Tại Sao Cộng Sản Giết Phạm Quỳnh GS Trần Gia Phụng |
Việt
Minh cộng sản đă giết Phạm Quỳnh
(1892-1945) hai lần: Lần thứ nhất hạ sát,
che giấu và phi tang thân xác ông tại Huế năm
1945. Lần thứ hai, bóp méo lịch sử, viết
sai lạc về Phạm Quỳnh, nhằm hủy
diệt luôn sự nghiệp và thanh danh của ông.
Một câu hỏi cần được đặt ra
là lúc đó Phạm Quỳnh đă rút lui khỏi chính
trường, tại sao cộng sản lại giết
Phạm Quỳnh, trong khi cộng sản không giết
Trần Trọng Kim và toàn bộ nhân viên nội các
Trần Trọng Kim, là những người đang c̣n
hoạt động? Câu hỏi nầy cần tách ra làm
hai phần để dễ t́m hiểu: Thứ
nhất Từ
khi đến Trung Hoa hoạt động năm 1924,
Hồ Chí Minh, điệp viên của Đê Tam
Quốc tế Cộng sản, lúc đó có tên
Nguyễn Ái Quốc, Lư Thụy, đă chủ trương
“giết tiềm lực”. Giết tiềm lực là
tiêu diệt tất cả những cá nhân có khả năng
tiềm tàng mà không chịu theo chủ nghĩa
cộng sản hay đảng Cộng Sản, có
thể sẽ có hại cho đảng Cộng sản
trong tương lai. Những người nầy về
sau có thể sẽ hoạt động chính trị và
có thể sẽ gây trở ngại, gây nguy hiểm cho
sự phát triển của cộng sản. Nạn nhân
danh tiếng đầu tiên của chủ trương
giết tiềm lực của Hồ Chí Minh là Phan
Bội Châu (1867-1940). Phan Bội Châu bị Lư Thụy
bán tin cho Pháp, để Pháp bắt Phan Bội Châu năm
1925 tại nhà ga Thượng Hải, nhằm đoạt
lấy tổ chức của Phan Bội Châu. (Tưởng
Vĩnh Kính, Nhất cá Việt Nam dân tộc chủ
nghĩa đích ngụy trang giả, bản dịch
của Nguyễn Thượng Huyền, Hồ Chí Minh
tại Trung Quốc, California: Nxb. Văn Nghệ, 1999,
tt. 84-85.) Từ
đó, Hồ Chí Minh và phe đảng thi hành chủ
trương giết tiềm lực, ngầm thủ tiêu
rất nhiều thanh niên sinh viên hoạt động chính
trị, và nhất là năm 1945, khi nắm được
quyền lực, Việt Minh (VM), mặt trận
ngoại vi của Đảng Cộng Sản Đông Dương
(CSĐD), đă giết hầu hết những nhân tài
không theo VM. Tại
Huế, VM t́m tất cả các cách nhắm cô lập
vua Bảo Đại. Cách tốt nhất là cách ly nhà
vua với những người có khả năng và uy
tín thân cận bên cạnh nhà vua, trong đó quan
trọng hơn cả là Phạm Quỳnh và Ngô Đ́nh
Khôi. Do đó, VM ra lệnh bắt Phạm Quỳnh và
Ngô Đ́nh Khôi cùng con của ông Khôi là Ngô Đ́nh
Huân ngày 23-8-1945. Đồng thời VM sắp đặt
những người của VM như Tạ Quang
Bửu, Phạm Khắc Ḥe vây quanh rỉ tai nhà vua, phóng
đại về kháng chiến, về Việt Minh.
(Bảo Đại, Con rồng Việt Nam, tr. 184.) Theo
David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power, sau khi Phạm
Quỳnh và hai cha con Ngô Đ́nh Khôi bị bắt, người
Nhật can thiệp một cách yếu ớt không
hiệu quả. Ngày 28-8, sáu người Pháp nhảy dù
xuống một địa điểm cách kinh thành
Huế khoảng 20 cây số nhắm mục đích
bắt liên lạc với vua Bảo Đại và các
cựu quan Nam triều. Lúc đầu, VM địa phương
tưởng những người Pháp nầy là người
của phe Đồng Minh, cho họ trú tạm tại
một ngôi nhà thờ, nhưng khi biết rằng
đây là những người Pháp có ư định t́m
cách liên lạc với các quan chức Nam triều cũ,
VM liền giết bốn người, và cầm tù hai
người đến tháng 6-1946. (David
G. Marr, Vietnam 1945, The Quest for Power [Việt Nam 1945, đi t́m
quyền lực] University of California Press, tt. 452-453.) Trong
khi cô đơn, lại bị Phạm Khắc Ḥe xúi
giục và hù dọa, vua Bảo Đại tuyên
chiếu thoái vị ngày 25-8-1945, và làm lễ thoái
vị tại cửa Ngọ Môn ngày 30-8-1945, với
sự hiện diện của đại diện
Việt Minh là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương
Bằng, và Cù Huy Cận. Theo
hồi kư của Trần Huy Liệu, sau khi Nhật
đầu hàng, người Pháp nhảy dù xuống
Huế, liền hỏi ngay đến Bảo Đại,
Phạm Quỳnh và những người cộng tác
với Pháp trước đó. Việt Minh bắt
được toán người Pháp nầy và
“xử lư thích đáng” Ngô Đ́nh Khôi và Phạm
Quỳnh. (Nguyên văn lời của Trần Huy
Liệu). Theo lối chơi chữ của Trần Huy
Liệu, “xử lư thích đáng” có nghĩa là
thủ tiêu hai ông Ngô Đ́nh Khôi và Phạm Quỳnh. Nhiều
người cho rằng việc người Pháp
muốn kiếm cách liên lạc với cựu hoàng
Bảo Đại và Phạm Quỳnh (v́ lư do ǵ không
được rơ) vô t́nh đă làm cho VM lo ngại,
sợ rằng một khi người Pháp trở lui, Pháp
sẽ nhờ Phạm Quỳnh và những người
đă từng làm việc với Pháp như Ngô Đ́nh
Khôi giúp Pháp lật ngược thế cờ,
đưa cựu hoàng trở lại cầm quyền. Do
đó VM vội vàng “mời” cựu hoàng Bảo
Đại rời Huế ngày 4-9-1945, ra Hà Nội làm
cố vấn chính phủ, để cách ly cựu hoàng
với cố đô, chiếc nôi của nhà Nguyễn,
đồng thời cách ly cựu hoàng với những
cận thần cũ. V́ vậy VM giết ngay các ông
Phạm Quỳnh, Ngô Đ́nh Khôi ngày 6-9 để
trừ hậu hoạn. Trong khi đó, nếu người
Pháp trở lui Huế, người Pháp cũng không
hợp tác với Trần Trọng Kim, v́ ông Kim và
nội các của ông bị gán cho là thân Nhật. Thứ
hai Khi
cướp chính quyền, VM đă chủ ư giết
một số người trong đó có Phạm
Quỳnh. Việt Minh chủ ư giết Phạm
Quỳnh v́: 1.
Phạm Quỳnh muốn xây dựng nền quân
chủ lập hiến tại nước ta, và cho
rằng cộng sản là “nạn dịch” gây
bất ổn xă hội. (Phạm Quỳnh, “Ce que sera
l’Annam dans cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao năm
mươi năm sau?], Essais franco-annamites (1929-1932),
Huế: Nxb. Bùi Huy Tín, 1937, tr. 500.) Phạm Quỳnh
muốn xây dựng nền quốc học trong khi
Việt Minh muốn phổ biến chủ nghĩa
cộng sản. 2.
Ở trong nước, Phạm Quỳnh tiêu biểu cho
giới trí thức làm văn hóa, theo chủ nghĩa dân
tộc, lập trường quốc gia, bất bạo
động, dấn thân hoạt động chính
trị. Việt Minh giết Phạm Quỳnh để
đe dọa, uy hiếp và khủng bố tinh thần
giới trí thức hoạt động văn hóa trên
toàn quốc. Đây là lối mà người xưa
gọi là “sát nhất nhân, vạn nhân cụ”
(giết một người, mười ngàn người
sợ). 3.
Đối với nước ngoài, Phạm Quỳnh là
người được Pháp ủng hộ và
rất có uy tín trên chính trường Pháp. Với
đường lối ôn ḥa, ông c̣n có thể
được cả Nhật, Trung Hoa (lúc bấy
giờ do Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân
Đảng cầm quyền), Anh, Hoa Kỳ chấp
nhận hơn là đường lối cực đoan
theo Liên Xô của Hồ Chí Minh. 4.
Hồ Chí Minh muốn chụp lấy ngay thời cơ
tạo ra do khoảng trống chính trị sau tối
hậu thư Potsdam vào cuối tháng 7-1945, nên chủ
trương tiêu diệt tất cả những người
nào có khả năng tranh quyền với Hồ Chí
Minh, để cho ở trong cũng như ngoài nước
thấy rằng chỉ có một ḿnh Hồ Chí Minh
mới xứng đáng lănh đạo đất nước.
Phạm Quỳnh đă từng là thượng thư
bộ Lại, đứng đầu triều đ́nh
Huế. Đặc biệt những điều ông
viết về tương lai thế giới mà ông
đưa ra từ 1930 trong bài “Ce que sera l‘Annam dans
cinquante ans?” [Nước Nam sẽ ra sao năm mươi
năm sau?] đều đă diễn ra đúng theo ông
tiên liệu, như mối đe dọa của
Nhật Bản, nạn dịch cộng sản, xung
đột Thái B́nh Dương, đại hỏa
hoạn ở châu Âu [thế chiến 2]. Nhờ
thế mà uy tín Phạm Quỳnh lên rất cao. Phạm
Quỳnh có uy tín và tư thế lớn đối
với dư luận trong và ngoài nước, là
một trong những người có thể trở thành
đối thủ đáng ngại của Hồ Chí
Minh, nên Hồ Chí Minh quyết tiêu diệt Phạm
Quỳnh để tránh trở ngại về sau. 5.
Khi mới nổi dậy năm 1945, để lôi
cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh và Mặt trận
Việt Minh tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là nhà
yêu nước, chứ không phải là đảng viên
cộng sản, và Hồ Chí Minh ra đi để t́m
đường cứu nước, đồng
thời Hồ Chí Minh tự giấu thật kín
chuyện xin vào học trường Thuộc Địa
Paris mà bị loại. Một chuyện nữa cũng
thuộc loại “thâm cung bí sử” của Hồ Chí
Minh là việc Nguyễn Ái Quốc gia nhập Hội
Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris vào đầu
năm 1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la franc-maçonnerie
coloniale” [Người Việt trong hội Tam Điểm
thuộc địa], tạp chí Revue Française d’Histoire
d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française
d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105) Hội Tam Điểm là
một hội có chủ trương chính trị đối
lập với đảng Cộng Sản và là kẻ
thù của đảng Cộng Sản. Cũng
trong năm 1922, theo lời mời của chính quyền
Pháp, Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết
tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale)
ngày 31-5-1922 về đề tài “Sự tiến hóa
về đường tinh thần của dân Việt
Nam từ ngày đặt bảo hộ đến
giờ”. Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris
để đi diễn thuyết vài nơi, kể
cả Viện Hàn lâm Pháp. Trong thời gian ở Paris,
Phạm Quỳnh ghi nhật kư là đă gặp gỡ
những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”, và
không nêu tên những người ông đă gặp
trong nhật kư. Tuy nhiên, trên sổ lịch để
bàn, Phạm Quỳnh ghi rơ: [Thứ Năm, 13-17]: “Ăn
cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn
Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”.
[Tờ lịch Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường,
Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chủ
nhật 16-7] [Chuyền có thể là Nguyễn Thế
Truyền.] Như
thế, Phạm Quỳnh là một trong những người
biết rơ tung tích Hồ Chí Minh ở Paris, biết rơ
Hồ Chí Minh đă gia nhập hội Tam Điểm
Pháp, và đặc biệt Phạm Quỳnh c̣n
sống cho đến 1945 (Những người khác như
Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh
đều đă từ trần). Phạm Quỳnh là
một nho sĩ chính trực nên ông không tiết
lộ cho vua Bảo Đại biết điều
nầy, do đó nhà vua mới bị Phạm Khắc Ḥe
dẫn dụ về nhân vật Hồ Chí Minh. (Bảo
Đại, Con rồng Việt Nam, tt. 184-185). Phải chăng
v́ là người đă lỡ “biết quá
nhiều” về Hồ Chí Minh mà Phạm Quỳnh
bị Hồ Chí Minh ám hại? Trần
Trọng Kim – Hồ Chí Minh Do
những lẽ trên, nếu không có những người
Pháp nhảy dù xuống Huế như tác giả David
G. Marr viết hay Trần Huy Liệu kể, cộng
sản cũng vẫn giết Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim đều là
hai nhà văn hóa, và chính trị nổi tiếng trên
toàn quốc. Trần Trọng Kim viết khảo
cứu có tính cách hoàn toàn chuyên môn, chứ không có
chủ trương chính trị lâu dài; nội các
Trần Trọng Kim gồm những chuyên viên cần
thiết cho việc xây dựng cơ sở căn
bản trong giai đoạn chuyển tiếp từ chính
quyền Pháp qua chính quyền Việt. Trần
Trọng Kim ít biết về những hoạt động
của Hồ Chí Minh lúc c̣n ở Paris. Ngược
lại, Phạm Quỳnh trước tác với
một ư hướng chính trị rơ ràng: xây dựng
một nền văn hóa dân tộc, bảo tồn
quốc túy, nâng cao tŕnh độ văn hóa của dân
chúng bằng cách phổ biến văn hóa Âu tây,
dịch thuật những tư tưởng dân
quyền của Montesquieu, Voltaire, Rousseau. Phạm
Quỳnh tham gia triều đ́nh Huế cũng nhắm
đến một chủ đích rơ ràng: tranh đấu
ôn ḥa, nhưng cương quyết yêu cầu Pháp
trả lại chủ quyền cho triều đ́nh, và
xây dựng một hiến pháp làm luật lệ căn
bản của quốc gia. Ảnh
hưởng văn hóa và chính trị của Phạm
Quỳnh khá rộng răi trên các tầng lớp
quần chúng, nhất là giới trí thức trung lưu,
từ lớp trí thức Nho học đến cả
lớp trí thức và thanh niên tân học. Tạp chí
Nam Phong được các lớp người ưu tú
ở các địa phương lúc bấy giờ trên
toàn quốc xem như loại sách báo giáo khoa chỉ
đường. Đó là điều mà cộng
sản chẳng những không thể chấp nhận và
cũng không thể dung thứ, v́ cộng sản
muốn nắm độc quyền lănh đạo chính
trị, độc quyền yêu nước, độc
quyền chân lư. Xin
hăy chú ư thêm ngày Phạm Quỳnh bị sát hại.
Phạm Quỳnh bị bắt ngày 23-8-1945, và bị
giết ngày 6-9, nghĩa là ông không bị nhóm VM địa
phương Huế giết liền khi họ nổi
dậy. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 30-8-1945
với sự chứng kiến của đại
diện chính phủ Việt Minh từ Hà Nội đến
là Trần Huy Liệu (bộ trưởng bộ Tuyên
truyền), Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy
Cận (bộ trưởng không bộ nào tức
quốc vụ khanh). Phạm Quỳnh bị giam giữ
một thời gian, rồi mới bị giết ngày
6-9-1945, nghĩa là lúc đó đă có mặt của
đại diện trung ương của VM và của
đảng CSĐD. Khi
đă có sự hiện diện của đại
diện trung ương, các cán bộ VM địa phương
chắc chắn không dám tự tiện ra tay, mà
chắc chắn phải có ư kiến của trung
ương. Nhóm Trần Huy Liệu cũng không thể
tự quyết định được việc
nầy. Như vậy phải chăng chính nhóm
Trần Huy Liệu đă đem lệnh từ Hà
Nội vào Huế để giết Phạm Quỳnh?
Và lệnh đó từ đâu, nếu không phải là
từ Hồ Chí Minh? Sau
khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái
đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm
Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Dưới
đây là lời kể của bà Thức: “…Tháng 8
năm 1945, Thầy tôi ra đi!… Sau đó, chị tôi
[tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đ́nh
Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho
cụ Hồ, giới thiệu đến thăm
cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm
Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa
về… Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá
vội và có thể có nhiều sai sót đáng
tiếc…” (Hồi kư viết tại Paris ngày
28-10-1992 của bà Phạm Thị Thức, nhân kỷ
niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu
gia đ́nh). Phạm
Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945. Hồ Chí Minh cướp
chính quyền ngày 2-9-1945, ra lệnh “mời” Bảo
Đại ra Hà Nội, và Bảo Đại rời
Huế ngày 4-9-1945. Như thế có nghĩa là Hồ
Chí Minh đă về Việt Nam, đă cướp
được chính quyền, đă nghĩ đến
cựu triều đ́nh Huế, đến việc
đưa Bảo Đại ra Hà Nội, vậy
chắc chắn Hồ Chí Minh không thể quên hay không
biết chuyện Phạm Quỳnh. Lối lư luận
của Hồ Chí Minh là cách chối tội thông thường
cổ điển của VM: “Mất
mùa là tại thiên tai, Giết
xong Phạm Quỳnh, cộng sản tính việc
hủy diệt luôn h́nh ảnh sáng chói của nhà văn
hóa Phạm Quỳnh, tức giết Phạm Quỳnh
lần thứ hai. Việc nầy th́ không thể nói là
Hồ Chí Minh không biết ǵ cả. Đảng
Cộng Sản quy chụp cho Phạm Quỳnh tội
“phản quốc, làm tay sai cho Pháp”. Gần 40 năm
sau, trong Từ điển Văn Học, gồm 2
tập, mỗi tập trên 600 trang, gồm nhiều người
viết, do Uỷ ban Khoa học Xă hội xuất
bản tại Hà Nội năm 1984, vẫn không có
mục “Phạm Quỳnh”. Khi viết về các nhóm
văn hóa, sách nầy không thể loại nhóm Nam Phong
v́ nhóm Nam Phong có khá nhiều tác giả nổi
tiếng. Nói
đến nhóm Nam Phong, trang 121-123, tập 2, tác giả
Nguyễn Phương Chi, trong ban biên tập từ
điển, vẫn c̣n gọi Phạm Quỳnh là
“bồi bút, phản động”. Hơn thế
nữa, năm 1997, trong Từ điển nhân vật
lịch sử Việt Nam, do nhà xuất bản Văn
Hóa, Hà Nội ấn hành, Nguyễn Q. Thắng và
Nguyễn Bá Thế biên tập, mục “Phạm
Quỳnh”, trang 758-759, hai tác giả nầy viết:
“Hoạn lộ của ông [chỉ Phạm Quỳnh] lên
nhanh như diều gặp gió v́ gắn bó mật
thiết với các quan thầy thực dân… Ngày
23-8-1945, Phạm bị các lực lượng yêu nước
bắt ở Huế, rồi sau đó bị xử
bắn ở l. [làng] Hiền Sĩ, t. [tỉnh]
Thừa Thiên, hưởng dương 53 tuổi.” Các
tác giả cộng sản thường đưa ra chiêu
bài yêu nước và dân tộc để quy chụp
những người không theo khuynh hướng của
cộng sản là phản động, phản
quốc, trong khi chính v́ Hồ Chí Minh khăng khăng
đi theo cộng sản Liên Xô mà Việt Nam không
được các nước Đồng Minh thừa
nhận sau năm 1945. Cũng chính v́ đảng
Cộng Sản chủ trương ư thức hệ
cộng sản mà gây ra mâu thuẫn quốc cộng,
phá hoại t́nh đoàn kết dân tộc, là một
trong những nguyên nhân chính đưa đến
chiến tranh Việt Nam từ 1946 đến 1975, và
hậu quả c̣n kéo dài măi cho đến ngày nay. Sau
năm 1954, rồi 1975, chính đảng Cộng sản
Việt Nam đă nhập cảng và áp dụng một
cách máy móc chính sách văn hóa Mác, Mao và kinh tế
chỉ huy rập theo khuôn Liên Xô và Trung Cộng, đă
làm cho Bắc Việt rồi cả Việt Nam suy
kiệt về mọi mặt cho đến ngày nay mà
chưa t́m ra lối thoát. Nếu
nói rằng: Phạm Quỳnh hợp tác với Pháp
để mưu cầu chủ quyền cho Việt Nam,
bảo vệ quyền lợi của quốc gia là làm
tay sai cho ngoại bang, c̣n Hồ Chí Minh và đảng
cộng sản theo Nga Hoa, bán đứng quyền
lợi đất nước, th́ không phải là tay
sai ngoại bang? Nếu nói rằng Phạm Quỳnh
hợp tác công khai với Pháp, viết bài tŕnh
thuật rơ ràng các hoạt động của ông là
phản quốc, trong khi Hồ Chí Minh làm gián điệp
cho Đệ tam Quốc tế Cộng sản, cầu
viện Trung Quốc và Liên Xô là không phản
quốc? Nếu
nói rằng Phạm Quỳnh viết bài quảng bá
học thuật Âu tây, đề cao tư tưởng
dân quyền của Voltaire, Montesquieu, Rousseau là không có
tinh thần dân tộc, c̣n cộng sản phổ
biến tư tưởng Marx, Lenin, và nhất là
chủ nghĩa Stalin th́ gọi là ǵ? Phạm Quỳnh
dịch thơ Corneille, Racine là bồi bút, c̣n Tố
Hữu làm thơ gọi Stalin là ông nội, “thương
cha thương mẹ thương chồng / thương
ḿnh thương một thương ông thương mười”,
th́ không bồi bút? Nói
cho cùng, nếu Phạm Quỳnh chỉ là người
học tṛ b́nh thường của Voltaire, Montesquieu
hoặc Rousseau th́ cũng đáng mừng cho dân
tộc Việt Nam, v́ tư tưởng của
các nhà học giả Pháp nầy là ánh sáng soi
đường cho nhân dân toàn thế giới xây
dựng nền tự do dân chủ phân quyền pháp
trị. Trong
khi đó Hồ Chí Minh là “một người
học tṛ trung thành của Các Mác và V. I. Lê-nin” (Ban
Nghiên cứu Lịch sử Đảng trung ương,
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự
nghiệp, in lần thứ tư, Nxb. Sự Thật, Hà
Nội, 1975, tr. 160), và nhất là người học
tṛ xuất sắc của Stalin, th́ thực tế
lịch sử đă chứng minh rằng đó là
hiểm họa độc tài đen tối khốc
liệt nhất từ trước đến nay trong
lịch sử Việt Nam. Dầu
sao, việc tuyên truyền của cộng sản
một thời gây nhiễu xạ h́nh ảnh của
Phạm Quỳnh và ảnh hưởng không ít đến
dư luận dân chúng, làm nhiều người,
kể cả vài kẻ tự mệnh danh là trí
thức tiến bộ, hiểu sai về Phạm
Quỳnh, và hiểu sai luôn về một số nhân
vật chính trị theo khuynh hướng quốc gia dân
tộc. Phạm Quỳnh đă từng nói:
“Về phần tôi, tôi đă chọn con đường
của tôi. Tôi là một người ở buổi
giao thời và tôi sẽ chẳng bao giờ được
cảm thông…”. (Thư ngày 30-12-1933 của
Phạm Quỳnh gởi Louis Marty, Hành tŕnh nhật kư,
Paris: Nxb. Ư Việt, 1997, phần “Dẫn nhập”, không
đề trang). Ngày
nay, sau những biến động đảo điên
của thời cuộc, mọi người nên công tâm
t́m hiểu Phạm Quỳnh và nh́n lại sự
nghiệp của ông. Trước ngă ba đường
vào đầu thế kỷ 20, giữa cựu học,
Tây học, và tân học, Phạm Quỳnh chọn con
đường tân học, cải tiến và hoàn
chỉnh văn học Quốc ngữ để làm phương
tiện xây dựng quốc học, vừa bảo
vệ quốc hồn quốc túy, vừa bồi đắp
thêm bằng cách du nhập những tinh hoa văn hóa nước
ngoài. Chủ
trương ḥa nhập văn hóa (acculturation) của
Phạm Quỳnh xét
cho cùng rất quư báu và cần thiết cho đất
nước, v́ nếu chỉ mải mê tranh đấu
chính trị và quân sự, mà không xây dựng nền
văn hóa dân tộc dựa trên quốc hồn,
quốc học và quốc văn, th́ người
Việt vẫn bị tŕ trệ trong sự nô lệ
tinh thần. Những đóng góp của ông trong
việc phát triển nền văn chương
Quốc ngữ thật lớn lao. Những vấn
đề văn chương, triết lư tổng
hợp đông tây ông đă viết, những ư
kiến do ông đưa ra trong các bài báo, kể
cả những ư kiến ông tranh luận về
truyện Kiều, về Nho giáo, vẫn c̣n có giá
trị. Giấc mơ của Phạm Quỳnh về
quốc học, quốc hồn lại càng cần
được cổ xúy làm nền tảng giáo
dục tinh thần cho mọi người Việt Nam ngày
nay ở trong cũng như ở ngoài nước.
Phạm Quỳnh là nhà văn hóa lớn của
Việt Nam thời hiện đại. Về
chính trị, Phạm Quỳnh viết nhiều tiểu
luận bằng tiếng Việt cũng như bằng
tiếng Pháp để tranh đấu thực hiện
lư tưởng chính trị của ông. Nhiều người
thường đồng nghĩa nền quân chủ
với phong kiến hoặc thực dân, nên cho rằng
quan niệm quân chủ lập hiến của Phạm
Quỳnh là thủ cựu. Cần phải chú ư là
Phạm Quỳnh chủ trương bất bạo
động. Ông chọn thể chế quân chủ
lập hiến với hy vọng thúc đẩy
Việt Nam chuyển biến một cách ôn ḥa trong
trật tự. Nh́n
ra nước ngoài, hiện nhiều nước
trên thế giới vẫn duy tŕ nền quân chủ
lập hiến, nhưng vẫn là những nước
hết sức dân chủ như Anh Quốc, Nhật
Bản, Thụy Điển, Bỉ… Ở
trong nước, xét trên chiều dài của lịch
sử, từ ngày Pháp đặt nền đô hộ
năm 1884 đến năm 1945, tuy các vua nhà Nguyễn
bị người Pháp khống chế, nhưng vua
vẫn là biểu tượng cao cả của đất
nước, nên các cuộc nổi dậy kháng Pháp
từ Bắc vào Nam đều quy hướng về
một mối, đó là triều đ́nh ở kinh
đô Huế. Trái lại từ năm 1945 trở
đi, khi VM cộng sản cướp chính quyền,
người Việt Nam bị chia rẽ trầm
trọng thành nhiều phe nhóm khác nhau, theo những quan
điểm khác nhau. Do đó, Phạm Quỳnh có
phần hữu lư khi ông chủ trương cải cách
ôn ḥa, và chọn quân chủ lập hiến theo đại
nghị chế thay thế cho nền quân chủ chuyên
chế. Ngày
nay, cục diện chính trị Việt Nam đă thay
đổi hẳn, quan niệm quân chủ
lập hiến của Phạm Quỳnh không c̣n phù
hợp, nhưng không thể v́ thế mà phủ
nhận tinh thần ái quốc, ḷng can đảm và
sự tận t́nh của ông trên con đường
phụng sự quê hương. Phạm
Quỳnh đă âm thầm tranh đấu bất
bạo động để đ̣i hỏi chủ
quyền cho đất nước. Ông đă hết ḷng
hoạt động v́ nước và đă hy sinh v́ lư
tưởng của ḿnh. Đó là điều thật
đáng trân quư nơi Phạm Quỳnh, nhà trí
thức dấn thân hoạt động chính trị. Một
điều đáng ghi nhận cuối cùng trong cách
thức hành xử của Phạm Quỳnh. Ông theo
đuổi một lư tưởng chính trị trường
kỳ và bất bạo động, nên ông luôn luôn
cố gắng làm những ǵ có lợi cho đất
nước và đồng bào, đồng thời tránh
không làm bất cứ việc ǵ có hại cho quốc
gia dân tộc. Phạm Quỳnh sống lương
thiện, không tham ô nhũng lạm, và cũng không
hề gây tội ác giết hại đồng bào.
Thái độ nầy là điều mà rất ít nhà
hoạt động chính trị của mọi khuynh hướng
thực hiện được, và là một điểm
son sáng chói phân biệt Phạm Quỳnh với
những người ra hợp tác với Pháp để
trục lợi cầu vinh. Đây
là điều cần phải được tách
bạch. Trong việc hợp tác với Pháp, có hai
hạng người: hạng thứ nhất là
những kẻ hợp tác để mưu cầu danh
lợi riêng tư, lợi dụng quyền thế,
hống hách bóc lột đồng bào; hạng thứ
hai ra tham chính, làm việc với Pháp, không dựa vào
quyền thế để hiếp đáp dân chúng, mà
dùng quyền thế để cứu giúp đồng
bào, và vẫn giữ được khí tiết riêng
của ḿnh như Nguyễn Trường Tộ, Pétrus
Trương Vĩnh Kư, và biết bao nhiêu người
vô danh khác. Phải
tránh vơ đũa cả nắm, và phải rơ ràng
như thế mới hiểu được tâm
trạng cùng sự can đảm của những nhà
trí thức, trong hoàn cảnh éo le của đất nước,
dấn thân hoạt động chính trị, phụng
sự dân tộc, nhất thời đă bị
hiểu lầm sau những cơn lốc tranh chấp
chính trị kéo dài trên quê hương yêu dấu,
trong đó Phạm Quỳnh là trường hợp
điển h́nh nhất.
|