Người
viết vừa nhận được quyển Quân
Sử của Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) do
cựu Thiếu Tá Phạm Cang - nguyên Tiểu Đoàn Trưởng
Tiểu Đoàn 7 TQLC từ Iowa gửi tặng. Cựu
Thiếu Tá Phạm Cang - Khóa 20 Vơ Bị Đà Lạt là
người tù cùng Trại B́nh Điền với người
viết và hiện nay (2017) ông là đương kim
Chủ Tịch của Tổng Hội TQLC/VN tại Hoa
Kỳ. (Trần Trung Chính)

Trong bài
viết này, người viết chú trọng đến
phần chiến công của Sư Đoàn TQLC trong
chiến dịch tái chiếm Quảng Trị vào năm
1972 để ghi nhận tài điều binh của các sĩ
quan các cấp trong Sư Đoàn TQLC cũng như
sự dũng cảm và hy sinh vô bờ bến của các
quân nhân tham dự chiến dịch này. Nhưng quả
là thiếu sót lớn nếu không đề cập
đến các chiến công và nỗ lực cũng như
hy sinh của các quân nhân các cấp trực thuộc các
đơn vị khác như Sư Đoàn 3 Bộ Binh
(BB), Sư Đoàn 1 BB, các Liên Đoàn Biệt Động
Quân, các Lữ Đoàn Dù, các Lữ Đoàn TQLC, các
tiểu đoàn Pháo Binh, các chi đoàn chiến xa M41 và
M48, Tiểu Khu Quảng Trị, các Cảnh Sát Quốc
Gia (CSQG) thuộc Ty Cảnh Sát Thừa Thiên và Quảng
Trị, các đơn vị Lôi Hổ và Lực Lượng
Đặc Biệt, các chiến sĩ Không Quân và
Hải Quân của QLVNCH…v…v…
Tài liệu của sĩ quan Lê Văn Trạch (Pḥng 2 Sư
Đoàn 3 BB) tiết lộ rằng Bộ Tổng Tham Mưu
tại Sài G̣n cũng như Pḥng 2 của Sư Đoàn
3 BB và Pḥng 2 của Quân Đoàn 1 bị quân đội
Cộng sản Bắc Việt đánh lừa bằng cách
tạo ra những mật lệnh truyền tin cũng như
mở ra những cuộc tấn công hạn chế
tại Quân Khu 2 khiến Tướng Vũ Văn Giai ra
lệnh đổi quân vào đúng ngày 30 tháng 3 năm
1972 – là ngày cộng quân Bắc Việt mở cuộc
tổng tấn công toàn diện tại Quảng Trị.
Lệnh đổi quân sẽ hoàn tất vào 6 giờ
chiều cùng ngày, nhưng từ 12 giờ trưa, Tướng
Vũ Văn Giai và Đại Tá Cố Vấn sẽ bay
về Sài G̣n nghỉ lễ Phục Sinh cuối tuần
(theo sách Easter Offensive của Đại Tá H. Turley).
Chiến trận Quảng Trị đă trôi qua 45 năm,
nhiều tài liệu của 2 bên lâm chiến đă
được công bố, nhưng những điều
đă được công bố (có cả h́nh ảnh và
thủ bút của những người tham dự
chiến trận) th́ không phải là những điều
được người viết tŕnh bày tại bài
viết này. Cũng có thể độc giả đ̣i
hỏi người viết phải trưng ra tài
liệu để minh họa cho lập luận tŕnh bày,
xin trả lời là cá nhân người viết không có
những tài liệu đó, vấn đề được
tŕnh bày ở đây thuộc về nhận xét riêng
của người viết. Cũng không có vấn đề
“ĐÚNG, SAI” đặt ra ở đây v́ mục
đích của bài viết là để chúng ta nên nh́n
trận chiến Việt Nam qua nhiều vị trí quan sát
khác nhau để thế hệ kế tiếp có
dịp ngó lại các sự kiện lịch sử
gần giống với thực tế đă từng
xảy ra trước đó!
Trước tiên, hăy cùng ôn lại chút chuyện đầu
thời Chiến Quốc. Khi đó, Tôn Tẫn, tương
truyền là cháu của Tôn Tử – tác giả của
Binh Pháp Tôn Tử, đă dùng diệu kế để
giúp Đại Tướng Điền Kỵ của nước
Tề thắng Tề Vương trong cuộc đua
ngựa, với ba loại Giỏi, Thường, và Kém.
Ṿng đầu cuộc đua, Tôn Tẫn đă cố
vấn Điền Kỵ đưa ngựa kém ra đua
với ngựa giỏi của Tề Vương.
Kết quả: 0-1, phần thua về Điền Kỵ.
Ṿng hai, Điền Kỵ lấy ngựa giỏi ra
đua với ngựa thường của Tề Vương:
Kết quả: 1-1. Ṿng ba, Điền Kỵ lấy
ngựa thường ra đua với ngựa kém của
Tề Vương. Sau 3 ṿng đua, Điền Kỵ
thắng Tề Vương với tỷ số 2-1.
Trở lại với chiến trận Quảng Trị,
trái với nhận định của sĩ quan Lê Văn
Trạch (pḥng 2 của Sư Đoàn 3 BB), người
viết cho rằng chính lực lượng xâm lăng
của Cộng quân bị lừa vào BẪY và RỌ
ngay tại vùng Quảng Trị giới tuyến để
rồi chịu nhận một tổn thất sinh
mạng quá lớn lao.
Diễn tŕnh lọt vào BẪY và RỌ của quân
Bắc Việt gần giống với cuộc đua
ngựa do Tôn Tẫn bày mưu sắp xếp:
1. Chỉ trong 48 giờ chiến đấu, Trung Tá
Phạm Văn Đính của Trung Đoàn 56, Sư Đoàn
3 BB kéo cờ trắng đầu hàng quân Bắc
Việt vào lúc 14:30 ngày 2 tháng 4 năm 1972. Gần
một tháng sau, Tướng Vũ Văn Giai hạ
lệnh Sư Đoàn 3 BB rút khỏi Quảng Trị,
đó là ngày 1 tháng 5 năm 1972. Kết quả 1-0,
phần thắng nghiêng về phía quân cộng sản.
2. Đến 14:30 ngày 1 tháng 5 năm 1972, Lữ Đoàn
147 TQLC và Lữ Đoàn 1 Kỵ Binh rút khỏi thành
phố Quảng Trị. Tới ngày 2 tháng 5 năm 1972,
pḥng tuyến cuối cùng của QL/VNCH là sông Mỹ Chánh
do 2 Lữ Đoàn TQLC, Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù và 01
Liên Đoàn Biệt Động Quân trấn giữ và
Cộng quân cũng bị chận đứng tại
đây, không tiến thêm được bất cứ
tấc đất nào nữa. Kết quả 1-1.
3. Ngày 1 tháng 5 năm 1972, Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu bổ nhiệm Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
đảm nhận chức vụ Tư Lệnh Quân
Đoàn 1 và Quân Khu 1. Trung Tướng Ngô Quang Trưởng
ban hành lệnh giới nghiêm trên toàn tỉnh Thừa
Thiên và đưa ra 2 nhiệm vụ phải khẩn
cấp thực hiện là pḥng thủ Huế và tái
chiếm Quảng Trị. Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu chấp nhận kế hoạch tái chiếm
Quảng Trị khởi đầu từ ngày 19 tháng 6 năm
1972 cho đến 19 tháng 9 năm 1972 (thời hạn 3 tháng).
Tiểu Đoàn 5 TQLC do Thiếu Tá Phạm Văn
Tiền chỉ huy đă cắm cờ VNCH tại Cổ
Thành Quảng Trị vào ngày 16 tháng 9 năm 1972 – trước
thời hạn ấn định 3 ngày. Kết quả
2-1 chung cuộc cho chiến trường Trị Thiên vào
năm 1972, phần thắng nghiêng về phía VNCH.
Ghi chú của người viết:
Từ điển VN định nghĩa như sau:
BẪY: (Danh từ):
Dụng cụ thô sơ để lừa bắt,
giết loài vật hoặc kẻ địch; thí
dụ: bẫy chông, chim sa vào bẫy.
Cái bố trí sẵn để lừa cho người ta
mắc vào.
(Động từ):
Bắt hoặc tiêu diệt bằng bẫy.
Lừa cho mắc mưu để làm hại, thí
dụ: bẫy người vào tṛng.
RỌ(Danh từ):
Đồ dùng đan bằng tre nứa, h́nh thuôn dài dùng
để nhốt súc vật khi vận chuyển.
Chuẩn Tướng Vũ Văn Giai sau khi họp
Bộ Tham Mưu Sư Đoàn 3 BB cùng các sĩ quan
chỉ huy các lực lượng yểm trợ cho
chiến trường Quảng Trị, đă tuyên
bố rút quân khỏi Quảng Trị vào khoảng 3-4
giờ sáng ngày 01 tháng 5 năm 1972. Các đơn vị
đồn trú trong Cổ Thành Quảng Trị di
chuyển theo hướng Tri Bưu, Quy Thiện, Hải
Lăng; nhưng măi đến trưa 3 chiếc trực
thăng CH-54 mới bốc Chuẩn Tướng Vũ Văn
Giai và các cố vấn Mỹ bay vào Huế.
Tại Huế, Thiếu Tá Liên Thành, Trưởng Ty
Cảnh Sát Huế – Thừa Thiên, hay tin Sư Đoàn
3 BB rút bỏ Quảng Trị từ 4 giờ sáng ngày 1
tháng 5 năm 1972; tin này do cố vấn trưởng
của CSQG loan báo (ông này được người
bạn đang là cố vấn trưởng cho Chuẩn
Tướng Vũ Văn Giai ngay tại Bộ Tư
Lệnh Sư Đoàn 3 BB loan báo). Thiếu Tá Liên Thành
liền thông báo ngay cho Thiếu Tá Hóa, lúc đó đang
là tùy viên của Thiếu Tướng Phạm Văn Phú
– Tư Lệnh Sư Đoàn 1 BB. Thiếu Tá Hóa chưa
hay biết ǵ cả, nhưng Thiếu Tá Liên Thành cho hay
đây không phải là tin t́nh báo mà do chính cố
vấn trưởng của CSQG sau khi nói chuyện qua
điện thoại với cố vấn trưởng
của Chuẩn Tướng Giai. Thiếu Tá Hóa nói
sẽ gọi lại sau khi kiểm chứng.
Tới 6 giờ sáng, Thiếu Tá Hóa cho hay nguồn tin trên
là đúng và xác nhận một số quân nhân và dân
chúng Quảng Trị đă vào địa phận
tỉnh Thừa Thiên. Ngay sau đó, Thiếu Tá Liên Thành
phát động cuộc hành quân Cảnh Sát, bắt
giữ toàn thể các phần tử thân Cộng và
hoạt động cho Việt Cộng mà Ty CSQG Thừa
Thiên đă thành lập danh sách đen từ trước.
Con số bị bắt vượt quá 2,000 người
chỉ trong 48 giờ thực hiện (đa số là các
phật tử dưới trướng của nhà sư
Thích Trí Quang và Giáo Hội Ấn Quang). Ông báo cáo thành
quả này cho Tướng Nguyễn Khắc B́nh và yêu
cầu Bộ Tư Lệnh giúp đỡ. Chưa
tới 10 ngày sau, Tướng Nguyễn Khắc B́nh
gửi ra Huế một chiếc hải vận hạm
của Cục Quân Vận để chuyên chở hơn
2,000 người này ra đảo Côn Sơn, chịu trách
nhiệm an ninh là Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hải
của ngành Cảnh Sát Đặc Biệt. Tướng
Nguyễn Khắc B́nh nói đây là kế hoạch
“bịt tai, bịt mắt, trói chân, trói tay“ của
CSQG nhằm tránh thành phố Huế bị “nội công
– ngoại kích“ của Việt Cộng.
Điều đáng nói ở đây là Trung Tướng
Hoàng Xuân Lăm, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 và Quân Khu 1
từ trong Đà Nẵng không hay biết ǵ cả,
chả thế mà từ trung tuần tháng 4 năm 1972,
tiếng nói của ông được phát thanh trên
Đài Phát Thanh Huế có đoạn: “Quảng
Trị vững như bàn thạch…”. Thiếu Tá Liên
Thành nói với người viết: không ai cười
Tướng Lăm về chuyện này cả v́ công
chức và dân chúng th́ bận lo di tản vô Đà
Nẵng, c̣n lính tráng và cảnh sát th́ lo chống
giữ quân Bắc Việt để chờ Sài G̣n…
tiếp viện.
Đường vào Quảng Trị 1972
Hồ
sơ trận liệt của Pḥng 2, Sư Đoàn 3 BB
cho hay trận chiến Quảng Trị năm 1972 rất
quan trọng. Cho nên Quân Ủy Trung Ương Quân Đội
Bắc Việt đă cho thành lập Đảng Ủy
và Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Trị Thiên do Tướng
Lê Trọng Tấn, phó Tổng Tham Mưu Trưởng,
làm Tư Lệnh, Tướng Lê Quang Đạo, phó
chủ nhiệm Tổng Cục Chính Trị làm Chính
Ủy kiêm Bí Thư Đảng Ủy. Các Tướng
Cao Văn Khánh, Giáp Văn Cương, Doăn Quế,
Hồng Sơn, Lương Đệ, Anh Nhân làm Phó Tư
Lệnh Chiến Dịch. Ngay cả Bí Thư Tỉnh
Ủy Quảng Trị là Hồ Sĩ Thản cũng
được tham gia vào Đảng Ủy Bộ Tư
Lệnh Chiến Dịch. Sau chót, Thượng Tướng
Văn Tiến Dũng, Ủy Viên Bộ Chính Trị, lúc
bấy giờ là đương kim Tổng Tham Mưu Trưởng
Quân Đội Bắc Việt, được cử làm
đại diện của Quân Ủy Trung Ương
trực tiếp chỉ đạo hướng chiến
lược của Chiến Dịch quan trọng này.
Người viết không nêu chi tiết các đại
đơn vị của Quân Đội Bắc Việt (độc
giả nào cần biết chi tiết xin xem báo KBC
Hải Ngoại cũng như các hồi kư của các
vị chỉ huy của VNCH viết về trận
chiến này). Về mặt tổng quát quân Bắc
Việt có 6 Sư Đoàn BB chủ lực, 1 trung đoàn
độc lập, 5 tiểu đoàn độc lập,
4 tiểu đoàn đặc công, 5 tiểu đoàn địa
phương của Quảng Trị và Quảng B́nh, 4
trung đoàn pháo binh, 4 trung đoàn cao xạ pḥng không,
1 trung đoàn hỏa tiễn SAM, 2 trung đoàn thiết
giáp, 2 trung đoàn công binh.
Phần trước người viết đă nhắc
sơ về lực lượng trấn giữ chiến
trường Quảng Trị, nhưng nếu so sánh
với lực lượng Bắc Việt th́ quyết
định của Tướng Vũ Văn Giai rút quân
ra khỏi Quảng Trị vào ngày 01 tháng 5 năm 1972 là
quá hợp t́nh hợp lư. Hồ sơ trận liệt
của Pḥng 2 Sư Đoàn 3 BB được chuẩn
bị kỹ càng như đă nêu, chả lẽ Bộ
Tổng Tham Mưu tại Sài G̣n không có kế hoạch
đối phó? Theo nhận xét của người
viết, Bộ Tổng Tham Mưu tại Sài G̣n đă
tham khảo với Ban Tham Mưu của Đại Tướng
Creighton Abrams để giăng BẪY chiêu dụ đại
quân của Bắc Việt sập bẫy tiến vào
Quảng Trị.
Phía t́nh báo của quân Bắc Việt đă đánh giá
thấp khả năng của Chuẩn Tướng Vũ
Văn Giai và khả năng tác chiến của Sư
Đoàn 3 BB qua các dữ kiện thu thập từ
thực tế như sau:
1. Đại Tá Vũ Văn Giai là sĩ quan xuất
sắc cấp Trung Đoàn, ông được vinh thăng
Chuẩn Tướng (sau chiến dịch Lam Sơn 719
– tháng 2/ 1971) được đề cử làm Tư
Lệnh Sư Đoàn 3 BB tân lập vào ngày 01 tháng 10 năm
1971, tuy nhiên ông chưa có th́ giờ để
được đi học Khóa Tham Mưu Cao Cấp
điều binh cấp Sư Đoàn. Được
tiếng là Tư Lệnh Chiến Trường Quảng
Trị, nhưng ông không điều khiển được
các Lữ Đoàn TQLC, các Lữ Đoàn Nhảy Dù, các
Liên Đoàn Biệt Động Quân, các Thiết Đoàn
Kỵ Binh… bởi v́ các đơn vị tăng phái
cho ông đều tuân lệnh từ các cấp chỉ
huy hàng dọc của đơn vị họ.
2. V́ thành lập quá gấp gáp để đáp
ứng cho nhu cầu chiến trường Quảng
Trị, một số quân nhân của Sư Đoàn 3 BB
được ân xá từ nhóm quân phạm và nhất
là Lực Lượng Biên Pḥng bị giải tán
rồi chuyển qua Sư Đoàn 3 BB nên thiếu thành
phần hạ sĩ quan và sĩ quan cấp trung đội
và đại đội thiện chiến (trước
đó họ quen việc trấn đóng pḥng thủ
tiền đồn biên giới nên chưa quen với công
việc chiến đấu di động như các
đơn vị bộ binh thuần túy).
Người viết cho rằng sự yếu kém của
Sư Đoàn 3 BB khi trấn giữ mặt trận
Quảng Trị là điều thực tế. Nhưng
vai tṛ của Sư Đoàn 3 BB vào thời điểm
tháng 4/1972 là miếng mồi để dụ quân
Bắc Việt tiến vào Quảng Trị (xin xem tiêu
lệnh phân công và nhiệm vụ do chính Tướng Lê
Trọng Tấn soạn thảo qua tài liệu được
t́m thấy trong sổ tay của một số Tiểu
Đoàn Trưởng quân Bắc Việt tử trận,
và pḥng 2 Sư Đoàn 3 BB và pḥng 2 của Sư Đoàn
TQLC cũng lưu giữ tài liệu này). V́ vậy khi
thấy Sư Đoàn 3 BB không được tăng
viện tương xứng, Trung Tá Phạm Văn Đính
– Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 56 đă ra
đầu hàng quân Bắc Việt: Trung Tá Đính không
nghĩ tới trường hợp Chuẩn Tướng
Vũ Văn Giai được mật lệnh sẽ rút
quân ra khỏi Quảng Trị để tránh bị
tổn thất nhân mạng cho binh sĩ các cấp.
Tất cả những đơn vị rút lui ra khỏi
Quảng Trị vào tháng 5/1972 đều được
chỉnh đốn hàng ngũ, tái trang bị quân trang
quân dụng để chờ ngày xuất phát tái
chiếm Quảng Trị. Nhưng riêng Sư Đoàn 3 BB
th́ không, sau khi tập trung tái bổ xung nhân sự và
quân trang vũ khí tại Trung Tâm Huấn Luyện Đống
Đa, toàn thể Sư Đoàn 3 BB được
vận chuyển vào Quảng Nam để nhận vùng
trách nhiệm mới. Thiếu Tướng Nguyễn Duy
Hinh (gốc Pháo Binh) được bổ nhiệm làm tân
Tư Lệnh, dĩ nhiên phải thay đổi huy
hiệu của Sư Đoàn v́ khi trấn đóng
tại Quảng Trị, huy hiệu cũ có 2 chữ
BẾN HẢI. Để thay thế Sư Đoàn 3 BB,
toàn thể Sư Đoàn TQLC cũng được
chuyển ra Quảng Trị (ngoại trừ Trung Tâm
Huấn Luyện Sóng Thần và Quân Y Viện Lê Hữu
Sanh vẫn c̣n nằm lại Thủ Đức – Gia
Định). Điều đó củng cố cho ư nghĩ
của người viết là kế hoạch di tản
Sư Đoàn 3 BB ra khỏi Quảng Trị cũng như
tái phối trí và hoán chuyển 2 Sư Đoàn vừa nói
trên đều nằm trong kế hoạch dự trù
từ trước của Bộ Tổng Tham Mưu
tại Sài G̣n.
Sĩ quan Lê Văn Trạch của Pḥng 2 Sư Đoàn
3 BB viết: “… Trước t́nh h́nh khẩn trương,
có nguy cơ quân đội BV sẽ tấn công vào
Thừa Thiên – Huế, trong khi Tướng Hoàng Xuân Lăm
và Bộ Tham Mưu của ông không c̣n khả năng và
uy tín để chỉ huy những đại đơn
vị thuộc quyền và ứng phó với một
chiến trường quá cỡ.“ (Hết trích)
Đại Tá Ngô Quang Trưởng khi đang là Lữ
Đoàn Trưởng cuả Nhảy Dù đang hành quân
tại vùng giáp ranh Quảng Trị – Thừa Thiên, tháng
6/1966 nhận được lệnh của Trung Tướng
Nguyễn Hữu Có – Tổng Tham Mưu Trưởng
QL/VNCH vào thành Mang Cá đảm nhận chức vụ Tư
Lệnh Sư Đoàn 1 BB thay thế Chuẩn Tướng
Phan Xuân Nhuận. Tướng Nhuận bị cất
chức và chuyển giao vào Sài G̣n để ra Ṭa Án Quân
Sự v́ dính dáng đến biến cố Bạo
Loạn Miền Trung 1966.
Năm 1967, Đại Tá Ngô Quang Trưởng được
thăng chức Chuẩn Tướng và nắm giữ Tư
Lệnh Sư Đoàn 1 BB. Trong ṿng 4 năm từ 1966
đến 1970, ông cũng được thăng
cấp Thiếu Tướng trong thời gian làm Tư
Lệnh Sư Đoàn 1 BB. Khoảng cuối năm 1970 ông
về nắm giữ Tư Lệnh Quân Đoàn 4 và Quân
Khu 4, ông được vinh thăng Trung Tướng trước
khi trở ra miền Trung làm Tư Lệnh vùng 1.
Điều chắc chắn không ai chối căi là ông quá
quen thuộc với địa h́nh vùng Quảng Trị
– Thừa Thiên nhiều hơn Chuẩn Tướng Vũ
Văn Giai. Và cá nhân người viết c̣n đoan
chắc là Tướng Ngô QuangTrưởng đă tham
dự nhiều khóa huấn luyện của Trường
Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Liên Quân của Quân
Lực Hoa Kỳ tại Fort Lavenworth. Sự thăng
tiến trong kỹ thuật tác chiến của Tướng
Trưởng nằm ngoài tầm kiểm soát của các
cơ quan t́nh báo Bắc Việt, nên quân Bắc
Việt đă phải trả giá rất đắt
về nhân mạng trong chiến dịch tái chiếm
Quảng Trị 1972. Tướng Trưởng cũng
đă tốt nghiệp với ưu hạng của Văn
Bằng Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp Liên Quân Đồng
Minh.
Tướng
Ngô Quang Trưởng và Tướng Bùi Thế Lân
tại mặt trận Quảng Trị 1972
Tướng Ngô Quang Trưởng là “vị chỉ huy
chiến thuật xuất sắc nhất mà tôi đă
từng được biết.”—Đại Tướng
Norman Schwarzkopf
Cả đến hai mươi năm sau, trong quyển
tiểu sử tự viết (autobiography) vào năm 1992,
Đại Tướng Norman Schwarzkopf, Tư Lệnh
Lực Lượng Đồng Minh trong Chiến Tranh Vùng
Vịnh – Gulf War, đă gọi Tướng Ngô Quang Trưởng
là “vị chỉ huy chiến thuật xuất sắc
nhất mà tôi đă từng được biết.”
Sự ngưỡng mộ hết mực của Đại
Tướng Schwarzkopf dành cho Tướng Ngô Quang Trưởng
chính là v́ ông đă chứng kiến tài phối
hợp điều binh Liên Quân Đồng Minh của Tướng
Trưởng trong chiến dịch tái chiếm Quảng
Trị năm 1972 mà nhiều người đă lầm
tưởng Đại Úy Schwarzkopf ngưỡng mộ
Thiếu Tá Trưởng trong trận đánh tại Ia
Drang vào năm 1965 khi Thiếu Tá Trưởng làm
Tiểu Đoàn Trưởng của Tiểu Đoàn 5
Nhẩy Dù.
Ngay khi ra vùng 1, Tướng Trưởng đă cho
thiết lập Trung Tâm Truyền Tin để ông có
thể ra lệnh trực tiếp cho các giới chức
quân sự cao cấp như Bộ Tư Lệnh Không Quân
Chiến Lược B-52 tại căn cứ Utapao bên Thái
Lan, Bộ Tư Lệnh Hải Đội của Hoa
Kỳ tại vùng biển VN, các đơn vị Không
Quân của Hải Quân đóng trên các Hàng Không Mẫu
Hạm, Sư Đoàn TQLC/VN, Sư Đoàn Nhẩy Dù, các
Liên Đoàn Biệt Động Quân, Lữ Đoàn 1
Thiết Kỵ, các tiểu đoàn Pháo Binh Diện
Địa cũng như Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn
101 của Pháo Binh 175 ly. (Chú thích của người
viết: liệt kê dài ḍng như vậy để cho
thấy Trung Tướng Trưởng đang điều
quân cấp liên Quân Đoàn của Liên Quân Đồng
Minh).
Đại Tá Dư Quốc Đống giữ chức Tư
Lệnh Nhảy Dù thay thế Thiếu Tướng Cao Văn
Viên để giữ chức Tư Lệnh Quân Đoàn
3 từ 1965, ông thăng chức Chuẩn Tướng vào
năm 1966 (khi đó Đại Tá Ngô Quang Trưởng
c̣n giữ chức Lữ Đoàn Trưởng của
Nhẩy Dù). Ngay từ 19-6-1965, Tướng Lê Nguyên Khang
đă nắm giữ Tư Lệnh Quân Đoàn kiêm
nhiệm Tư Lệnh TQLC. V́ vậy khi ra miền Trung
nắm giữ Tư Lệnh Quân Đoàn 1, Bộ
Tổng Tham Mưu đă thay thế 2 ông Tướng có
thâm niên công vụ cao hơn Tướng Trưởng
để ông dễ chỉ huy 2 đại đơn
vị Nhẩy Dù và TQLC. Sự thay thế đó là
Đại Tá Lê Quang Lưỡng giữ chức Tư
Lệnh Sư Đoàn Dù và Đại Tá Bùi Thế Lân
giữ chức Tư Lệnh Sư Đoàn TQLC, cả 2
ông Tư Lệnh mới này đều tốt nghiệp
Khóa 4 Trường Bộ Binh Thủ Đức và chưa
có thâm niên công vụ cấp Tướng Lănh.
Quyển sách Quân Sử của TQLC/VNCH cũng đề
cập đến khả năng ghê gớm và hiệu
quả của hải pháo đặt trên các tàu
chiến tiếp cận bờ biển Quảng Trị
đă bắn yểm trợ TQLC/VNCH. Đây là loại vũ
khí mà các tướng lănh của Bắc Việt không
biết tới. Họ đă điều động
nhiều súng pḥng không để kiềm chế các máy
bay của Không quân, nhiều đơn vị mang
hỏa tiễn AT-3 để khống chế chiến xa
của ta, dùng đại bác 130 ly tầm xa 32 km bắn
cường tập vào mục tiêu để đè
bẹp pháo binh ta. Nhưng không có đơn vị nào
trang bị hỏa tiễn ĐỊA đối HẢI
để đẩy lui các chiến hạm của Hoa
Kỳ ngày đêm pháo kích vào các căn cứ của
Cộng quân! Điều này cũng dễ hiểu v́ quân
đội Liên Xô và Trung Cộng không có kinh nghiệm nào
về hải pháo và cũng chưa bao giờ tham
chiến với mô thức chiến trận này. Suy ra,
nếu có tác chiến trực tiếp với Hoa Kỳ
th́ bộ binh Trung Cộng hay bộ binh Liên Xô cũng
sẽ chịu tổn thất nặng nề y như quân
đội Bắc Việt vậy thôi.
Người viết gọi Cổ Thành Quảng Trị
là cái RỌ, v́ chiều tối 01 đại đội
quân Bắc Việt vượt sông chui vào tăng cường
cho quân trú pḥng, nhưng không chịu nổi hỏa
lực của Hải Pháo, nên sáng hôm sau phải rút ra.
Làm một bài tính, khi vào khoảng hơn 100 người
mà khi rút ra, đại đội chỉ c̣n khoảng
7-8. Nhà báo Huy Đức trong quyển Bên Thắng
Cuộc tính nhẩm đă có hơn 10,000 chiến binh
Bắc Việt bỏ mạng, bỏ xác tại Cổ
Thành (thành phần này đa số là sinh viên học
sinh của thành phố Hà Nội).
Nhiều người VN, kể cả người
viết bài, đều không hiểu đấu pháp
của Tổng Thống Nixon. Và cũng v́ vậy phía bên
cộng sản VN đă chịu tổn thất nhân
mạng lên tới 3 triệu lính. Tháng 11/1968, cá nhân người
viết cùng với người bạn chạy lên Ṭa
Đại Sứ Mỹ ở đường Thống
Nhất xem diễn biến bầu cử giữa 2
ứng cử viên Humphrey của Đảng Dân Chủ và
Nixon của Đảng Cộng Ḥa. Chúng tôi thở phào
khi ứng cử viên Nixon chiến thắng và lầm tưởng
Chính Phủ Nixon sẽ yểm trợ VNCH chiến
thắng Bắc Việt. Đó là một sự lầm
lẫn to lớn v́ sau này mới hiểu ra là Nixon
cần chiến thắng ngôi vị Tổng Thống Hoa
Kỳ để “rút quân về nước”.
Nixon ra lệnh cho Melvin Laird – Bộ Trưởng Bộ
Quốc Pḥng lập kế hoạch rút quân dưới
cái tên Việt Nam Hóa Chiến Tranh. Cuối năm 1971,
toàn thể Lục Quân Hoa Kỳ trú đóng tại
phần đất VNCH đă lên đường về
nước. Cấp lănh đạo Bắc Việt tưởng
là ngon ăn nên phát động 3 mặt trận Trị
-– Thiên, Kontum và B́nh Long - An Lộc nhưng thất
bại cả 3 mặt trận. Lănh đạo VC tưởng
rằng nhân dân Hoa Kỳ sẽ không bỏ phiếu cho
Nixon v́ Kế Hoạch Việt Nam Hóa Chiến Tranh
thất bại. Thực tế, trong cuộc bầu
cử 1972, Tổng Thống Nixon đạt được
thắng lợi trên 49 tiểu bang v́ ông chủ trương
rút quân từ từ chứ ông không “bỏ chạy”
như ứng cử viên Đảng Dân Chủ là Thượng
Nghị Sĩ Mc Govern chủ trương.
Người viết không có bất cứ lời than
phiền nào đến các vị lănh đạo của
VNCH v́ chúng ta bị Bắc Việt xâm lăng, chúng ta
bắt buộc phải chiến đấu để
bảo vệ đất nước của chúng ta,
bảo vệ nhân dân và gia đ́nh thân thuộc của
chúng ta. Chính phủ Nixon giúp chúng ta chiến thắng
trận Quảng Trị năm 1972 là để “mua
thời gian” không cho cộng quân chiếm VNCH trong năm
1972. Hoa Kỳ là một quốc gia lớn, có nhiều
việc cần phải làm, Hoa Kỳ không thể bị
sa lầy tại Việt Nam cho nên bỏ rơi VNCH cũng
là cách làm cho chiến tranh Việt Nam phải chấm
dứt.
Viết xong tại San José, ngày chủ nhật 12 tháng
2 năm 2017
Trần Trung Chính
|