Thăng
trầm chân dung người lính VNCH
Sơn Tùng |
Quân đội VNCH
chính thức buông súng và tan ră vào trưa ngày 30/4/75, sau
nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm vùng
được Tổng thống 3 ngày Dương Văn
Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng.
Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm
nay, sau đúng 18 năm, hầu như vẫn c̣n in rơ
trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ
của quân đội miền Nam cùng với những
cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những
cảm nghĩ ấy có lẽ cũng được
cả những người chết mang theọ Mấy
mươi năm qua kể từ khi tan hàng ră ngũ
bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân
dung thật của người lính VNCH vẫn c̣n
bị che mờ sau những màn khói huyền thoại,
phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử
thế giới, không có người lính nước nào
phải chịu một số phận nghiệt ngă như
người lính VNCH. Trong khi cầm súng chiến đấu
và sau khi đă buông súng hằng chục năm, người
lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số
phận nghiệt ngă bám theo ḿnh. Tuyên
truyền CS vu cáo họ là “những tên lính đánh
thuê”, là bọn “ngụy quân” phản quốc, làm
tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bàọ
Báo chí phương Tây, kiêu ngạo và bất công –
qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất
xứng – vẻ lên h́nh ảnh những người lính
chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy trước
địch quân, và “không chịu chiến đấu”.
Cuộc tan hàng thê thảm vào ngày 30/4/75 càng khiến người
lính VNCH bị lăng nhục hơn nữạ Kẻ
thù, sau khi “lượm được chiến
thắng”, đă tận dụng mọi phương
tiện để trả thù, đày ải, hạ
nhục những người lính bại trận.
“Bạn bè”, khiếp sợ trước “chiến
thắng thần thánh”của đối phương, cũng
để tự bào chữa cho sự hèn nhát và
phản bội của ḿnh, tiếp tục trút mọi
tội lỗi lên đầu những người lính
đă bị bắt buộc phải buông súng. Đau
đớn hơn nữa là sự phản bội
của một số những người chỉ huy cao
cấp trong quân đội VNCH. Từ Nguyễn Hữu
Hạnh, Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ,
cho đến gần đây nhất là Trần Văn
Đôn. Chưa hết, c̣n sự vô ơn và phản
bội của một số người Việt cầm
bút, ở trong và ngoài nước, những người
đă nhờ máu của người lính VNCH mà dược
hưởng tự do trong hơn 20 năm để
viết ra những ǵ họ nghĩ, cái tự do trong cái
giới hạn trong một xă hội chiến tranh nhưng
ít nhất họ cũng không bị trở thành
những con ngựa trong chuồng như ở miền
Bắc. Những nhà văn nầy đă và đang
trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng
đại những khuyết điểm của người
lính VNCH, hay vô liêm sĩ hơn nữa, vu cáo những người
chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê
khát máu, không nhân tính, không lư tưởng.
Đâu là chân dung thực của người lính VNCH ? Năm
1984, trước bộ phim được gọi là “tài
liệu lịch sử” dài 13 giờ chiếu mang tên
Vietnam : A Television History (Việt Nam: Một Bộ sử
Truyền H́nh) nhưng là một sự lăng mạ
lịch sử, ông James Banerian đă viết một
cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ư
của những người làm phim. Cuốn sách của
ông nhan đề là Losers Are Pirates (Thua là giặc), rút
từ câu tục ngữ Việt Nam “được làm
vua, thua làm giặc”. Cái tưa đề ấy đă
xác nhận thêm số phận bạc bẽo cay
nghiệt của người lính thua trận, và là
một trong số hiếm hoi những tiếng nói lương
thiện và trung thực trong “thế giới tự
do” đă đóng góp vào việc tái tạo lại chân
dung thực của người lính VNCH. Cũng trong năm
1984, học giả Phạm
Kim Vinh viết cuốn “Thiên Anh Hùng Ca Viết Cho Quân
Lực VNCH, dùng những chất liệu lịch sử
và những bài viết của các tác giả Tây phương
lương thiện để bẻ găy nhữ sư vu
cáo, bác bỏ những lời buộc tội bất công,
xoá tan những huyền thoại, và phục hồi danh
dự cho những người lính đă chiến đấu
trong những điều kiện khắc nghiệt
suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường
dài lịch sử mà ông cho là “kể về sự
khắc khổ và chịu đựng c̣n vượt xa
con đường Vạn Lư Trường Chinh của
Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng,
vị tha và cao quư c̣n vượt xa các cuộc Thánh
Chiến Thời Trung Cổ.
Chân
dung người lính VNCH được phát họa
sống thực ngay ở b́a cuốn sách, với h́nh
ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương
mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi, nhưng
chân vẫn bước đi với hai ống quần
xắn lên tới đầu gối và cây súng thô sơ
trên vai. Qua gần 300 trang sách với thật nhiều
dẫn chứng cụ thể và những biện
luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đă
đưa người đọc đi lại con
đường dài mà người lính VNCH đă đi,
từ những ngày đầu được khai sinh
với nhiều bất hạnh, trưởng thành
dần trong khói lửa với cuộc chiến đấu
dũng cảm trong sự thiệt tḥi bất công vô lường,
cho đến cái chết tức tửi oan nghiệt vào
ngày 30/4/75. Ngay
sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách
báo phim ảnh trên thế giới nói về cuộc
chiến VN cũng đă có rải rác những cái nh́n
công bằng hơn về những người lính thua
trận, qua những cuộc chiến đấu cuối
cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ Không
phải đợi tới ngày nay, mấy mươi năm
sau, người ta mới khẳng định được
rằng, “phía mạnh hơn không phải là phía
tốt”. Phía tốt hơn đă trở thành phía
yếu hơn và đă bị đánh bại trên
chiến trường chỉ v́ đă trở thành
nạn nhân của sự hèn nhát và phản bội.
Người lính VN đă chiến đấu cho tự
do đă bị trói tay buộc chân, cắt giảm
viện trợ vào lúc hiểm nghèo nhất. Trong
cuốn “Not with guns alone”, nhà báo lăo thành người
Úc Denis Warner đă lên án
Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân
sự cho VNCH vào lúc cần phải gia tăng. Ông cho
biết cả một tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu
diệt trong một trận đánh ở miền Tây sau
khi bắn hết viên đạn cuối cùng. Ở
miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ c̣n
được cấp 4 viên đạn mỗi ngày, trong
khi Cộng quân có khả năng nă vào các căn cứ
quân sự miền Nam hàng ngàn quả đại pháo
mỗi đêm. Sự
hèn nhát và vô đạo ấy đă làm thức
tỉnh lương tâm một số người
từng góp phần cổ vơ cho CSBV xâm chiếm miền
Nam, khi họ chứng kiến những trận đánh
cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH.
Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo
nầy đă có mặt tại miền Nam Việt Nam
trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ
đợi đón mừng “bộ đội giải phóng”
để chứng kiến cái chết ô nhục của
quân đội miền Nam mà họ đă phỉ bán
trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến tranh
chấm dứt, họ trở về Pháp, và đă làm
cho cả thế giới ngạc nhiên với những ǵ
họ viết ra. Jean Larteguy ghi
lại như sau khi tới thăm một đơn
vị Dù cố thủ tại Saigon:“Thứ
Hai 28/4/75. Saigon sáng nay yên tĩnh. Ông trả
lời : – Chúng tôi
sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là
những người chót chiến đấu. Hăy nói cho
mọi người biết rằng chúng tôi chết không
phải v́ Thiệu, v́ Hương hay v́ Minh. Sau khi Dương văn
Minh đă tuyên bố đă đầu hàng. Lartéguy
lại được chứng kiến tận mắt
trận đánh cuối cùng của các đơn vị
QLVNCH tại Saigon, và ghi lại như sau :“Gần
Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ
chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa, cho
tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh
Tổng Thống trở về sau cuộc gặp gỡ
bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy
khuyên họ nên ngưng chiến đấu. Họ
vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe
ấy c̣n đang cháy ngùn ngụt. Một chiếc
nổ tung v́ đạn trong xe. Quân Dù không để
lại trên trận địa một thứ ǵ, dầu
là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương
hoặc người chết” Lartéguy
cũng được thấy tận mắt các sinh viên
Trường Vơ Bị Đà Lạt, lực lượng
trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địạ“Và
trong những bộ đồng phục mới, giày chùi
xi bóng láng, các sinh viên anh dũng của Trường Vơ
Bị Đà Lạt đă đi vào chỗ chết.
Chỉ c̣n thiếu có cái mũ diễn hành và đôi
bao tay trắng”. Một đồng nghiệp
của Lartéguy là Raoul Coutard đă thu được
cảnh xuất quân bi tráng ngay vào máy quay phim và cố
nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ
quan: Darcourt
cho biết đại tá Vinh đă ở lại vị
trí và tự sát. “…Trong
buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liê
lạc với quân khu III tại Long B́nh. Tư lệnh sư
đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định
dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến
về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận
đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị
yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy
bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát”. Về
cái chết của tướng
Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, kư
giả Mỹ Alan Daeson
thuật lại:“…Tại
Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, tư
lịnh vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt
cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến
đă hết, khi ông ta nghe thấy tướng Minh nói
trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lănh
cương quyết ở lại, tướng Nam đă
chiến đấu cho đến phút chót…Ông ra
lịnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không
được rời bản doanh. Ông ta c̣n đích
thân đi quan sát tiền tuyến nữa.
Ông ta đă bắn viên tỉnh trưởng Sa đéc
ở ngay phía đông Cần Thơ, v́ kẻ ấy
nhất định đ̣i đi theo người Mỹ
chạy trốn. Khi viên tỉnh trưởng Kiên
Giang trái lịnh của tướng Nam, và dùng tàu
rời khỏi Rạch Giá để đi về phía
Nam th́ tướng Nam cho 3 chiếc trực thăng vơ
trang đuổi theo, rồi bắn ch́m chiếc tàu
ấy bằng đại liên và hỏa tiễn. Những
trận đánh dũng cảm và những cái chết
anh hùng trên đây là đoạn kết của một
cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong dó theo
viên tướng Pháp Vanuxem th́ cứ mỗi 8 phút
lại có một người lính VNCH hy sinh. Nhờ
sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân
miền Nam được sống tự do trong 1/4
thế kỷ. Bao nhiêu cuộc đời êm ấm đă
trôi qua trong thời gian ấy, bao nhiêu công danh sự
nghiệp đă được “những con người
may mắn” thủ đắc.
Và đây là cái
“phần thưởng” mà xă hội miền Nam ngày trước
đă đền đáp cho sự hy sinh của người
lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ng̣i bút của Phan
Nhật Nam:“Người
chồng không chết, và sẽ trở về. Người
lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm
đi đếm lại những tờ giấy bạc
bằng những ngón tay cáu ghét, mơ ước
bỗng nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn,
một giấc mơ nhẹ nhàng, quên được
cảnh đời với đôi chân lội ngập
trong bùn, những tờ bạc có được sau 30
ngày đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên
những cồn cát, 30 đêm ngũ vơng, nằm
hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ
ướt sương, và toàn thân ngâm chặt dưới
nước bùn lạnh giá. Nhữg tờ bạc
chỉ đủ mua một phần gạo cho một người
đàn bà và 4 đứa con trong tháng”. Đó
là người lính không chết. Nếu người lính
chết, th́ đây là thân phận vợ con người
lính :“Người lính
chết, chết là hết, nhưng không bao giờ
hết cho người vợ lính. Không hết cho
một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng,
cùng với một lũ con nheo nhóc; những đứa
bé sẽ lang thang trên các đống rác chất
ngất được đổ từ những
chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé sẽ mặt cái
áo dài của bố nó, dài đến tận đầu
gối, tóc rối, mắt khô, chân tay là những
rễ cây khẳng khiụ.. Những người vợ
lính, và đứa con lính sẽ dự phần vào
cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần
sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc
hộp sắt bóng loáng, hay sét rỉ…” Cuộc
chơi rơ rệt không công bằng, nhưng nguời lính
VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho
đến khi hoàn toàn bị trói tay. Cuộc chơi tàn.
Nhưng người lành lặn bị lùa vào các
trại cải tạ. Đui, què, mẻ sứt…không c̣n
được ai nhắc tới, biết tới
những người chết không yên, mồ mả
bị đào xới lăng nhục. Sơn
Tùng
|