TÂM THƯ MỘT NGƯỜI LÍNH. Lê Qúy |
Anh
Nguyễn Viết Quy thân mến, Ngày
tháng qua mau, mới đó mà mấy mươi năm
đă trôi qua trong cuộc đời chúng ta. Mới ngày
nào trên các đỉnh đồi cao nguyên Chư Prông,
Buôn Cham, căn cứ 17, Mê Kút, Thanh An... Khi cuộc
chiến đến hồi ác liệt, đêm địch
tấn công, ngày pháo kích không ngớt. Tiếng súng giao
tranh, tiếng tạc đạn gầm thét của
kẻ thù. Mới đó mà tôi đă trải qua mấy
chục năm nơi ṿm trời Bắc Mỹ. Cuộc
đời thay đổi không ngừng, ai biết
được ngày mai đi về đâu ! Hôm nay mùa hè
đă trở lại với California. Mùa hè mà nơi
đây không khí hơi lành-lạnh, buồn-buồn, vương
vất những âm hưởng của những ngày 30 tháng
tư năm nao, làm tôi nhớ những sớm mai ở
căn cứ Mê-kut. Ngày
đó anh và tôi đứa nào cũng chưa đầy
25 tuổi, cùng một bọn thanh niên, ngày qua ngày
tiếp nối với hành quân,, phục kích, mở
đường. Những ngày rảnh rổi dừng quân,
anh, tôi, Huấn, Sơn, Nam,Trung...mấy tên sĩ quan
trẻ tụ ḿnh về quận lỵ Thanh An uống
cafe, tán hươu, tán vượn ở các quán
nhỏ, hoặc đi ngơ-ngơ gọi là
"batre" phố nơi một quận lỵ
miền cao dân cư không quá năm trăm nóc nhà. Thuở
ấy, h́nh như tụi ḿnh đứa nào cũng mang
một nỗi buồn. Nhưng không phải v́ thế mà
giảm đi bầu nhiệt huyết, sự anh dũng
khi đối đầu với kẻ thù. Những ngày
ấy, cái sống kề bên cái chết, niềm vui
kế bên nỗi buồn. Những bài ca "Em hỏi
anh bao giờ trở lại. Anh trả lời mai mốt
anh về...Anh sẽ về trên chiếc băng ca. Bên người
yêu tật nguyền, chai đá..." cũng nói lên thân
phận và các cơn 'shock', những bi quan thời
cuộc của chúng ḿnh trước đau thương
, tan nát. Một thời đại trước mắt là
kẻ thù buộc ta lao tới, sau lưng lá mẹ già,
vợ trẻ, con thơ. Phố phường , con
đường mang tên em với t́nh yêu vây quyện,
vấn vương ! ! ! Chắc anh không thể nào quên
được những niềm vui, nỗi buồn ngày
ấy. Khi chúng ta c̣n bên nhau trong cuộc chiến.
Những hy sinh anh dũng, oai hùng của Duy, Tài, Thức
, Toại...đă khiến cho những người anh em
chúng ta trở thành phế nhân. Duy cụt cả cặp
gị. Thức mù đôi mắt v́ mảnh lựu đạn
bắn vào, và Toại mất đi cả đôi chân
lẫn đôi tay đến nỗi không thể nào
tự ḿnh ngồi vào chiếc xe lăn được... Không,
không thể nào quên được, chúng nó c̣n thê-thảm,
lê-lết và cơm không có đủ ăn, áo không
đủ mặc...Chúng nó đang thiếu cả
vật chất lẫn t́nh thương. Một
Nguyễn Văn Tài, Thiếu úy, đêm di tản
buồn ra khỏi quận lỵ Thanh An, đạp
phải ḿn , đôi chân biến mất vào giây phút
cuối cùng của trận chiến. Anh đă gọi
vang lên trên chiếc ống liên hợp của máy
truyền tin PRC 25. "Bốn mươi lăm, bốn
mươi lăm, đây Hải Âu gọi. Bốn lăm,
Bốn lăm, đây Hải Âu gọi. " Tôi đáp
:" Bốn lăm tôi nghe đây. Hải Âu có ǵ
cho" Tôi đang h́-hục chuyển quân di tản;
giọng bên kia đáp lời, Thẩm quyền ơi, tôi
bị cụt cả hai chân. Thôi thẩm quyền và anh
em ra đi b́nh an, tôi xin chào vĩnh biệt."
Cuộc rút quân vội vàng, khủng hoảng làm tôi
khủng hoảng thêm. Đêm hoang dă, đêm tịch liêu,
đêm đă bao trùm vùng đất tử thần
chiến địa. Tôi cùng đơn vị không
thể trở lại cứu Tài, v́ đoạn
đường xa 8 cây số trong rừng, mà rồi ai
khiêng, và khiêng về đâu khi ta không c̣n bệnh
viện. Rồi
từ đó, lời cuối cùng, cũng là lời trăn-trối
của một chiến-sĩ, một người
bạn, một đàn em, Thiếu úy Nguyễn văn Tài
vẫn vang vọng trong tôi. Tôi vẫn thắc-mắc
sao ḿnh không làm ǵ để cứu Tài lúc ấy và bây
giờ...Tài, người sĩ quan pháo binh trẻ
tuổi của Quân Lực Việt-Nam Cọng-Ḥa, người
chiến sĩ anh dũng đă từng đi bên
cạnh chúng tôi trong các chuyến tiền sát pháo binh.
Anh đă nằm lại trên đồi Thanh An, bên
cỏ dại, lau sậy , núi rừng, ôm trọn
niềm cô đơn đời người chiến sĩ.
Không biết nơi núi rừng trùng-trùng, điệp-điệp
của Tây Nguyên anh đă nằm yên hay c̣n
nức-nở. Khi
những sáng mai với những cơn lạnh trở
về, dù là hạ, dù là thu hay đông nơi vùng
trời xa xôi Bắc Mỹ và trong sự im-ắng này tôi
càng nhớ đến anh, đến bạn bè của cái
thuở nơi chiến hào lửa đạn. Tôi không
thể nào quên được những ngày của
tuổi thnh xuân, của "bầy nai tơ nhóm hội
nẻo đường biên khu" đó. Dù những ngày
cực nhọc, hiễm nguy, mưa cao nguyên ướt
sủng, những chiếc áo trận tây-di, những
đôi giày 'sô" chúng ḿnh b́-bỏm nước. Trong
những đêm hành quân tối om rừng đêm
u-tịch. Hay những sớm mai sau trận tấn công
của địch quân khói đạn mịt mờ. Dù
những ngày trong núi rừng hay bên sườn đồi
hiu quạnh ấy tôi vẫn c̣n có anh, có bạn bè, có
đoàn quân và đi theo lư tưởng. Rồi thời
gian trôi qua, mộng vỡ b́nh tan, những nghiệt
ngả đổ ập lên chúng ta. Rồi tù tội,
rồi lang-thang đứa chốn này , đứa nơi
khác. Anh , tôi, bạn bè mỗi người một
ngả. Anh
Quy ơi, bạn bè chúng ta c̣n nhiều đằng sau,
đứa mù ḷa, đứa què cụt, đứa lê-la
đầu đường cuối chợ thảm thương.
Đứa đă hy sinh vĩnh viễn đi vào ḷng
đất mẹ. Ngày trong tù cải tạo anh cùng tôi
đă từng tâm sự với nhau, "Chúng ta sẽ
phải làm một điều ǵ cho họ !" Lá thư
này đến với anh tôi muốn hỏi , " Bao lâu
nay rồi nơi khung trời Bắc Mỹ anh đă làm
được ǵ hay chưa ?" Riêng tôi vẫn chưa
làm được một điều ǵ hữu ích, người
lữ hành năm xưa, vẫn âm-thầm bước cô
đơn và nhớ về bạn bè, nhớ về
những kỷ niệm xưa trong tủi hờn, cay
đắng. Thân
ái .
|