Quân
Lực Việt Nam Cộng Hoà 1968-1975 |
Quân
Lực Việt Nam Cộng Hoà, một đạo quân
đă chiến đấu dũng mănh Dịch
giả: Nguyễn Tiến Việt Lời
người dịch:
Bill
Laurie là sử gia Hoa Kỳ, một trong những chuyên
gia nghiên cứu về Việt Nam và nhân chứng
được mời tŕnh bày quan điểm trong
cuộc hội thảo mang tên “Quân Đội Việt
Nam Cộng Ḥa: Suy ngẫm và tái thẩm định
sau 30 năm” (ARVN: Reflections and reassessments after 30 years) do
Trung Tâm Việt Nam thuộc Đại Học Texas Tech
tổ chức tại Lubbock trong hai ngày 17 và 18 Tháng Ba
năm 2006. Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa thay đổi một cách
đáng kể cả về số lượng lẫn
phẩm chất trong khoảng thời gian từ 1968
đến 1975. Sự thay đổi không hề
được giới truyền thông tin tức (Hoa
Kỳ) lưu ư, và nh́n chung th́ đến nay vẫn
không được công chúng Mỹ biết đến,
vẫn không được nhận chân và mô tả
đầy đủ trong nhiều cuốn sách tự
coi là “sách sử”. Một phần nguyên nhân của
sự kiện này là do bản chất và tầm
mức của sự thay đổi không dễ
được tiên đoán hay tiên kiến, dựa trên
hiệu quả hoạt động và khả năng
của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa trước
năm 1968.
Khởi
thủy, được huấn luyện và dự trù
phục vụ như một cố vấn, tôi tham
dự khóa huấn luyện căn bản sĩ quan
lục quân tại Fort Benning, Georgia, t́nh báo chiến
thuật và chuyên biệt về Đông Nam Á ở Ft.
Holabird, Maryland, và học trường Việt ngữ
tại Ft. Bliss, Texas. Tới Việt Nam th́ được
biết những nhiệm vụ cố vấn đang
được giảm dần để đi đến
chỗ bỏ hẳn; nên thay vào đó tôi được
chỉ định vào MACV J-2 với cương vị
một chuyên viên phân tích t́nh báo, trước hết
phụ trách Cambodia, rồi tập trung vào Quân Khu IV,
bao quát toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Công
việc này mở rộng một cách không chính
thức để bao gồm công tác liên lạc
giữa Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt
Nam Cộng Ḥa, các toán cố vấn Mỹ, các chính
quyền tỉnh thị của Việt Nam, và cả các
đơn vị Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa
ở vùng IV. Trong 3 năm đó tôi có mặt lúc
chỗ này, lúc chỗ khác, trên khắp 18 trong số
44 tỉnh của Việt Nam Cộng Ḥa, liên lạc không
những với các đơn vị Mỹ và Việt
Nam Cộng Ḥa mà cả với người Úc, cơ
quan viện trợ Mỹ USAID, và CIA. Khi th́ đứng
vào vị trí rất cao cấp trong những buổi
thuyết tŕnh ở tổng hành dinh của MACV cũng
như ở Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa, tuần lễ sau đó tôi có
thể đă lội trên những ruộng lúa tỉnh
Kiến Phong cùng với các binh sĩ Địa Phương
Quân, hay bay ngang tỉnh Định Tường trên
một chiếc trực thăng Huey của Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa, hoặc là nằm trong căn
cứ Biệt Động Quân Trà Cú bên sông Vàm Cỏ
Đông. Những
thời khắc ngoài giờ làm việc của tôi
được dàn trải trọn vẹn trong một
kích thước thực tế hoàn toàn Việt Nam. Dù
là ở Sài G̣n, Cao Lănh, hay Rạch Giá, tôi cũng lui
tới những cái quán nhỏ, với những bàn cà-phê,
ḿ, cháo… háo hức lắng nghe người dân, người
lính Việt Nam nói chuyện, tôi hỏi han, và học
được thật nhiều, nhiều hơn
những ǵ tôi từng học ở Hoa Kỳ. Sự
học tập của tôi không dừng lại ở năm
1975. Từ đó đến nay tôi đă đọc
hằng feet/khối những tài liệu giải
mật và hằng trăm cuốn sách, kể cả
những tác phẩm tiếng Việt, phỏng vấn
đến mức từ kỷ lục này qua kỷ
lục nọ với những cựu chiến binh
gốc Đông Nam Á và gốc Hoa Kỳ, săn t́m trong
hằng trăm trang web Việt Nam và Đông Nam Á trên
Internet. Vẫn c̣n rất nhiều điều về
Việt Nam, Lào, Cambodia và Thái Lan hơn là những ǵ
công chúng Hoa Kỳ tưởng, và những kết
luận do những người ở các xứ ấy
tự tŕnh bày lên th́ lại không phù hợp với
những ǵ mà hầu hết mọi con người
(ở Mỹ) tưởng là họ biết. Quả
là có những vấn đề nghiêm trọng về
tham nhũng. Đúng là có những tấm gương
về lănh đạo bất xứng. Tuy nhiên,
chẳng phải ai nói hay gợi ư ǵ với tôi, mà chính
là ngay lần đầu tiên đến với Sư
Đoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa, tôi đă phát
giác khả năng dày dạn và đầy chuyên
nghiệp trong những hoạt động mà tôi
chứng kiến ở một trung tâm hỏa lực
cấp sư đoàn. Cũng chẳng ai nói với tôi
là Sư Đoàn 7 Bộ Binh Việt Nam Cộng Ḥa,
đơn vị cứ măi bị kết tội v́
khả năng chiến đấu kém cỏi ở
Ấp Bắc nhiều năm trước, đă
biến thái thành một đơn vị có hiệu năng
chiến đấu cao dưới tài lănh đạo
chỉ huy của Tướng Nguyễn Khoa Nam, một
con người thanh liêm không một t́ vết, song song
với tài năng về chiến thuật, mà đến
nay vẫn không hề được công chúng Hoa
Kỳ biết tới, tuy đă được người
Việt Nam tôn sùng đúng mức. Cũng không hề
có ai ngụ ư hay nói với tôi rằng có thể là
lực lượng Địa Phương Quân tỉnh
Hậu Nghĩa, là những dân quân của tỉnh,
đă làm mất mặt chẳng những 1 mà tới
3 trung đoàn chính quy của quân đội miền
Bắc trong chiến dịch tấn công năm 1972
của Hà Nội. Họ đă nhai nát và nhổ ra nguyên
cả lực lượng xung kích của đối phương,
một lực lượng có thể đă làm đổi
chiều lịch sử vào thời kỳ đó.
*** Trở
lại thời kỳ đang thảo luận trong
bản thuyết tŕnh này, ai cũng biết Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa vướng mắc
nhiều vấn đề trầm trọng. Điều này
là hiển nhiên. Nếu không như vậy th́ đă
chẳng cần phải yêu cầu những đơn
vị chiến đấu của Hoa Kỳ, Úc, Nam Hàn,
Thái Lan và New Zealand tới đó.
n
có những chỉ dấu cho thấy lực lượng
Việt Nam Cộng Ḥa khi được trang bị
đúng mức và chỉ huy tốt đẹp th́
sẽ có khả năng tới đâu. Năm 1966
một tiểu đoàn Biệt Động Quân Việt
Nam Cộng Ḥa đă gây thiệt hại nặng và
đă “giúp” giảm quân số chỉ c̣n 1 phần
10 cho một trung đoàn Bắc Việt đông
gấp ba lần họ ở Thạch Trụ. Tiểu
đoàn này được Tổng Thống Johnson
tặng thưởng “Huy chương của tổng
thống Hoa Kỳ”. Đại Úy Bobby Jackson, cố
vấn tiểu đoàn này, đă mô tả người
đối tác của ông, Đại Úy Nguyễn Văn
Chinh (hay Chính?), như là con người tuyệt nhiên
không hề sợ hăi. Tiểu Đoàn 2 Thủy Quân
Lục Chiến, mang huy hiệu Trâu Điên, đă
từng bắt nạt nhiều đơn vị
cộng sản miền Nam và chính quy Bắc Việt,
chứng tỏ sự xứng hợp của huy
hiệu trâu điên (càng có ư nghĩa đối
với những ai đă từng gặp phải
một con trâu đang nổi giận (và bị nó
ăn hiếp!) Công trạng của họ không hề
được tường tŕnh trong giới truyền
thông tin tức của Hoa Kỳ, và về sau cũng
bị bỏ quên trong cái gọi là “lịch
sử”…
“Hai
Việt cộng đang bắt cóc một Nhân dân
tự vệ th́ một Nhân dân tự vệ khác
xuất hiện, bắn chết hai Việt cộng này
bằng súng M1 (không ghi rơ garant hay carbine), tịch thu
được một súng AK47 và một súng lục 9
ly.” Tương
tự như vậy, lực lượng Nghĩa quân,
Địa phương quân với sự trợ giúp
của các toán cố vấn Mỹ lưu động,
được tuyển mộ thêm từ năm 1968 và
trang bị vũ khí tốt hơn, khởi sự
tiến bộ, như cố vấn David Donovan thuộc
một toán lưu động chứng kiến trong
một trận tấn công bộ binh năm 1970: “Chúng
tôi vừa vượt khỏi khu ḿn bẫy chính th́
bị hỏa lực từ một rặng cây trước
mặt bắn tới. Nước văng tung tóe xung
quanh, đạn bay véo véo trên đầu, trong
tiếng súng nhỏ nổ ḍn. Binh sĩ bây giờ
phản ứng tốt lắm, không giống như trước
kia cứ mỗi khi bị bắn là họ gần như
tê liệt. Trung sĩ Abney chỉ huy cánh đuôi
của đội h́nh hàng dọc, bung qua bên phải,
sử dụng như thành phần điều động
tấn kích, trong khi chúng tôi ở phía trước
phản ứng lại hỏa lực địch. Khi toán
của Abney tới được chỗ địa
thế có che chở th́ họ dừng lại và
bắt đầu tác xạ. Dưới hỏa
lực bắn che đó chúng tôi tràn tới một
vị trí khác. Hai thành phần chúng tôi yểm trợ
nhau như vậy và tiến được tới hàng
cây, sẵn sàng xung phong. Ba người trong toán
của tôi bị trúng đạn, không biết
nặng nhẹ ra sao nhưng mọi người đều
xông tới. Chúng tôi đă hành động khá hay.” Kinh
nghiệm của Donovan không phải là độc
nhất. Cố vấn John Cook nhắc lại niềm
lạc quan của ông vào năm 1970: “Chúng
tôi (tức Cook và sĩ quan đối tác phía Việt
Nam) đang rất lên tinh thần, cảm thấy như
ḿnh là “kim cương bất hoại”. Tinh thần
chiến đấu và hăng hái chủ động
tấn công trong quận hết sức cao, khiến chúng
tôi truy kích quân địch một cách gần như
khinh suất, liều lĩnh.” Những
thành tích như vậy không phải mọi nơi
đều có. Có những đơn vị không đáp
ứng được trong thời kỳ thay đổi
và vẫn bị lănh đạo chỉ huy kém cỏi,
chẳng thực hiện một cuộc hành quân
lục soát với chiến thuật chủ động
tấn công nào. Có khi cố vấn Hoa Kỳ suưt
bị giết hay bị dọa giết bởi
những sĩ quan địa phương của
Việt Nam mà họ không ḥa thuận được.
Nhiều cố vấn Mỹ khác không gặp cảnh
ngộ khó chịu đó, nhưng cũng chẳng có
ấn tượng tốt nào về hoạt động
của những đon vị mà họ cố vấn. Dù
sao th́ những chuyện tích cực và thích thú do
cố vấn Mỹ chứng kiến cũng đầy
rẫy, nhưng lại hoàn toàn vắng bóng trong
những cuộc thảo luận trên nước
Mỹ hay trong ư tưởng của những người
Mỹ b́nh thường, cũng như trong những ǵ
được dạy dỗ tại các trường
học Hoa Kỳ. “Tôi
có ấn tượng hoàn toàn tốt, và thực
sự là kinh ngạc, về cách thức hành quân và
sự táo bạo của họ trong mọi việc…
Đây là cuộc hành quân thứ 13 như vậy do
vị tiểu đoàn trưởng này chỉ huy. Ta
đang nói chuyện về những chuyên gia hết
sức tinh thục trong những ǵ họ làm, những
người đă từng thực hiện những công
tác sởn tóc gáy và vẫn tiếp tục thực
hiện… Các cố vấn của trung đoàn này luôn
luôn nói với tôi lúc tôi ra đó, rằng ‘anh đang
làm việc với những người giỏi
nhất. Chúng ta không có điều ǵ để mà có
thể nói cho những người này làm. Chúng ta (các
cố vấn) chỉ có việc yểm trợ hỏa
lực mà thôi. C̣n về sự hiểu biết trong hành
quân, th́ họ là người dạy chúng ta.’ Chúng tôi
có các cố vấn người Úc và người
Mỹ, họ đều nói y như nhau.” (tác
giả trích luận án Master năm 1987 của Howard C.H
Feng, đại học Hawaii). Ở
miền Nam, trong lănh thổ tỉnh Định Tường
thuộc quân khu IV, sư đoàn 7 bộ binh VNCH cũng
thi hành nhiệm vụ không hề có khuyết điểm,
theo lời xác nhận của các cố vấn và các
phi công Mỹ lái trực thăng chuyển quân cho các
binh sĩ sư đoàn 7 trong những trận tấn công.
Sư đoàn này từng bị mang tiếng là sư
đoàn “lùng và né” (thay v́ “lùng và diệt”,
search and destroy), có thể v́ trận Ấp Bắc
hồi 1963, nhưng những ai trực tiếp công tác
với họ không thể nói ǵ hơn là những
lời ca tụng, ngưỡng mộ về sự tinh
thông chiến thuật và tinh thần hăng hái xông xáo.
Một cựu cán binh Bắc Việt xác nhận
về sự dũng cảm của sư đoàn 7
bộ binh: “Vùng
giải phóng bị thu hẹp… Tôi mất thêm
thời gian di chuyển quanh, cố tránh xa các cuộc
hành quân của quân đội VNCH. Ở
Bến Tre (tức tỉnh Kiến Ḥa) sư đoàn 7
VNCH là lực lượng chính gây nên nhiều khó khăn.
Hầu hết sư đoàn được tuyển
mộ ở vùng châu thổ sông Cửu Long nên họ
biết rành hết cả vùng. Họ thông thuộc vùng
này cũng như chúng tôi.” (tác giả trích
dẫn David Chenoff và Đoàn văn Toại, sách Chân dung
kẻ địch, Random House ở New York xuất
bản năm 1986). T́nh
h́nh c̣n tồi tệ hơn khi các đơn vị quân
đội Bắc Việt điền khuyết cho các
đơn vị “Việt cộng”, không hiểu
biết chút nào về vùng này và được trang
bị kém cho cuộc chiến kiểu các rặng cây
ở phía Bắc vùng châu thổ. Một tù binh cho
biết bị bắt sống không bao lâu sau khi
tới, lúc anh ta và những người khác được
lệnh phục kích một cuộc hành quân càn quét
của sư đoàn 7 vào ngày hôm sau. Bố trí xong trước
b́nh minh, đội quân đáng lẽ phục kích người
ta th́ lại bị tấn công từ phía sau do thành
phần bên sườn của sư đoàn 7, trước
khi tới lượt lực lượng chính. (Tài
liệu trích dẫn). Kết
quả của điều này thêm hiển nhiên trong
thời gian giữa 1968 và 1971, thời kỳ mà quân
số lực lượng Hoa Kỳ giảm thiểu hơn
một nửa, trong khi những cuộc hành quân
tấn công của Việt cộng và quân Bắc
Việt lại bị suy giảm rơ rệt: Tỉ
lệ về các cuộc tấn công lớn nhỏ
của phía cộng sản giảm hơn là tỉ
lệ giảm quân số, cho thấy một sự sa sút
toàn diện về khả năng quân sự, dưới
tỉ lệ dự đoán là 21% quân số sụt
giảm. Điều này xảy ra trong khi quân số tham
chiến của Hoa Kỳ giảm tới 58%. Quân
cộng sản Bắc Việt và Việt cộng không
những chỉ có mặt ít hơn trên toàn lănh
thổ, mà c̣n kém khả năng tung ra những
cuộc hành quân tấn kích. Nhiều
con số thống kê của VNCH không chính xác, nhất
là con số xă ấp có an ninh th́ lại c̣n kém xác
thực hơn, nhưng biểu đồ khuynh hướng
khá rơ ràng, và không có bằng chứng dù về
thống kê hay tin đồn vặt, mà nêu ra điều
ǵ khác hơn là sự xuống dốc thẳng đứng
trong thời vận của quân Việt cộng và quân
đội Bắc Việt trong khoảng thời gian
từ 1968 đến 1971. Trong khi Việt cộng,
gọi như vậy để phân biệt với quân
Bắc Việt, không bị tiêu diệt hoàn toàn, và
những ổ kháng cự có ảnh hưởng
mạnh do họ kiểm soát vẫn tồn tại
ở những tỉnh như Chương Thiện, Định
Tường, Quảng Nam, Quảng Ngăi, th́ Việt
cộng ở địa phương cũng không c̣n là
một lực lượng chiến lược.
Nếu không có sự xâm nhập đại quy mô
của quân Bắc Việt và sự cung cấp vũ
khí hiện đại, th́ chiến tranh đă dần
dần tự tàn lụi. Những đơn vị và
khu vực của Việt cộng tồn tại
được cũng hoàn toàn không phụ thuộc vào
quân đội Bắc Việt để sống c̣n. Tác
giả “phản chiến” Frances Fitzgerald của
cuốn “Lửa trong hồ” (thật khôi hài, là
cuốn sách bị đả kích bởi cả người
chỉ đạo về tư tưởng của Hà
Nội, Nguyễn Khắc Viện, lẫn người
ủng hộ Mặt trận Giải phóng và Hà
Nội, Ngô Vĩnh Long), nh́n nhận rằng khả năng
sinh tồn của cả Việt cộng lẫn QLVNCH
hồi năm 1966 là mỗi bên 50%, nhưng đến
1969 th́ cơ hội sống c̣n của Việt
cộng chỉ c̣n 10%, trong khi tỉ lệ này phía
QLVNCH lên hẳn 90%. Nguyễn Văn Thành, sau 23 năm
theo Việt cộng, hồi chánh năm 1970, cho rằng
cứu cánh của Mặt trận giải phóng là vô
vọng. Ông ta nêu ra những cuộc hành quân gia tăng
của QLVNCH, sự phát triển những đơn
vị Nghĩa quân xă quận và các chương tŕnh
Nhân dân tự vệ, cùng với kế hoạch
cải tổ về ruộng đất của chính
phủ VNCH, coi đó là những việc không thể
đối phó được nữa. Stanley Karnow
khẳng định thằng thừng trong cuốn sách
được đánh giá cao quá đáng của ông,
không cần giải thích nguyên do, rằng đến năm
1971, th́ “riêng phía Việt cộng không phải là
đối thủ của quân đội chính quyền
Sài G̣n.” Don
Colin trải qua nhiều năm ở Việt Nam,
được nhiều người biết đến
qua lối bày tỏ thô lỗ, phản bác thô bạo
và quá đáng, cộng với lối rủa sả om
ṣm những ǵ mà ông ta coi là tào lao nhảm nhí. Ông này
đă phải chịu đựng những khó khăn
trở ngại, những khởi đầu sai lạc
cùng những vấn đề tương tự,
bị coi như toàn những điềm gở. Nhưng
năm 1971 Don Colin cũng thấy những kết
quả tích tụ hiển hiện ở vùng châu
thổ: “Ba
mươi tháng trước, con số những cấp
chỉ huy giỏi ở quân khu IV chỉ đếm
được trên một bàn tay. Ngay cả tư
lệnh quân đoàn, một cấp chỉ huy tốt,
trong sạch và tương đối có khả năng,
cũng nhút nhát, thiếu óc sáng tạo và không đủ
sức kích động thuộc cấp vào những
hoạt động xông xáo và tích cực. Cấp tư
lệnh sư đoàn th́ phần lớn thiếu
khả năng, hầu hết các tỉnh trưởng
cũng kém cỏi và tham nhũng. Các cấp chỉ huy
thuộc quyền của họ th́ chẳng những
noi gương xấu mà nhiều khi c̣n phạm
khuyết điểm quá hơn cấp trên nữa. Nhưng
nay th́ chuẩn mực chung về tài năng, sự
trong sạch và tận tâm đă tăng lên tới
mức mà trước kia tôi cho là không thể tưởng
tượng được. Sự thay đổi đặc
biệt này khiến tôi thêm lạc quan tin tưởng
ở khả năng tối hậu của chính phủ
trong việc kiểm soát được Việt Nam và
thành lập một chính quyền ổn định.” Không
ai khác hơn là học giả hàng đầu của
Hoa Kỳ về Việt Nam, Douglas Pike, đă tuyên
bố cuộc xâm lược của Hà Nội
thất bại là v́ “…Nam Việt Nam chiến
đấu hơn hẳn quân đội xâm lăng
đến từ phương Bắc.” Nhiều
nhà b́nh luận, kể cả Tướng Ngô Quang Trưởng,
nói tới không lực Hoa Kỳ như một yếu
tố quyết định, th́ đó đúng là
yếu tố chính. Nhưng những điều
ngụ ư nói là QLVNCH không thể chiến đấu
nếu như không có không lực Mỹ, th́ đă
thiếu sót hai điều căn bản. Thứ
nhất, quân đội Mỹ cũng chỉ được
yểm trợ bằng không lực giống như
QLVNCH đă được.
Thứ hai, là điểm người ta ít nh́n ra: Không
lực Hoa Kỳ là một yếu tố bổ sung
để cân bằng với hai lực lượng vượt
trội của Bắc Việt là thiết giáp và,
lợi hại hơn cả, là lực lượng pháo
binh hơn hẳn, hỏa tiễn 122 ly chính xác và
đại pháo 130 ly gây tàn phá quy mô ở tầm
tối đa 19 dặm (32 km). “Anh
ta đâm chúc đầu chiếc máy bay xuống
tới tầm vũ khí liên thanh, và quả nhiên tôi
thấy nhiều lằn đạn lửa vạch
đường sáng bao quanh Pepper dẫn đầu. Tôi
la lên báo động, th́ đă thấy anh thả bom
ở độ cực thấp và ghi một bàn
tuyệt hảo trúng ngay bức tường. Trong
những lần oanh kích tiếp theo ngay đó, các phi công
của không quân Việt Nam cũng ghi bàn hoàn hảo
mỗi lần đâm xuống, cũng là mỗi
lần họ bị đạn pḥng không bắn lên
xối xả… Hỏa lực từ mặt đất
vô cùng mạnh mẽ. Quân Bắc Việt có vẻ như
biết rằng đối thủ của họ là người
Nam Việt Nam. “Tôi
tin chắc là hai chiếc A-37 sẽ bị bắn rơi,
nhưng cả hai đều xả hết bom đạn
của họ trúng đích, không hề hấn ǵ. Hai
phi công không quân Việt Nam đă tŕnh diễn một
màn tuyệt vời, và tôi ngưỡng phục ḷng
can đảm của họ trên cả sự thông minh.
Trong giây phút đó ḷng can đảm ấy đă vượt
hẳn sự khôn ngoan trong những tính toán hơn
thiệt về sự an toàn của cá nhân họ.” “Không
quân Việt Nam tự chứng tỏ sự trưởng
thành trong cuộc tấn kích 1972… Trong trận pḥng
thủ Kontum KQVN thật cừ khôi, hết sức
tuyệt diệu.” QLVNCH
tiếp tục hoạt động tốt đẹp
sau khi hiệp định Paris gian lận được
kư kết và bị vi phạm lập tức. Cuối
Tháng 11 năm 1973 một lực lượng đặc
nhiệm VNCH đă đánh đuổi sư đoàn 1
Bắc Việt ra khỏi căn cứ Thất Sơn,
gây tổn thất nặng tới nỗi sư đoàn
1 này của Bắc Việt phải giải thể,
số quân sống sót phải gia nhập các đơn
vị khác. Ít tháng sau sư đoàn 7 VNCH tung ra
cuộc hành quân lớn để quét các đơn
vị Bắc Việt khỏi mặt khu Tri Pháp ở vùng
giáp ranh ba tỉnh Định Tường-Kiến Tường-Kiến
Phong, gây tổn thất nặng cho địch. Tri
Pháp chưa bao giờ bị xâm phạm trong suốt
cuộc chiến tranh, có đặc điểm là
những vị trí pḥng thủ kiên cố; cuộc
thất trận gây hổ thẹn tới mức nhà
cầm quyền cộng sản cảnh cáo các cấp
là phải dấu sự thất bại đừng
để bộ đội của họ biết,
sợ bộ đội xuống tinh thần. Các
phái đoàn Ba Lan và Hungary trong cái Ủy ban liên
hiệp quân sự bốn bên bất lực, chỉ là
gián điệp cho cộng sản Hà Nội. Nhưng
một trong những báo cáo của họ năm 1973 xác
định là không có đơn vị Việt
cộng nào ngang sức với QLVNCH, và cả những
đơn vị thiện chiến nhất của
Bắc Việt cũng không sánh được với
các đon vị Nhảy Dù và Thủy quân Lục
chiến của VNCH. Năm
1972 ----------------- Năm 1975 --------- Tỉ lệ
giảm Mọi
thứ bị cắt đến tận xương,
rồi tận tủy. Nhiều binh sĩ bộ binh
được cấp số đạn căn bản
là 60 viên M16 cho một tuần lễ. Nhiều
đơn vị cấm binh sĩ bắn M16 liên thanh,
chỉ được bắn phát một. Các
đơn vị chạm địch có khi bị
giới hạn chỉ c̣n được bắn
yểm trợ hai trái đạn đại bác,
ngoại trừ khi bị tràn ngập. Thiếu cơ
phận thay thế, xe tăng, tàu giang tuần, máy
bay… nằm ụ chờ rỉ sét (“cho mối
mọt ăn”). Tệ hơn nữa, binh sĩ QLVNCH và
gia đ́nh họ phải chịu thiếu thốn khi
nền kinh tế bị lạm phát 50%, và 25% thất
nghiệp. Một bản nghiên cứu của cơ quan
DAO thực hiện năm 1974 tiết lộ 82% binh sĩ
VNCH không có đủ thực phẩm cho nhu cầu
của gia đ́nh. Đói kém và suy dinh dưỡng làm
xuống tinh thần cùng khả năng chiến đấu.
T́nh h́nh những tháng sau đó càng xuống dốc, và
người ta đau ḷng chứng kiến một cái
chết chắc chắn sẽ đến v́ hằng ngàn
vết thương. Khi
bắt đầu sự đổ vỡ tan hoang, và
đám đông hỗn độn theo lệnh ông
Thiệu rút khỏi vùng cao nguyên, th́ khủng
hoảng và kinh hoàng xảy đến, phần nào tăng
thêm v́ những lệnh lạc trái ngược phát
xuất từ dinh Tổng Thống. Nhưng trong sự
sụp đổ nhục nhă sau cùng, vẫn có không ít
những trận “Alamo” nhỏ của những người
lính VNCH chiến đấu đến phút cuối. Sư
đoàn 18 đứng vững ở Xuân Lộc là
một trận anh hùng ca, nhưng sự có mặt và
vai tṛ của của Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù trong
trận này không hề được biết đến.
Khi quân khu II đổ vỡ và kết cuộc đă
gần, sư đoàn 7 VNCH vẫn đánh bại
một nỗ lực của quân Bắc Việt
muốn cắt quốc lộ 14, con đường
quốc lộ duy nhất nối vùng châu thổ
Cửu Long vói Sài G̣n. Vào ngày cuối, gọi là “ngày
quốc hận” (tác giả viết bằng tiếng
Việt), một máy bay AC-119 trang bị liên thanh sáu ṇng
do các Trung Úy Thanh và Trần Văn Hiền (hay Thành,
Hiển?) c̣n bay quanh Sài G̣n yểm trợ hỏa
lực cho những đơn vị VNCH lâm chiến sau
cùng. Hết xăng, hết đạn, họ đáp
xuống đổ xăng và lấy thêm đạn, sĩ
quan hành quân biểu họ không cần cất cánh
nữa, tất cả đă mất hết rồi. Nhưng
các Trung Úy Thanh và Hiền vẫn vững chí, nhận
nhiên liệu và đạn dược, và được
hai chiếc A1H-Skyraider tháp tùng do Thiếu Tá Trương
Phụng và Đại Úy Phúc lái, họ tiếp tục
lại một trận chiến tuyệt vọng. Sau cùng
chỉ c̣n Đại Úy Phúc sống sót, oanh kích đến
khi hết đạn. Hai Trung Úy Thanh, Hiền và
Thiếu Tá Trương Phùng đều bị SA-7
bắn rơi, tử trận. Họ đă chiến
đấu đến măi tận giây phút cuối cùng! Một
cách tổng quát, cứ bị đói như QLVNCH đă
bị th́ không một quân đội nào có thể
chống lại cuộc tấn công cuồng bạo
của quân đội Bắc Việt, với thừa
ứ những khẩu pháo, xe tăng, vũ khí, nhiên
liệu, xe tải quân, đạn dược, do
khối cộng sản cung cấp. Trước một
đạo quân VNCH bị rút ruột v́ cắt
viện trợ như vậy, quân đội Bắc
Việt đă phải tung ra tất cả những ǵ
họ có. Chừng 400 ngàn quân cộng sản, gần
90% là bộ đội miền Bắc, được
đưa ra trận để đánh bại QLVNCH. Hà
Nội chưa bao giờ từng tung ra một lực lượng
khổng lồ và hiện đại như họ
đă ném vào trận chiến năm 1975. Hà Nội chưa
từng rút ra tất cả các đơn vị từ
Lào, Cambodia. Về lượng, quân số 400 ngàn là
gần gấp 5 số quân Việt cộng và Bắc
Việt lâm chiến hồi tết 1968, trong khi về
phẩm, c̣n có hằng trăm đại bác tầm
xa, hằng trăm xe tăng, hằng ngàn xe tải, và
nguyên một kho vũ khí hiện đại, Đoàn quân
viễn chinh năm 1975 có hơn gấp năm lần
khả năng chiến đấu của lực lượng
cộng sản hồi Tết Mậu Thân 1968. Xem
xét sự việc từ một khía cạnh khác, có
thể phán đoán mà không sợ sai lầm rằng
giả sử quân đội Bắc Việt bị
yếu đi v́ cắt giảm mức cung ứng như
QLVNCH đă gánh chịu, th́ họ không bao giờ có
thể tung ra một cuộc tổng công kích sau cùng, mà
hẳn đă yếu kém hơn thế nhiều. Ưu
thế hỏa lực quyết định chiến trường,
chẳng phải là điều ǵ mới lạ trong
lịch sử quân sự. Vào lúc cuối, QLVNCH
chịu sự tổn thất khoảng 275 ngàn tử
trận, không kể con số bị ám sát, trong
một quốc gia mà dân số trung b́nh khoảng 17
triệu. Nước Mỹ với dân số 200
triệu, nếu chịu tổn thất với tỉ
lệ tương đương trong cùng khoảng
thời gian ấy, con số tử vong sẽ là 3
triệu 200 ngàn, cần dựng thêm 56 bức tường
đá đen nữa mới đủ ghi tên tử sĩ.
Điều này không lọt qua mắt của một
số nhà quan sát. Sir Robert Thompson, tuy biết rơ
những nhược điểm của QLVNCH, cũng
kết luận: Kư
giả Peter Kann, sáng suốt hơn rất nhiều so
với những đồng nghiệp, cũng nhập
cuộc, sau khi Sài G̣n thất thủ: “Nam
Việt Nam quả đă phấn đấu để
kháng chiến trong nhiều năm ṛng ră, không phải
lúc nào cũng được Hoa Kỳ giúp đỡ
dồi dào. Ít có quốc gia hay xă hội nào mà tôi cho
là có thể chiến đấu được lâu dài
đến thế.” Kế
hoạch Việt Nam hóa có hiệu quả không? QLVNCH có
trưởng thành nên một lực lượng
chiến đấu có khả năng? Có
thể biện luận rằng kế hoạch Việt
Nam Hóa có hiệu quả, nhưng lại bị moi
ruột v́ cắt giảm viện trợ chí tử. Năm
1974 có cuộc thăm ḍ các tướng lănh Hoa Kỳ
từng phục vụ tại Việt Nam, nhằm t́m
hiểu chương tŕnh Việt Nam hóa thành công
tới mức nào. Các câu hỏi và trả lời như
sau: 1.
QLVNCH là lực lượng chiến đấu rất
đáng chấp nhận?: 8% đồng ư. 3.
Có nghi ngờ khả năng QLVNCH có thể đẩy
lui một cuộc tấn công mạnh 4.
Ư kiến khác và không ư kiến: 10%. Như
vậy 65% các tướng lănh chỉ huy của Hoa
Kỳ dành cho QLVNCH tỉ lệ phiếu thuận, tuy
nhiên những câu trả lời này có thể đă
mang khuynh hướng lệch theo chiều xuống. Không
biết bao nhiêu vị tướng phục vụ trong
khoảng 1966-1967, trước khi QLVNCH thực hiện
những đổi thay to lớn nhất. Chức
vụ mà các sĩ quan này đảm trách là ǵ,
họ làm việc với ai, và họ quen thuộc
với quân đội VNCH ở mức độ nào,
sự tăng tiến hiệu năng của lực lượng
Địa phương quân, Nghĩa quân, vân vân… cũng
không được tiết lộ. Câu hỏi cũng
không hỏi: Điều
có thể nói chắc chắn, là QLVNCH từ 1968
trở đi đă hoàn thành nhiệm vụ tốt
đẹp hơn nhiều so với những ǵ
được biết đến một cách chung
chung, rằng các đơn vị QLNCH đă thi
triển tài năng để có thể đứng
vững và đánh bại quân xâm lược Bắc
Việt trong năm 1972, thường là không cần
tới sự yểm trợ hỏa lực ồ
ạt của pháo binh và không quân chiến thuật, như
trong trường hợp của Nghĩa quân và Địa
phương quân. Điều có thể nói chắc
chắn nữa là sự hiểu biết của người
Mỹ về việc này thấp kém đến kinh
tởm, thấp tít mù xa như vực thẳm không
đáy. “Những
người ở cỡ tuổi tôi vào quân đội
v́ chúng tôi có một lư tưởng, chúng tôi hiểu
được cuộc sống trong một thế
giới tự do ra sao, và sống trong thế giới
cộng sản ra sao. Không phải như người
ta nói, rằng những ai vào quân đội th́
chỉ v́ đến tuổi lính và không có lư tưởng
ǵ riêng cho ḿnh. Nhưng người Mỹ không bao
giờ có vẻ hiểu ra điều đó.” Trần
Quốc Bửu là chủ tịch Liên Đoàn Lao công Nam
Việt Nam, tương đương với AFL-CIO
của Hoa Kỳ. Ông có ảnh hưởng và có
thể xếp đặt cho con trai ông t́m một
chỗ an toàn, an toàn hơn nhiều so với vị trí
của anh này là một sĩ quan bộ binh VNCH. Trong
những tuần lễ sau cuối của VNCH, lúc
bị Bắc Việt dập pháo tơi bời,
tuyệt vọng trong cảnh thiếu đạn, con ông
Bửu viết cho ông một lá thư: Con
ông Bửu hy sinh tại chiến trường. Bác
sĩ Phan Quang Đán là quốc vụ khanh về định
cư và tị nạn, một cựu đối
lập với ông Ngô Đ́nh Diệm, nổi tiếng
nhờ trong sạch. Ông có đủ quyền lực và
ảnh hưởng để giữ con trai là Phan Quang
Tuấn khỏi bị nguy hiểm. Cả hai cha con
đều không chọn điều đó, và Tuấn
t́nh nguyện lái A-1E Skyraider, chỉ dùng để
yểm trợ chiến thuật gần cho các dơn
vị dưới đất. Sau khi tiêu diệt 7 xe tăng
quân Bắc Việt tại khu vực ngưng chiến,
trong trận tấn công 1972 của Hà Nội, Đại
Úy Tuấn bị hỏa lực pḥng không địch
bắn rơi, tử trận. Những cá nhân ấy không
phải là duy nhất. Người viết bài này
hằng ngày gặp những phi công trực thăng vơ
trang trẻ tuổi, những sĩ quan trẻ trong
Biệt động quân, Thủy quân lục chiến,
Nhảy dù, tất cả đều t́nh nguyện lănh
nhiệm vụ tác chiến nguy hiểm, bị “lưỡng
đầu thọ địch”, với hệ tư tưởng
về một nước Việt Nam cộng sản, và
với nạn tham nhũng trở thành thông lệ
hằng ngày ở Sài G̣n. Một trong những tấm
gương gây xúc động hơn nữa về ḷng
tận tụy với chính nghĩa quốc gia, là
cảnh các sinh viên sĩ quan trường Vơ Bị
quốc gia Đà Lạt chuẩn bị cho trận đánh
sau cùng của họ, mà kư giả Pháp Raoul Coutard
chứng kiến, vào lúc họ tiến ra để
chặn các đơn vị quân đội Bắc
Việt đang tiến tới:
Trường
Thiếu Sinh quân ở Vũng Tàu, là trường
nội trú, trong học tŕnh có dạy quân sự cho các
thiếu niên Việt Nam có cha tử trận. Khi đến
lúc cuối, những em trai 12-13 tuổi đuổi các
em thiếu sinh quân nhỏ hơn về nhà, lập chướng
ngại vật bảo vệ trường và đối
đầu với các đơn vị quân Bắc
Việt: “Họ
tiếp tục chiến đấu sau khi tất cả
mọi người khác đă đầu hàng!…
Nhiều người trong số họ bị giết.
Và khi quân cộng sản tiến vào, các thiếu sinh
quân đánh trả. Cộng sản không vào được
ngôi trường ngay lúc đó.” Giới
truyền thông Hoa Kỳ đă thất bại tại
Việt Nam, thua bại hoàn toàn và thê thảm hơn
nhiều so với các lực lượng quân sự
của VNCH, Hoa Kỳ và các đồng minh. Họ thường
lên án bằng những lối can thiệp đầy
tự phụ và tự măn. Một cuộc thăm ḍ
9,604 chương tŕnh truyền h́nh của NBC, CBS và
ABC từ 1963 đến 1977 cho thấy rơ những
sự thiếu sót của những cái gọi là bài tường
thuật truyền h́nh. 0.7% chương tŕnh nói về
việc huấn luyện QLVNCH. 0.8% về b́nh định.
2.7% về chính quyền hay quân lực VNCH hay Cambodia.
Tổng cộng chỉ có 392 chương tŕnh, tức
2.7% toàn bộ các chương tŕnh tin tức
truyền h́nh Mỹ, tường tŕnh về Việt
Nam. Không có một lời nào về hơn 200 ngàn
hồi chánh viên, không một lời về QLVNCH
thiện chiến. Không có ǵ về những phi công Ong
Chúa lừng danh của trực thăng Việt Nam
cứu mạng cho những toán lực lượng
đặc biệt Hoa Kỳ chạm địch
dọc đường ṃn Hồ Chí Minh. Hầu
hết người Mỹ, nếu không phải là
tất cả, đều nhớ h́nh ảnh bi hùng
của một người Trung Hoa đứng trước
đoàn xe tăng ở quảng trường Thiên An Môn,
nhưng không ai biết Trung Sĩ thủy quân lục
chiến Việt Nam Huỳnh Văn Lượm đứng
trên cầu Đông Hà chặn đứng đoàn xe tăng
Bắc Việt, tác xạ bằng khẩu súng
chống tăng LAW của anh: “Cảnh
tượng anh lính TQLC nặng có 95 cân Anh trụ ngay
trên đường tiến của 40 xe tăng không có
ư nào muốn dừng lại, trên một khía cạnh
th́ là dại dột một cách khó tin. Trên khía
cạnh khác, quan trọng hơn, h́nh ảnh này mang
đầy niềm phấn khích đối với
một lực lượng pḥng thủ mỏng manh
đến thê thảm, và với nhiều người
tị nạn, ít ai trong số đó từng chứng
kiến một hành động thách đố dũng
cảm đến thế… Sự anh dũng lạ thường
của người lính thủy quân lục chiến
Nam Việt Nam này đă khiến đợt tấn công
bằng xe tăng, tới lúc đó chừng như
chắc chắn phải thắng lợi, đă bị
mất đà tấn kích.” Trong
một khoảnh khắc mà giới truyền thông mang
tật cận thị lên tiếng, th́ phóng viên Donald
Kirk tuyệt đối không tỏ ra sự quan tâm nào
khi đến thăm sư đoàn 7 bộ binh VNCH, nơi
đă trở nên một đơn vị có hiệu năng
cao tuyệt dưới tài lănh đạo của Tướng
Nguyễn Khoa Nam. Quân nhân trong sư đoàn nhận
thức rơ giá trị những nông trại của sư
đoàn do tướng Nam thiết lập để
giảm bớt gánh nặng kinh tế cho binh sĩ
của sư đoàn 7. Nhưng khi Kirk và các phóng viên
khác bị giữ lại ở một điểm
chắn đường của quân đội Bắc
Việt rồi được thả ra sau đó, th́
Kirk lại thất vọng v́ anh ta không có cơ
hội để nói chuyện với bộ đội
Bắc Việt: Ông
Kirk có thể yên tâm rằng quân sĩ sư đoàn 7
đều là “những tay chính quy”, rất đáng
để nói chuyện, và học hỏi nơi
họ. Anh chàng này, cũng như đông đảo
trong giới truyền thông làm tin tức, đă không
để ư ǵ đến việc đó, cho nên không có
ǵ kỳ bí về nguyên nhân v́ sao hầu hết
những người Mỹ từng phục vụ
tại Đông Nam Á đều nh́n cái giới truyền
thông tin tức này với sự khinh miệt gay
gắt.
Phải
chi giới này chịu khó quan hệ với quân dân
Việt Nam mà họ gặp gỡ, như tôi đă làm
nhiều lần, th́ đám kư giả hẳn đă
biết trong mắt những người Việt
ấy chủ nghĩa cộng sản của Hà Nội
là điều đáng khinh bỉ và kinh tởm, như
một loại phản bội văn hóa và truyền
thống Việt Nam. Không phải những người
Việt này chiến đấu và hy sinh để
bảo vệ “chế độ tham nhũng của
Thiệu”, mà là để ǵn giữ một cuộc
sống tốt đẹp hơn cho người dân,
cho con cái, và cho đất nước của họ.
Một thủy quân lục chiến Việt Nam diễn
giải và lột tả chân xác nhất về điều
này, khi anh ta nói với tôi rằng sau khi quân đội
VNCH giải quyết xong với quân đội miền
Bắc, họ sẽ quay súng lại chống đám
tham nhũng ở Sài G̣n. Những sự kiện
thảm thiết bi thương sau năm 1975 đă
chứng thực tính thuận lư và giá trị của
điều quyết tâm ấy. Giới
truyền thông giải trí và giới giáo dục ở
Hoa Kỳ cũng chẳng khá ǵ hơn, mà c̣n măn
nguyện khi lặp lại, nếu không phải là thêm
mắm thêm muối vào cái chuyện thần thoại
do truyền thông dựng lên. Một cuốn sách
sử trung học được sử dụng
rộng răi ở Mỹ có chương sử về
Việt Nam không hề nói đến Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa, chỉ viết rằng:
“Việt Nam hóa thất bại,” ngoài ra c̣n gom góp hơn
200 điều khẳng định có thể được
chứng minh là sai trái và mang hoàn toàn tính chất
dẫn dắt lạc hướng, trong 13 trang bài
học. Có nói đến vụ tấn công sang Cambodia,
nhưng không nói ǵ về việc quân Việt Nam
Cộng Ḥa tham dự đông đảo hơn lực
lượng Hoa Kỳ, 29 ngàn quân so với 19,300 quân
Mỹ tham chiến. Sách cũng không nói lên rằng trước
khi chính thức mở chiến dịch, quân đội
Việt Nam Cộng Ḥa đă tấn công trước vào
các vị trí pḥng thủ của quân đội
Bắc Việt ở Cambodia. Quân Lực Việt Nam
Cộng Ḥa đă hoàn toàn vô h́nh, như một đề
tài sẽ được tŕnh bày nơi đây (trong
cuộc hội thảo).
Phim
ảnh và truyền h́nh lại càng tệ hơn,
mặc dù có được một số phim tài
liệu lịch sử. Cả cuốn phim “Bat 21”,
nhằm miêu tả cuộc t́m cứu trung tá Iceal
Hambleton năm 1972, không thể hiểu được
tại sao đă loại hẳn sự kiện là
một chiến sĩ Người Nhái Việt Nam,
Nguyễn Văn Kiệt, người cùng thi hành công tác
t́m cứu đó với người nhái Hoa Kỳ Tom
Norris, được tặng thưởng huy chương
US Navy Cross do sự dũng cảm và anh hùng của
Kiệt. Làm sao công chúng có thể trông mong được
biết bất kỳ điều ǵ khi mà chế độ
“kiểm duyệt” trên thực tế đă bôi xóa
tất cả và từng dấu vết của sự
hoạt động gương mẫu của Quân
Lực Việt Nam Cộng Ḥa? *** Sau
cùng, cần phải nh́n nhận rằng Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa đă bị đè bẹp
bởi một gánh nặng trầm kha không thể nào
vượt thắng: đó là một đồng minh
bất xứng, ngu dốt và gây rối một cách
đáng kinh ngạc, dưới h́nh thức cái chính
phủ Hoa Kỳ. Một
hội nghị chuyên đề toàn diện nên
được tổ chức về đề tài này,
và cần phải có hội nghị đó. Những
chiến lược giả hiệu phát xuất từ
Washington, về bản chất, phải bị coi là
cẩu thả mang tính cách tội ác. Không một hành
động nào được tung ra để chặn
và giữ đường ṃn Hồ Chí Minh. Không có
con đường này th́ cuộc chiến tranh của
Hà Nội đă không thể nào tiến hành được.
Không một việc ǵ được thi hành để
giao chiến với chiến tranh thông tin tuyên
truyền-phản tuyên truyền dưới h́nh
thức gọi là địch vận, một trong
những chiến lược quan trọng của Hà
Nội, được thi hành với những sự
lừa gạt quỷ quyệt xuất chúng. Không làm
một việc ǵ măi đến khi cơ quan CORDS
được thành lập để ra kế
hoạch và phối hợp những hoạt động
quân sự và b́nh định về mặt t́nh báo. Không
làm một việc ǵ để khai triển một liên
minh rộng lớn như một chiến trường
chung của người Việt, người Lào, người
Cambodia và Thái Lan, chống lại kẻ thù chung, trong
khi Hà Nội đă làm y như vậy: thiết
lập một cấu trúc chỉ huy chiến trường
Đông Dương nhằm kết hợp mọi yếu
tố vào một chiến lược gắn bó cho toàn
khu vực. Lư cớ về lănh đạo của Hoa
Kỳ là mù ḷa, lần ṃ vụng dại như con heo
trên tảng băng, như một con cóc vàng, rất
giàu có nhưng cũng rất ngu độn. (Những
chữ in đậm là những chữ tác giả
viết bằng tiếng Việt)
Những kế hoạch, những đề nghị đi ngược ḍng lịch sử khó có thể được chứng minh hoàn toàn chắc chắn, và có thể chiến tranh (Việt Nam đă qua) là một cuôc chiến không thể nào thắng được.
Nhiều
trang lịch sử c̣n chưa được lật
ra, phản ảnh sự tiếp nối cái khuynh hướng
của Hoa Kỳ chỉ toàn nh́n qua con mắt người
Mỹ, bị lọc qua định kiến của người
Mỹ. Một số sách vở nói đến Việt
Nam như một “giai đoạn thử thách đầy
khổ đau của Hoa Kỳ,” mà chưa từng
một lần hỏi xem người Đông Nam Á đă
trải qua loại thử thách khổ đau nào. Đầy
dẫy những dữ kiện lịch sử quư giá và
những nét quan sát sắc sảo nằm trong những
cuốn sách được viết do người
Việt Nam (và cả người Lào). Thiếu
những sách đó, không thể nào có được
sự hiểu biết toàn diện. Những tác
phẩm của Lư Ṭng Bá, Hà Mai Việt, Phạm
Huấn, Phan Nhật Nam, Trần Văn Nhựt, và
nhiều người khác, đang kêu gào đ̣i
được dịch thuật, cũng như hằng
chục bài phổ biến hằng năm trên sách báo
tạp chí quân sự và các ấn bản khác.
Nhiều bài trong đó mô tả những trận đánh,
những diễn tiến và những nhân cách, không
hề được các sử gia Hoa Kỳ biết
đến. Không tham khảo những nguồn đó th́
chắc chắn là chiến tranh Việt Nam, cũng là
Chiến Tranh Đông Dương của Hà Nội, sẽ
măi là những bí ẩn không thể giải đoán,
và lịch sử chân thực của Quân Lực
Việt Nam Cộng Ḥa sẽ măi bị chôn vùi dưới
tầng lớp này qua tầng lớp nọ của
những chuyện hoang đường, của sự
không thông hiểu, và của sự giả định
vô căn cứ. Mời
click vào link đọc bản tiếng Anh và những h́nh
ảnh liên quan: Sinh
Hoạt QLVNCH: Quân lực Việt Nam Cộng Hoà
1968-1975 Bill
Laurie |