam vẫn giử
chủ trương 3 không nhưng những hành động
lấn áp của Trung Quốc trong thời gian gần
đây đã khiến Hoa Kỳ tái thương
thuyết bộ tứ kim cương (Hoa Kỳ-Ấn
Độ-Nhật Bản-Úc Đại Lợi) với
sự tham gia của 3 quốc gia mở rộng là Hàn
Quốc, New Zealand và Việt Nam. Việt Nam là quốc
gia đầu tiên trong khối ASEAN được
mời tham gia bộ tứ mở rộng này. Trong 2, 3 năm
sắp đến, khi liên hệ chiến lược
Mỹ-Việt rỏ ràng hơn thì vị trí của
cảng Cam Ranh sẽ được minh định. KẾT
LUẬN Như
đã nói ở trên, quân lực Hoa Kỳ dàn trải
đến tất cả điểm nóng trên thế
giới. Một số chuyên viên nghiên cứu nói đùa
rằng chiến lược của Hoa Kỳ giống như
các bộ phim Cowboys mà dân chúng Hoa Kỳ ưa thích. Hoa
Kỳ luôn đóng vai trò Good Guy, còn vai trò Bad Guys thì không
thiếu. Ở Trung Đông thì có Iran. Ở Á Châu thì
Trung Quốc cảm thấy đủ mạnh để
chia đôi Thái Bình Dương, đẩy Hoa Kỳ ra
khỏi khu vực then chốt phía Tây Thái Bình Dương.
Ở Châu Âu thì Nga Sô luôn luôn kiếm cơ hội
lấy lại vài phần Đông Âu đã mất đi
sau khi Liên Sô tan rã. Các cuộc thăm dò gần đây
cho thấy mặc dù người Mỹ đang ngày càng
hoài nghi về sự can thiệp của Mỹ vào
Afghanistan và Iraq, dân chúng Mỹ vẫn ủng hộ
sự can dự hiện nay của Mỹ vào thế
giới và các cam kết của nước này đối
với các đồng minh. Tại Trung Đông, dù
rằng đây là khu vực của người Hồi
Giáo nhưng các quốc gia này theo chủ nghĩa
thực dụng. Họ cần có sự hiện diện
của Hoa Kỳ tại khu vực này vì quyền
lợi dầu hỏa của họ. Cũng ít khi
thấy họ than phiền về số tiền họ
đóng cho Hoa Kỳ. Tại Âu Châu, việc than
phiền các đồng minh của Mỹ không đóng góp
đủ cho việc phòng vệ của họ hay không là
điều đã có từ lâu.
Một ngày trước khi đến
Helsinki dự hội nghị thượng đỉnh
với tổng thống Nga Vladimir Putin, trong cuộc
phỏng vấn được kênh truyền hình Mỹ
CBS News phát đi hôm 15/7/2018, tổng thống Mỹ
Donald Trump đã không ngần ngại xếp Nga, Liên minh
châu Âu và Trung Quốc vào diện “kẻ thù”
(tiếng Anh là “foe”) của nước Mỹ. Tại
khu vực Đông và Đông Nam Á, khi Ấn Độ -
Thái Bình Dương và Bộ tứ kim cương thành
hình thì sự liên hệ kinh tế - quân sự của
các quốc gia liên hệ sẽ rõ ràng hơn thì sự
hiện diện của quân lực Hoa Kỳ tại các
quốc gia liên hệ cũng như vấn đề tài
chánh cũng được quyết định dựa
theo quyền lợi hổ tương của các
quốc gia liên hệ. Nhật Bản và Hàn Quốc
chắc chắn sẽ có được sự thỏa
thuận hoàn toàn với Hoa Kỳ. Việt Nam ở vào
vị trí rất là đặc biệt. Vài năm
sắp đến, khi Việt Nam có đủ tin tưởng
vào sự cam kết của Hoa Kỳ cũng như có
đủ sức mạnh để đãm nhận
một vai trò lớn hơn trong khu vực thì liên
hệ giữa Việt Nam, Hoa Kỳ và các quốc gia
đồng minh sẽ được định hình
rỏ hơn. THAM KHẢO 1)
US
Military Deployment – From Wikipedia, the
free encyclopedia 2)
Where U.S. troops and military assets are deployed in
the Middle East from Rashaan Ayesh - Axios dated 8/1/2020. 3)
Quân
đội Hoa Kỳ - Bách khoa Toàn thư mở Wikipedia 4)
Hoa
Kỳ rút quân khỏi Iraq - Bách khoa Toàn thư mở
Wikipedia. 5)
Bài
viết “Where in the World Is the U.S. Military? của David Vine
tháng 7 và 8, 2015. 6)
Bài
viết “Mỹ đang có bao nhiêu quân tại hàng
loạt nước Trung Đông? đăng trên mạng
Star & Stripes ngày 8/1/2020. 7)
Bài
viết “Report: Trump wants
Germany, Japan and others to pay full cost plus a premium for US troops”
đăng trên mạng Star & Stripes ngày 3/8/2919. 8)
Bài
viết “Vì sao Mỹ chi rất nhiều tiền cho
việc bảo vệ các đồng minh?” đăng
trên mạng 9)
Bài
viết “Căn cứ quân
sự 'khủng' nhất của Mỹ ở nước
ngoài” đăng trên mạng Hải Quan Online ngày 29/7/2919. 10)
Bài
viết “Hoa Kỳ và Philippines thỏa thuận ký
kết hiệp ước an ninh mới” đăng trên
mạng 11)
Bài
viết “Cơn lốc có tên "Donald Trump" tràn qua
châu Âu” đăng trên mạng
*** |