Tôi
HQ. Phạm quốc Nam, cựu sinh viên sĩ quan hải
quân Khóa 21 SQHQ năm 1969, tốt nghiệp Khóa 2 Đặc
Biệt SQHQ Nha Trang. Với trách nhiệm chỉ huy
Tuần Duyên Hạm HQ.611 Trường Sa trong những
ngày cuối cùng của cuộc chiến, tôi xác
nhận Tuần Duyên Hạm HQ.611 đă ch́m trên
đường di tản ra Côn Sơn đêm 29 tháng 4
năm 1975. Sự kiện này trước nay không
thấy nhân chứng nào ghi lại, cũng như không
được thấy ghi trong bất cứ tài
liệu nào của VNCH và của Hoa Kỳ, mặc dù
họ đang cố gắng t́m kiếm tài liệu
của các chiến hạm di tản.
Sau
hơn 7 năm tù cộng sản, tôi trở về
cuối năm 1982 và được đứa em trai,
cậu em ruột mà tôi thường hay dẫn
xuống tàu chơi khi chiến hạm của tôi
được nghỉ bến tại Bạch Đằng,
nên cậu bé c̣n nhớ rất rỏ số tàu HQ 611,
đă đưa tôi đến tận xác tàu
được trục vớt và vứt nằm trên
bải bùn mé sông Saigon phía bên kia Thủ Thiêm từ lâu.
Chiến hạm chỉ c̣n là một khối sắt,
nữa thân tàu bị rĩ bởi thủy triều
của sông Saigon khi nước lên hay nước ṛng
…..Nh́n xác tàu ḷng tôi se lại tủi thân và đớn
đau, đôi mắt cay xè rướm lệ…
..
Hồi kư này như muốn ghi lại một
sự kiện nhỏ của hải sử VNCH, trong
đêm Hạm Đội Hài Quân VNCH di tản, đồng
thời tôi có lời kính phục anh em thuỷ thủ
đoàn của HQ 611, những thủy thủ trẻ
đă hoàn thành xuất sắc trách nhiệm của người
lính Việt Nam Cộng Hoà đến tận giờ phút
cuối cùng của cuộc chiến……ngày 30 tháng 4 năm
1975. .
Tuy
là một sự kiện nhỏ nhưng TINH THẦN
QUỐC GIA và TRÁCH NHIỆM của Người Lính
VNCH như những thủy thủ nầy thật
xứng đáng được tập thể hải
quân VINH DANH và ghi vào hải sử.
Biến
cố đêm 28 tháng 4 năm 1975 tại Bộ Tư
Lệnh Hải Quân Saigon:
Sau chuyến công tác từ Vũng Tàu về đến
bến vào giửa trưa ngày 26 tháng 4 năm 1975,
chiến hạm của tôi nhận được
lệnh chuẩn bị nhiên liệu, nước
ngọt và thực phẩm đầy đủ cho
một tháng (tất cả chiến hạm của
Hạm đội). Đồng thời toàn thể
thủy thủ đoàn được cấp phát
mẫu giấy ghi danh thân nhân của ḿnh theo tàu di
tản (ra đi có trật tự). Công tác thiết
lập danh sách cho thân nhân của thủy thủ đoàn
cơ hữu được lên chiến
hạm di tản tiến hành kín mật tuyệt đối.
Tôi c̣n nhớ rất rỏ tựa đề mẫu
giấy ghi danh cho thân nhân lên tàu có ḍng chử to:
“Di tản ra Côn Sơn Tránh Saigon Bị Pháo Kích”…...
Công tác chuẩn bị di tản tiến hành
tốt đẹp…..Đột nhiên giửa đêm 28
tháng 4 Bộ Tư Lịnh Hải Quân có lệnh
khẩn cấp tập họp tất cả hạm trưởng
các chiến hạm đang nằm dọc trên sông
Saigon trước Bộ Tư Lịnh Hải Quân.
Chiếc hạm của tôi đang nằm vị trí 1
của cầu A, nên chỉ đôi mươi bước
băng qua đường, tôi đă có mặt trong
một căn pḥng nhỏ trên tầng lầu thứ
hai của BTL/HQ sớm hơn ai hết. Không lâu
lắm hằng chục vị hạm trưởng
của các chiến hạm khác có mặt. Pḥng họp
không ghế ngồi, mọi người đều
đứng chờ đợi, im lặng như tờ.
Tất cả mọi người đang hồi
họp, nóng ḷng muốn biết chuyện ǵ sẽ
xảy ra. Mọi người cùng cảm nhận
sắp có một biến cố trọng đại.
Không bao lâu, cờ xí được các nhân viên
trực dựng lên phía trước. Tiếng kèn
hiệu đón Tư Lịnh
được
trổi dậy cắt đứt cái không khí ngột
ngạt đang trùm kín cả căn pḥng. Nghi thức
bàn giao quyền Tư Lệnh Hạm Đội được
tiến hành, mọi người ngơ ngác: Hải Quân
Đại Tá Phạm Mạnh Khuê đảm nhận
chức tân Tư Lệnh Hạm Đội thay thế
đương kim Tư Lệnh Hạm Đội
Nguyễn Xuân Sơn. Không ai hỏi ai một lời. Có
lẽ mọi người trong pḥng đều nghĩ
sự kiện tối nay thế này tất là hậu
qủa kế hoạch di tản của Tư lịnh
Hạm Đội Nguyễn Xuân Sơn đă sớm
bị tiết lộ ra ngoài…….Trước khi
rời chức vụ Tư Lịnh Hạm Đội,
HQ. Đai Tá Nguyễn xuân Sơn bùi ngùi chia tay với
tất cả hạm trưởng hiện diện trong
pḥng. Lời chia tay của ông đẩy xúc động
như bậc khóc:” những việc tôi muốn làm
cho qúy vị và gia đ́nh qúy vị….mà sau này qúy
vị sẽ rỏ!” …..Ông đă tiên liệu hay ông
đă biết trước miền Nam sẽ rơi vào
tay cộng sản! Ông muốn bảo tồn hạm
đội không bị rơi vào tay giặc, ông thương
nhân viên thuộc cấp và yêu cả gia đ́nh
của họ, cho nên ông ngầm lên kế hoạch di
tản toàn bộ hạm đội và cả thân nhân
của thủy thủ đoàn trên từng các
chiến hạm, Kế hoạch bị bại lộ,
ông bị truất quyền. HQ Đại Tá Nguyễn
Xuân Sơn là một vị Tư lịnh thật đáng
kính.
Định
mệnh của Tuần Duyên Hạm Trường Sa HQ
611:
‘ Sáng 30 tháng 4 năm 1975, Tuần duyên hạm HQ 611
đă biến mất tại cầu A……..Tôi từ
chối di tản theo Tuần duyên hạm PGM của
hạm phó OC. Nguyễn Văn Báo (Khóa 9/HQ/OCS),
thằng bạn cùng khóa 21 SQHQ đang cho tàu lấy nước
ngọt tại cầu A. Tổng Thống Dương Văn
Minh tuyên bố đầu hàng….. Về đến nhà
tôi thấy hằng chục thủy thủ đoàn
của HQ. 611 đang chờ đợi tôi….anh em
thủy thủ báo cáo t́nh trạng của HQ.
611….rồi tan hàng’
.
Trưa 27/4/1975, HQ.611 chở một số lượng
lớn đồ đạt (của ai???) từ trên
một chiếc GMC của hải quân đưa
xuống để chuyển sang HQ. 802 (hoặc HQ.800 mà thời
gian lâu qúa tôi đă quên) đang nằm phía Nam ngoài
khơi Vũng Tàu. Ngoài khơi xa hơn, tôi thấy có
rất nhiều chiến hạm lớn nhỏ khác.
Biển động mạnh. HQ. 611 chồng chềnh như
trứng vịt khó ḷng cập vào HQ. 802 để
chuyển hàng. HQ. 802 phải dùng cần cẩu móc hàng
mang về. Xong công tác, HQ. 611 lầm lủi quay trở
vào cửa. Chiến hạm qua khỏi kho 5 Khánh
Hội, tàu của chúng tôi chậm lại đôi chút
và dạt về bên phải để nhường
lối cho vài chiếc thương thuyển lớn
từ Sàigon đang trên đường ra cửa
biển. Các tàu hàng chở đầy ấp người,
khi đi ngang qua HQ. 611, hàng trăm người trên thương
thuyền vẩy tay và nón với chúng tôi như
chuyển lời từ biệt. Nhiều thủy
thủ trên HQ 611 quơ tay đáp lại. Trước
cảnh tượng người dân Saigon đang tháo
chạy cộng sản như vậy nhưng đầu
óc tôi vẫn trống rổng….
.
Trưa
ngày 28/4/1975 , HQ 611 nằm tại cầu A một
lần nữa chúng tôi một số đứng trên
đài chỉ huy, một số thủy thủ đứng
trước mũi tàu dững dưng nh́n chiếc xà
lan cạnh bến đ̣ Thủ Thiêm, đối
diện công trường Mê Linh đang khó khăn
mở giây rời bến với hàng ngàn người
đang chen chút trên sàn tàu, có người đu giây
neo, nhiều người lội từ bờ ra, hàng
chục người khác bám thành xà lan cố trèo lên.
Trên công viên Bạch Đằng nhiều người
đàn bà buông vội gánh hàng rong trên sân cỏ
rồi hối hả chen lấn vào đám đông t́m
cách trèo lên xà lan. Khối người trên sàn xà lan,
dưới bờ sông và trên bờ chen lấn la hét
hỗn độn. Khó khăn lắm, chiếc xà lan
mới cởi được giây cột trên bờ và
́ ạch tách bến. Bên cạnh bờ, đám đông
vẫn c̣n nhảy cḥm lên, la ó kêu réo. Nh́n cảnh tượng
của chiếc xà lan cố tách bến. Chúng tôi
chỉ biết nh́n và im lặng, không một nhân viên
nào thắc mắc hay hỏi nhau tại sao … Có
lẽ chúng tôi là những người lính trẻ, mù
mờ hay đúng hơn không có khả năng tiên
đoán thời sự chính trị. Đầu óc
của một người lính chiến như chúng tôi
đơn giản lắm, chỉ biết ǵn giử
kỷ luật quân đội, tuân hành mệnh
lệnh thượng cấp và giử vững vị
trí, trách nhiệm được bố trí trên
chiến hạm.
Con
tàu và thủy thủ như những thành viên trong
một đại gia đ́nh cùng chung dưới
một mái nhà. Tàu c̣n thủy thủ c̣n……Chúng tôi
biết được những diễn biến
thời sự từ miền Trung vào miền Nam, chúng
tôi được chứng kiến hằng loạt
những biến cố tại Saigon, tại BTL Hải
Quân và ngay hôm nay cảnh tượng người dân
đang ùn ùn đổ về bến Bạch Đằng
t́m phương tiện di tản ngay trước
mắt. Nhưng tuyệt nhiên những ngựi lính
thủy chúng tôi không một ai rời tàu, bỏ
ngủ hay âu lo sợ hăi. Trên đài chỉ huy, tôi nh́n
những chàng trai trẻ thủy thủ; tôi an tâm v́
thấy họ vẫn kiêu hùng, hiên ngang và b́nh
thản…..Chiều xuống nhanh, phi trường Tân Sơn
Nhất bị dội bom bốc cháy cả góc
trời….Không khí chiến tranh như bao trùm lấy
Saigon……Tuần duyên hạm HQ.611 của chúng tôi cũng
như những chiến hạm khác trên ḍng sông Saigon
trong nhiệm sở sẳn sàng chiến đấu.
Đêm đó, tôi ở lại tàu không về nhà như
những đêm trước.
Sáng
29/4/75, lệnh báo động nâng lên mức độ
đỏ. Cấm quân 100%. Sau buổi họp nhanh
tại
BTL/HQ, các chiến hạm nhận được
lệnh sẽ khởi hành di tản trong đêm
29/4/1975. Hai đầu cổng Bộ Tư Lịnh hàng
rào cản được kéo ngang từ sáng sớm.
Quân cảnh và nhiều thủy thủ bồng súng
canh gác nghiêm nhặt. Trong bất xuất và ngoại
bất nhập lúc bấy giờ.
Trên đường từ BTL/HQ trở về tàu, t́nh
cờ tôi gặp HQ. Trung Úy Vơ Trường Xuân đang
lái Honda chạy trờ đến chận tôi lại bên
lề đường. Tôi và trung úy Xuân là bạn cùng
khóa. Khi c̣n là tân khóa sinh hải quân tại trung tâm
tạm trú Bạch Đằng II, cũng như khi
học căn bản quân sự tại quân trường
Quang Trung chúng tôi không quen nhau lắm v́ chúng tôi ở
khác đại đội. Tôi biết đến danh
ca Vơ Trường Xuân qua ban tam ca Trường Xuân, Vĩnh
Nam và Phan Ngọc Hùng đại diện khóa 21 SQHQ
về tŕnh diễn văn nghệ tại đài
tiếng nói quân đội trong dịp Tết năm
1970. Sau này Xuân tốt nghiệp khóa 1 Đặc
Biệt SQHQ Nha Trang và khóa 1 Thuyền Trưởng Coast
Guard và PCF. Tôi ra trường khóa 2 Đặc Biệt
Hải Quân Nha Trang và sau khi tốt nghiệp Khóa 4
Thuyền Trưởng năm 1973, tôi được
đưa xuống làm Thuyền Phó PCF-HQ.3909 thuộc
Hải Đội 5 Duyên Pḥng, khi đó Xuân đang là
thuyển trưởng. Tôi và Vơ Trường Xuân thân
nhau từ đó. Mặc dù tôi đi biển nhiều
năm hơn Xuân nhưng tôi đă học được
ở Xuân nhiều cái hay khi về phục vụ
Hải Đội 5 Duyên Pḥng. Hải đội 5 Duyên
Pḥng là đơn vị gặp hiểm nguy hơn
bốn hải đội duyên pḥng khác v́ Hải
Đội 5 thường xuyên bị Việt cộng
phục kích trên đường sông từ căn
cứ Năm Căn ra đến cửa biển hay ngược
lại lúc từ biển về nghỉ bến. Tuy nhiên
tôi thấy rất an tâm khi công tác cùng tàu với Xuân.
Xuân được xem là một thuyền trưởng
giỏi của Hải Đội 5 Duyên Pḥng. Xuân
chứng tỏ được khả năng lảnh
đạo chỉ huy của một thuyền trưởng:
giỏi về chỉ huy và luôn cả kiến thức
tàu bè. Xuân giỏi vận chuyển con tàu khi di
chuyển trong sông cũng như trên biển. Ngoài
kiến thức tổng quát về kỷ thuật cơ
điện khí (lư thuyết khi học ờ quân trường),
Xuân rành luôn cả thực hành. ( Cấp bậc
thuyền trưởng Coast Guard hay PCF là hải quân
trung úy theo như cấp số của Hải quân Hoa
Kỳ. Vận chuyển con tàu do đích thân thuyền
trưởng cầm tay lái. Chiến đĩnh PCF c̣n
đuợc gọi là Duyên tốc đĩnh hay Kinh
tốc đĩnh, tuy là loại tàu nhỏ nhưng có
tốc độ rất cao, là loại chiến
đĩnh mới của Hoa Kỳ đưa vào
chiến tranh Việt Nam và trang bị cho Hải quan Cam
Bốt và Thái Lan. PCF có khả năng hoạt động
trong sông lẫn trên biển. Sở dĩ tôi ghi chú
phần cấp bậc của thuyền trưởng
chiến đĩnh PCF nơi đây v́ rằng có
lắm sĩ quan hải quân đă không am tường
về tổ chức của đơn vị hải
đôi duyên pḥng. Họ cho là Thuyền trưởng
chiến đĩnh chỉ với cấp hạ sĩ
quan, nếu có th́ cao lắm là Thượng sĩ
hải quân.).
Vơ
Trường Xuân và tôi có máu ‘lăng tử’ nên
rất hơp tánh nhau, và kết thành bạn tri kỹ
rất nhanh từ đó cho đến tận ngày nay. Chúng
tôi có lắm kỷ niệm tại Hải Đội
5 Duyên Pḥng, từ hậu cứ nghỉ bến cho
đến những tháng ngày lênh đênh tuần duyên
trên biển cả: từ biển phía bắc Ḥn đá
Bạc, ghé vào sông Ông Đốc qua cửa Hải
Yến xuống mũi Cà Mau, cập tàu ghé quán cô
Lệ Bải Hạp , ra cửa sông Bồ Đề lên
tận cửa biển Gành Hào ghé vào chơ mua
thực phẩm tươi …….
Sau
vài tháng đi chung tàu, Xuân thuyên chuyển về
Hải Vận Hạm LSM – HQ 402 Lam Giang. Tôi lên làm
thuyền trường và một hải quân trung úy khác
thuộc hải quân OCS (Sĩ quan hải quân Việt
Nam được đào tạo tại Hoa Kỳ)
xuống tàu làm thuyền phó. Đầu năm 1974, Tôi
mang tàu về tăng phái cho Hải đội 4 Duyên
pḥng. Sau vài chuyến tuần duyên trục Bắc
đảo Phú Quốc, chiến đĩnh của tôi
cùng 3 chiếc PCF khác tăng phái tuần duyên vùng
biển Ḥn Tre (Rạch Gía) và Hà Tiên. Đầu tháng
3/1975, tôi nhận được lệnh tuyên
chuyển về Hạm Đội và xuống Tuần
Duyên Hạm HQ 611 Trường Sa…….
.
Gần hai năm trời gặp lại thằng
bạn thân. Chúng tôi mừng lắm:
- Ê thuyền trưởng Xuân. Đi đâu đây
mậy?
Xuân nhếch môi cười méo một bên, cái lối
cười muôn thuở:
- Tao đi t́m hạm trưởng Nam đây.
Tôi hỏi Xuân ngay:
- Khuya nay mày theo hạm đội di tản không?
Xuân cương quyết:
- Đi chứ mậy. Nhưng thằng 402 của tao
bất khiển dụng.
Tôi mừng:
- Không sao, lên tàu của tao. Mày và tao lái đi
khoẻ re…
Xuân ngạc nhiên:
- Hạm Trưởng mày đâu?
Tôi cười, trỏ ngón tay vào ngực:
- Hạm trưởng đang đứng trước
mặt mày đây….. Tao đang chỉ huy HQ.611.
Thuận tay tôi chỉ về hướng cầu A:
- Chiếc PGM nằm phía ngoài chiếc hạm của
tao là PGM- HQ.601 của Hạm trưởng Trần Minh
Chánh, cùng khóa 1 Đặc Biệt với mày.
Tôi đùa:
- Nếu mày chê tàu tao què th́ mày đi tàu của
Trần Minh Chánh. Chẳng lẽ bạn bè cùng một
khóa, mà Chánh là đương kim Hạm trưởng
không cho mày lên tàu hay sao. Hay mày muốn mang theo 402 th́
Chánh và tao sẽ kéo 402 mày theo.
Xuân cương quyết:
- Tao sẽ đi với mày. Nhưng tao phải về
mang người nhà xuống tàu.
Tôi nh́n đồng hồ:
- Giờ c̣n sớm chán. Thôi, tao với mày đi t́m cái
ǵ ăn trưa và lai rai vài chai rồi tính tiếp.
Cổng ra công trường Mê Linh đang đóng kín,
khó ra được khỏi cổng. Tôi lên xe. Xuân
quay xe chạy về hướng cổng Cường
Để. Nơi đây cổng cũng bị kéo rào
đóng. Chúng tôi đành tạt vào Hải Quân Công Xưởng,
t́m lấy một chổ ngồi vắng vẻ trong câu
lạc bộ. Chúng tôi kêu vài đĩa mồi và vài
cập bia 33. (H́nh như lúc đó có thêm một
bạn hải quân nữa vào ngồi chung bàn nhưng
tôi đă quên tên)
Tôi hỏi Xuân:
- Mày có danh sách thân nhân lên tàu không?
Xuân lắc đầu:
- Không có.
Tôi khoát tay:
- Không sao. Có tao trên tàu.
Cặp bia thứ hai vừa cạn. Xuân qủa
quyết:
- Saigon sẽ mất. Mày hăy về mang gia đ́nh vào
đi luôn đi.
Để thúc giục tôi hơn, Xuân kể lại
những cảnh bi thảm khi Hải vận hạm HQ.
402 của Xuân đă mấy lần ủi băi và ḷng ṿng
ngoài khơi để đón dân quân di tản
miền Trung.
Với
giọng ngậm ngùi, Xuân kể lại Tướng Ngô
Quang Trưởng và hàng chục tướng tá khác bơi
từ
bờ ra Hải vận hạm LSM 402 và chính Vơ
Trường Xuân đă đón và mời nhóm tướng
tá bộ binh xuống pḥng ăn. Ḿ gói là bửa
ăn sáng đạm bạc trên tàu được
nấu lên mời khách. Tướng Trưởng không
ăn sáng, ông ngồi ghế của Hạm trưởng
với hai hàng nước mắt chảy dài.
Xuân
không quên kể lại cảm xúc của ḿnh khi
thấy từng mănh đất của miền Trung
mất dần trong tay giặc Cộng theo tốc độ
của HQ.402 đang xuôi về Nam. Chính v́ Xuân đă
thấy cái bi thảm tột cùng của cuộc lui
binh và di tản miền Trung nên Vơ Trường Xuân
đă có sự lựa chọn nên hay không nên di
tản một cách dứt khoát hơn tôi:
– Tao cá mày đó Nam. Saigon sẽ mất nay mai thôi.
Phải đi mày Nam ơi.
Tôi ừ hử và nhúng vai:
- Dĩ nhiên tao phải có mặt và đi theo tàu
chứ. Trách nhiệm của tao làm sao tao bỏ tàu và
bỏ anh em thủy thủ đoàn được
mậy.
Xuân muốn chắc ăn:
- Tốt! nhưng tàu mầy đi xa được không?
Tôi bảo đảm:
- Tàu của tao như 402 của mày, mới đi công
tác về, đang chờ sửa chửa. Nhưng ḅ ra
Vũng Tàu hay đến Côn Sơn th́ thừa sức.
Xuân an tâm:
- Tụi ḿnh chỉ cần đưa tàu ra giửa ḍng
sông là OK.
Tôi lại nhúng vai:
- Dễ thôi. Bây giờ tụi ḿnh bàn đến
kế hoạch an toàn.
Chúng
tôi đi vào chi tiết của kế hoạch: Xuân
đang là sĩ quan trực của LSM – HQ 402 ngay hôm
29/4/1975, Xuân sẽ đưa tất cả thủy
thủ đoàn của HQ. 402 sang PGM- HQ.611 của tôi.
Để tránh dân chúng phát hiện ùa lên tàu và đồng
thời tập trung người nhà một nơi kín
đáo đưa lên chiến hạm an toàn. Chúng tôi
sẽ đưa tàu vào sau hậu trạm Vùng 5 Duyên
Hải nằm đối diện công trường Mê
Linh để đón người nhà. Nếu kế
hoạch một không thành, chúng tôi sẽ cho tàu ở
giửa ḍng sông và nhờ các kinh tốc đĩnh
PCF của Hải Đội III Duyên Pḥng gần đó
đón người nhà của chúng tôi đưa lên
HQ.611 (nhờ các PCF của Hải Đội 3 Duyên Pḥng
không khó v́ giửa năm 1972 đến 1975, hầu
hết
các thuyền trưởng, thuyền phó của
Hải Đội Duyên Pḥng bấy giơ đều
do các sĩ quan Đặc Biệt Hải Quân Nha Trang và
hải quân OCS đảm nhận. Phần lớn cùng
là đồng khóa hay đồng môn nên đều
quen mặt biết tên. Nhờ họ chuyển người
nhà từ bờ ra hạm sẽ không thành vấn
đề.
.Đêm
29/4 rạng sáng 30/4 có vài sĩ quan cấp tá hải
quân kẹt lại tại các đơn vị hay căn
cứ dọc trên sông Saigon đă nhờ những PCF
đưa lên chiến hạm lớn. Trong số
cấp tá đó có HQ Đại tá Nguyễn Văn
Hớn. Tại Portland, mỗi lần gặp tôi Đại
tá Hớn cứ nhắc nhở nhờ tôi t́m cho ông
thuyền trưởng PCF đă đưa ông ra
chiến hạm để ông có lời cám ơn
thuyền trưởng nọ, v́ nhờ thuyền trưởng
này mà ông đă theo được chiến hạm di
tản ra nước ngoài năm 1975). Đêm cuối
đó, PCF của Phan Ngọc Hùng sau khi tải thương
HQ. Nguyễn Ngọc On từ Vũng Tàu về Saigon cũng
đă đón vớt không it hải quân trên sông
hoặc ven bờ đưa ra hạm lớn trên
đường trở ra Vũng Tàu.
Xuân
và tôi đồng ư kế hoạch an toàn nhất
để đón người nhà lên HQ 611 xong. Chúng tôi
vạch đến kế hoạch pḥng thủ an ninh trên
HQ. 611 khi đón thân nhân lên tàu và trên đường
vận chuyển chiến hạm ra biển trong trường
họp nếu chẳng may gặp phải t́nh huống
xấu xảy ra khi di chuyển.
Khoảng
2 giờ trưa, Xuân đưa tôi trở về
chiến hạm. Xuân cũng về tàu của ḿnh sau
khi cả hai hẹn đúng 6 giờ chiều sẽ
gặp nhau ngoài cổng Bộ Tư Lệnh. Ngoài kia rào
cản đầu đường vào Bộ Tư
Lệnh, dân chúng đă đông nghẹt, có cả quân
nhân của nhiều binh chủng khác. Mọi người
ồn ào la hét đ̣i cho vào bến tàu. Bấy
giờ, xe quân sự muốn chạy vào hay từ trong
chạy ra ngoài đều bị ngăn chận. Trên
bầu trời, từng chiếc trực thăng
nối nhau chở lố nhố người từ hướng
Ṭa Đại Sứ Hoa Kỳ bay ra Đệ Thất
Hạm Đội. Thỉnh thoảng có vài trực thăng
chở đầy ấp người, chân người
tḥng ra khỏi cửa, trực thăng bay thật
thấp và đảo ṿng ṿng như muốn t́m
chổ đáp xuống đâu đó tại bến tàu
nhưng viên phi công t́m không được chổ
đáp, cho trực thăng bay đi. Bầu trời xám
ngắt không chút nắng. Tiếng động cơ
của trực thăng ít phút lại bay ngang. Ngoài rào
cổng và các nẻo đường nhiều đám
người kéo nhau chạy về hướng bến
tàu càng ngày càng đông hơn. Thỉnh thoảng hướng
nhà hàng Mỹ Cảnh nổ lên từng tràng đạn
M-16 làm cho không khí Saigon đang ảm đạm như
rối loạn lên thêm. Cảnh tượng báo
hiệu sắp có một biến cố lớn sẽ
xảy đến.
Tôi
nh́n đồng hồ đúng 3 giờ chiều. Tôi
tập họp nhân viên hỏi có ai cần về nhà
mang gia đ́nh vào tôi sẽ kư sự vụ lệnh
cho họ. Nhưng không nghe thấy nhân viên nào lên
tiếng. Gọi nhân viên tiếp liệu mở kho vũ
khí, tôi lựa lấy một khẩu colt 45 c̣n mới
và một gấp đạn đầy dắt vào lưng.
Sau đó tôi lên đài chỉ huy kư vội hai sự
vụ lệnh một cho tôi và một cho Hạ sĩ
vân chuyển Tô Nhật Hà. Tôi nhờ Hạ sĩ Hà
lái xe gắn máy đưa tôi về nhà tận Bà
Chiểu, Gia Định. Có sự vụ lệnh, chúng
tôi ra cổng không gặp trở ngại nào.
Hạ
sĩ Tô Nhật Hà dừng xe trước cửa nhà tôi.
Hà trở về tàu. Tôi vào nhà đă hơn 4 giờ
chiều, hối hả
kêu mọi người trong nhà thu xếp đồ
đạt theo tôi xuống tàu. Vợ tôi vội vàng
thu xếp hành trang cho hai đứa con nhỏ.. Lúc
ấy có hai bà lối xóm ở kế bên nhà thấy
gia đ́nh tôi đang nhốn nháo chuẩn bị đồ
đạt ra đi, họ vào thẳng trong nhà to
nhỏ bàn vô nói ra với ba mẹ vợ của tôi.
Cuối cùng ba vợ chịu đi, mẹ vợ
lại không chịu đi. Kẻ đi người
ở trở thành đề tài rối rấm. Tôi nóng
ḷng muốn mọi việc thu xếp nhanh chóng để
trở về tàu v́ trách nhiệm đang chỉ huy
một chiến hạm sẽ ra đi trong vài giờ
đồng hồ tới. Vă lại tôi rời
chiến hạm bằng sự vụ lệnh do chính tôi
tự kư lấy để được ra khỏi
cổng BTL Hải Quân là việc làm sai phạm kỷ
luật quân đội (hậu qủa việc làm này
như là định mệnh đă an bày dành cho tôi
phải bị kẹt lại Việt Nam và đi vào tù
cộng sản hơn 7 năm). Thu xếp bên gia đ́nh
vợ xong, tôi c̣n phải chạy sang gia đ́nh
của tôi ở tận bên Khánh Hội, quận Tư
để kéo tất cả gia đ́nh anh chị em
xuống tàu. Chiếc đồng hồ đeo tay
của tôi giờ đây như mắc dịch, nó
chạy nhanh như gió, kim chỉ 5:10, tôi cuống quít
cả lên dắt xe ra cửa chạy sang Khánh Hội.
Dựng
xe gắn máy trước cửa nhà của anh em tôi bên
Khánh Hội, nh́n xuyên qua cửa sổ, tôi thấy
trong nhà lố nhố cả chục người
mặc quân phục đứng ngồi tại pḥng khách.
Bước vào bên trong nhà không kịp chào hỏi ai,
tôi gặp ngay ông anh cả của tôi:
- Tàu em đang nằm dưới bến Bạch Đằng,
em muốn mọi người trong nhà xuống tàu ngay
bây giờ để di tản ra Côn Sơn.
Anh cả tôi quay lại nói lớn với nhóm sĩ
quan bộ binh trong nhà:
- Thưa Trung Tá và các anh em, có sẳn tàu của
thằng em tôi tại bến Bạch Đằng, có ai
chịu di tản th́ xuống tàu ngay bây giờ.
Các sĩ quan bộ binh x́ xầm bàn tán. Sau đó
họ quyết định từ chối không
xuống tàu của tôi. Th́ ra nhóm sĩ quan bộ binh
này là những sĩ quan làm việc tại Bô Tổng
Tham Mưu, tất cả là sĩ quan Vơ Bị
Đà Lạt, ông Trung tá cấp bậc lớn
nhất trong nhóm là tùy viên hay chánh văn pḥng của
Trung Tướng Nguyễn Bảo Trị (TTM/ Tổng
Cục Quân Huấn), anh cả tôi khóa 24 Vơ Bị,
đại úy pḥng Du Học. Chỉ có thằng em chú
bác của tôi khóa 29 Vơ Bị là cấp thấp
nhất, ra trường sớm chưa kịp
được mặc bộ quân phục Nhảy Dù
mới toanh mà tôi đă chở nó đi bỏ
sửa, mới lấy về hôm qua. C̣n mấy sĩ
quan khác tôi mới gặp lần đầu.
Nhóm
sĩ quan Bộ Tổng Tham Mưu lo ngại xuống tàu
của tôi tại BTL/HQ chờ đến giờ di
tản, họ đặt
vấn đề nếu bến tàu bị phi cơ
địch dội bom th́ chạy đâu? Họ bị
ám ảnh cuộc dội bom chiều hôm qua (28/4/1975)
xuống phi trường Tân Sơn Nhất của phi
đội Quyết Thắng (5 phi cơ A37) của
cộng quân do giặc lái Nguyễn Thành Trung hướng
dẫn từ phi trường Thành Sơn (Phan Rang) bay vào
Saigon dội bom. Hơn nữa họ đang ngồi
chờ lệnh của Trung tướng Nguyễn
Bảo Trị để di tản bằng đường
hàng không. (Cuối cùng Tướng Trị bặt tin,
cho đến sáng 30/4/1975 sau khi Tổng Thống Dương
Văn Minh tuyên bố đầu hàng, nhóm Vơ Bị này
chạy xuống khu kho 5 bến tàu Khánh Hội t́m phương
tiện tàu hàng di tản….nhưng đă qúa
muộn!)
.
Dằn co giửa tôi và nhóm Vơ Bị làm cho tôi
trờ về bên nhà vợ trời đă tối.
Giờ hẹn với Vơ Trường Xuân tại
bến tàu lúc 6 giờ chiều cũng đă trôi qua.
Vào nhà được tin ông bố vợ đổi
ư không chịu đi v́ đứa con gái đầu ḷng
của tôi đă nhóm bệnh hôm qua và chiều nay
đang lên cơn suyễn nặng. Ông bà ngoại cháu
và vợ chồng tôi thay phiên vác cháu trên vai cho con bé
dễ thở . Con gái tôi trở cơn bệnh
nặng là động lực lớn nhất đưa
tôi đến quyết định ở lại nhà
chờ con bé hạ cơn suyễn rồi tính sao.
Giờ giới nghiêm lặng lẽ qua qua……
Sáng
sớm ngày 30 tháng 4, với bộ quân phục hải
quân c̣n mặc trên người từ hôm qua tôi lái xe
chở theo thằng em vợ chạy xuống bến tàu
với hy vọng chiến hạm 611 c̣n đó…….
Bộ Tư Lệnh hải quân và bến Bạch Đằng
vắng tanh không c̣n một chiến hạm nào và HQ.
611 của tôi cũng đă biến mất. Trên bờ
xe hơi, xe nhà binh, xe gắn máy và mọi thứ
đồ đạt vứt bừa bải như
một bải rác lớn. Cảnh tượng thật
điêu tàng. Tôi thẩn thờ như kẻ mất
hồn với tâm trạng buồn khó tả. Tôi lăng
đăng nh́n một chiếc PGM đang chầm chậm
tiến vào vị trí cập cầu A. Trên sàn tàu sau lái,
một viên sĩ quan đang nh́n đám thủy
thủ chuẩn bị quăng dây cập cầu.
-
Ê! Nam. Mày có đi không.
Mặt trời đang nhú lên từ hướng bên
kia Thủ Thiêm đỏ ḷm và ánh nắng chói chan
đă làm tôi chóa mắt. Lấy tay che nắng chói nhưng
cũng chưa nhận ra viên sĩ quan trên PGM gọi tôi
là ai với giọng Bắc kỳ nghe rất quen
thuộc.
Tôi
chạy đến gần chiến hạm hơn th́
nhận ra viên sĩ quan có giọng nói Bắc kỳ
khàn đục đó là Hạm phó Nguyễn Văn Báo
(HQ/9OCS) cũng là thuyền trưởng Hải đội
5 Duyên pḥng cùng thời với tôi.
Tôi
lên sàn tàu. Báo bựa nói nhanh:
- Tao lấy nước xong là zulu. Mày có đi th́
đi luôn.
Tôi lắc đầu từ chối:
- Không có vợ con, làm sao tao đi một ḿnh
được.
Nói
xong, tôi rời khỏi PGM của Báo. Đứng
chờ chiến hạm lấy nước ngọt xong,
tôi giúp tháo dây cột. Chiếc hạm thâu dây và tách
khỏi cầu. Một ḿnh đứng trên bờ nh́n
theo chiếc Tuần Duyên Hạm, chiến hạm
cuối cùng của Hạm Đội VNCH mà tôi c̣n
thấy được vào sáng 30/4/1975 đang lủi
thủi hướng mủi ra giữa ḍng sông. Hai
dạt sóng nhỏ chạy dài từ mủi tàu
chẻ đôi mặt nước sông. Gợn sóng
nhấp nhô sau lái đẩy đưa chiến
hạm đi xa dần. Nh́n lá quốc kỳ của
VNCH đang rủ, thỉnh thoảng gió ban mai thổi
nhẹ làm lá Quốc kỳ lai động nhẹ trên
chóp cột cờ của chiến hạm như
nức nở nghẹn ngào gĩa biệt Saigon mến
yêu. Ḷng tôi se lại…...
Không
hiểu sao lúc bấy giờ tâm trạng của tôi tràn
ngập nổi buồn xa đơn vị, xa chiến
hạm hơn là sợ hăi kẻ địch đang
chiến thắng, tiến vào Saigon.
Tôi
lên xe và nổ máy. Xe chưa lăn bánh th́ Trung úy
Nguyễn Tấn Luật (Luật Đen) lái chiếc
Honda 67 dừng kế bên tôi:
- Ủa! mày không đi hả Nam. Bây giờ mày tính
sao?
Tôi lắc đầu:
- Tàu thằng Báo bựa vừa tách bến. Nó bảo
tao đi, nhưng tao từ chối.
Trí óc tôi trống rỗng và nói tiếp:
- Tính ǵ nữa. Về nhà tính sau mày Luật.
Trung úy Luật đề nghị:
- Hay mày theo tao về quê ở Cần Thơ.
Tôi ngạc nhiên hỏi trổng:
- về Cần Thơ làm ǵ?
Luật đề nghị:
- Rút theo lính ḿnh vào rừng kháng chiến.
Tôi không có một chút suy tính ǵ lúc đó. Nhúng vai
nhẹ:
- Để xem t́nh h́nh ra sau rồi tính. Trước
hết là về nhà thay đồ trước đă.
Tụi ḿnh c̣n đang mặc quân phục. VC tràn vào,
ḿnh đi đứt.
Trung
úy Phan Tấn Luật cũng chợt nhớ ra ḿnh cũng
c̣n đang mặc quân phục trong khi Tổng Thống
Dương Văn Minh đă tuyên buông súng. Chúng tôi
chia tay. (HQ. Trung Úy Nguyễn Tấn Luật, Khóa 1 Đặc
Biệt NT và Khoá 1 Thuyền Trưởng Coast Guard &
PCF, cựu thuyền trưởng HĐ5 Duyên Pḥng
đă qua đời v́ ung thư gan tại Việt Nam
năm 2011)
Trên
đường về Gia Định, tại ngă tư
Hàng Xanh, tôi thấy nhiều xe tăng M-113 của VNCH
đang bố trí vị trí chiến đấu. Tôi cho
xe chạy nhanh hơn để kịp về nhà thu
dọn gia đ́nh chạy sang Tân Định hay Khánh
Hội để tránh xa trận đánh tại ngă tư
Hàng Xanh nếu xảy ra.
Vừa
vào nhà tôi hết sức ngạc nhiên khi thấy có
nhiều thủy thủ của HQ. 611 đang ngồi
chờ trước pḥng khách. Họ trong bộ đồ
nữa lính nữa dân, có anh đi chân không. Tất
cả vẽ mặt buồn hiu. Một anh hạ sĩ
quan lên tiếng trước:
- 611 của ḿnh ch́m rồi ông thầy ơi.
Tôi sửng sốt:
- Ủa! Tại sao ch́m……. mấy anh không sang tàu khác
đi?
Một thùy thủ khác:
- Tối hôm qua, nhiều ông sĩ quan hải quân và
cả bộ binh lên tàu. Họ có súng và uy hiếp
tụi em nổ máy tàu tách bến không cần chờ
hạm trưởng.
Tôi gằn giọng:
- Ai ra lệnh lấy tàu ḿnh đi?
Người thủy thủ hiểu lầm câu hỏi
của tôi. Anh ấy tưởng tôi hỏi ai ra
lệnh di tản:
- Đại tá Đổ Kiểm.
Một thùy thủ khác buồn buồn:
- Khi tàu vô nước, tụi em xuống pḥng ông
thầy định phá tủ mang vali, đồ đạt
ông thầy về đây. Nhưng không kịp. Tàu vô
nước nhanh quá. Tụi em chỉ kịp phá
hủy hồ sơ tài liệu mà thôi.
Một thủy thủ khác:
- Tụi em phá tủ tiền nhưng cũng không
kịp. Tụi em bơi vào bờ rồi lội
bộ về đây báo cáo cho ông thầy hay.
Hết rồi. Đầu óc tôi trống rỗng. Tôi không
c̣n muốn t́m hiểu thêm chi tiết chiến hạm
ch́m nơi đâu? tại sao ch́m? ai cưỡng đoạt
tàu:
- T́nh h́nh sau này không biết thế nào. Tạm
thời anh em nhà ai nấy về.
Tôi cũng không c̣n một đồng trong túi để
gửi cho anh em thủy thủ ít tiền xe cô về
nhà. Giấy tờ, tiền bạc và tất cả
quần áo của tôi đă mất sạch dưới
tàu. Sau 30/4/1975, tôi chỉ c̣n bộ quân phục đang
mặc trên người. Tôi cám ơn các thủy
thủ và tiển họ ra cửa.
Nh́n
theo các anh thủy thủ áo quần xốc xếch
đi xa đầu ngơ. Niêm trách ẩn rời
tàu trổi dậy trong tôi cùng long cảm phục
các thủy thủ đoàn HQ 611: các anh là những
chiến sĩ hải quân that xuất sắc. Các anh
đă hoàn thành trách nhiệm của người
thủy thủ VNCH tận thời điểm cuối
cùng của cuộc chiến.
Chẳng
những các anh không bỏ tàu mà c̣n đến báo tin
cho tôi biết t́nh trạng chiến hạm gặp
nạn. Điều này đă nói lên tinh thần
Quốc gia và trách nhiệm của người lính
VNCH nơi các anh thật cao và thật đáng kính
phục dường nào. Chính tôi đă bỏ tàu và
bỏ rơi các anh!!
……………………….Post
on Oregon Thời Báo nhân Kỷ Niệm Ngày Quân
Lực 19/6 năm 2013 …….
Trở
lại câu chuyện với Vơ Trường Xuân.
Xuân
trở về LSM-402 cũng kư sự vụ lệnh cho
ḿnh để ra cổng về đón người nhà.
Xuân và gia đ́nh xuống bến tàu đúng giờ
hẹn 6 giờ chiều. Thật đông dân chúng và
quân nhân đủ mọi cấp, mọi binh chủng
đông nghẹt la ó bên ngoài cổng rào của BTL/HQ.
Xuân đă chửi thề khi t́m không ra được
tôi trong đám đông chen lấn. May mắn Xuân
gặp được Trung úy…Tự, đang là sĩ
quan trực tại cổng của BTL/HQ, Tự là
bạn thân với Xuân khi c̣n ở Năm Căn.
Trung Úy Tự cho lệnh quân cảnh hé mở cổng
cho gia đ́nh Xuân vào bên trong. Nhờ đó Vơ Trường
Xuân đă đưa được tất cả
thân nhân lên LSM -HQ402 và sau đó chuyển sang chiếc
hạm khác (HQ. 402 được kéo theo đoàn tàu di
tản và được đánh ch́m ngoài biển). Xuân
và thân nhân đến Hoa Kỳ năm 1975……
Ra tù cộng sản cuối năm 1982, vào giửa năm
1983 đang c̣n trong thời hạn ” tù quản
chế” tại địa phương, tôi đă
nhận lănh một chuyến vượt biên từ
cố HQ. Thiếu Tá Nguyễn Duy Khanh (K. 12/NT) giao cho.
Chuyến đi thành công. Ghe chúng tôi được tàu
chở gas khổng lồ của Hoa Kỳ vớt
gần Indonesia đưa vào Nhật Bản. Giửa năm
1986, một vị Trung Tá Hải Quân Hoa Kỳ (ngoài phái
đoàn phỏng vấn của Cao Ủy Tỵ
Nạn) gặp riêng gia đ́nh tôi để xác
nhận lư lịch trong tập hồ sơ quân bạ
của tôi mà ông ta mang theo. Sau cuộc phỏng vấn
diễn ra thật nhanh chóng và đơn giản (xác
định số quân vả thời gian đi tù CSVN).
Ông ta tuyên bố ông đại diện chánh phủ
Hoa Kỳ chấp nhận cho gia đ́nh tôi định
cư tại Hoa Kỳ theo quy chế tỵ nạn.
Thủ tục tuyên thệ ngay sau đó. Đây là
một sự kiện ngoại lệ xảy ra tại
các trại tỵ nạn tại Nhật Bản khi chánh
phủ Hoa Kỳ qua tận nơi nhận người
tỵ nạn ngoài áp lực của Cao Ủy Tỵ
Nan Quốc Tế và chánh phủ Nhật Bản ép người
tỵ nạn định cư tại Nhật vào
thập niên 1980. Sau đó it tháng, gia đ́nh chúng tôi
rời Nhật Bản và đến Hoa Kỳ vào tháng
6 năm 1986. Thế là VT Xuân và tôi lại gạp
nhau……
Mùa
Hè năm 2012, một số anh em hải quân Khoá 23/NT
từ vài tiểu bang xa ghé thăm Portland được
tiếp đón tại tư gia của HQ. Lê Quang Vinh
(Vinh râu, Khóa 23/NT). Buổi tiệc vui có cả
Nguyễn văn Đông (K.23/NT), Tạ Thông (K. 23/NT) và
tôi. Nhờ các bạn Khóa 23/NT này, tôi
biết được tin HQ. Thiếu Úy…Bữu (K.
23/NT), cựu sĩ quan hải quân trên Tuần duyên
hạm Trường Sa HQ.611 vừa qua đời v́
bạo bệnh tại Việt Nam. Nơi đây, tôi
xin cầu nguyện linh hồn bạn Bữu sớm tiêu
diêu miền lạc cảnh.
Tháng
9 vừa qua, HQ. Hoàng Trọng Tuấn từ Úc Châu
(Sydney) sang San Jose, California họp Khóa 21/NT (Đệ
Nhị Nhân Mă) đă ghé Portland thăm tôi trước
khi trở về Úc Châu. Vài ngày sau HT. Tuấn qua
email đă tặng tôi tấm ảnh của Tuần
Duyên Hạm Trường Sa HQ. 611 đang công tác
gần đảo Trường Sa. Tấm ảnh HQ 611
của Tuấn gởi tặng là một món qùa thật
qúy báo. Cám ơn bạn hiền Tuấn “k.k.k”
thật nhiều.
Quốc Hận 30/4/2013 – Portland, Oregon
HQ. Phạm Quốc Nam
.
Ành
do HQ/ NM2. Hoàng Trọng Tuấn (Sydney – Australia) sưu
tầm và tặng – 2012
|