Thiên Nga Có Đàn Có Đôi |
Lời người
chuyển bài: Bài
viết của một nhà giáo với tiếng Việt
tuyệt vời sẽ làm độc giả đẫm
lệ khi kể về cuộc đời truân chuyên 13 năm
tù tội của một nữ sĩ quan Cảnh Sát
Đặc Biệt: Thiếu Tá Nguyễn Thanh Thủy -
Biệt Đội Trưởng Biệt Đội Thiên
Nga:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi Đọc để thương cảm cho một cánh hồng trước cơn băo tố để chúng ta cùng nhớ về Tháng Tư Đen 42 năm về trước. CĐ Lợi Thanh Thủy theo học tại Viện Đại Học Đà Lạt, 1964-1965. Hoài
niệm về một tháng Tư năm nào luôn nặng
trĩu những ngậm ngùi. Kư ức của người
kể khởi nhớ thị xă Mỹ Tho, nơi cô
sống với tuổi thơ trôi êm đềm bên gịng
sông Tiền. Ngày
đó, Thanh Thủy thi đậu có hạng vô lớp
Đệ Thất nên được nhận học
bổng suốt thời gian theo học trường Trung
Học Nguyễn Đ́nh Chiểu, tiền thân là Collège
de My Tho, một trong những ngôi trường trung
học lâu đời nhất của Việt Nam. Nhưng
cô học ở đó chỉ hai năm. Sau
khi trường Nữ Trung Học được xây
dựng, các nữ sinh của trường Trung Học
Nguyễn Đ́nh Chiểu được chuyển sang
ngay khóa đầu tiên, năm học 1957-1958. Từ
đó trường Nguyễn Đ́nh Chiểu chỉ dành
riêng cho nam sinh cho đến năm 1975. Thanh
Thủy bắt đầu làm quen với ngôi trường
Nữ Trung Học mang tên công chúa Lê Ngọc Hân.
Hồi tưởng lại, trí cô c̣n đậm nét h́nh
ảnh ngôi trường ẩn ḿnh dưới những
hàng me trên con đường Ngô Quyền, bước
qua cổng trường là thấy phượng vĩ
nở đỏ rực sau cơn mưa tháng năm. Tốt
nghiệp Tú Tài II, Thanh Thủy thi đậu Đại
Học Dược Khoa theo ước muốn của ba cô.
Không bao lâu các thầy dạy khuyên Thanh Thủy nên
chuyển ngành học do cô bị viêm xoang mũi quá
nặng, không thể hoàn tất phần thực tập
v́ phải tiếp xúc với nhiều hóa chất. Anh
Hai của cô lúc đó đang theo học Chính Trị
Kinh Doanh ở bên Pháp hướng dẫn cô chọn cùng
ngành như anh. Cô ghi danh tại Viện Đại
Học Đà Lạt, đồng thời cũng theo
học luôn Sư Phạm Công Giáo. Đối với dân
miền tây như Thanh Thủy, khí hậu Đà Lạt
quá lạnh. Ngoài viêm xoang mũi, cô c̣n bị bệnh
thống phong. Dù có xe đưa rước đến
tận cửa lớp nhưng cô vẫn đi đứng
khó khăn, phải bỏ học ngang về Sài G̣n
chữa trị. Cùng
năm đó Học Viện Cảnh Sát lần đầu
tiên mở khóa đào tạo nữ cảnh sát. Một
anh bạn học cũ đang làm cảnh sát thấy thông
tin niêm yết liền báo cho Thanh Thủy biết. Cô
dự thi để cốt ư được theo học
ở nơi có khí hậu ấm áp thích hợp cho
sức khỏe mặc dù bản thân chưa rơ nghề
Biên Tập Viên Cảnh Sát sắp tới của cô
sẽ làm công việc cụ thể ra sao.Số lượng
thí sinh ghi danh đông nhưng Học Viện chỉ
tuyển số ít. Bài thi của cô đạt điểm
xuất sắc, sau này các thầy nhắc lại và
hỏi th́ Thanh Thủy cho biết nội dung thi tập
trung vào đề tài chính trị mà cô đă từng
học ở Đà Lạt nên cô làm bài hết sức
tự tin và vững vàng. Trúng
tuyển vô ngành là một chuyện. Trải qua thời
gian huấn luyện cam go và vượt hết các ṿng
sát hạch đầy thử thách lại là một
chuyện khác. Nếu nói đây là khóa đầu tiên
và cũng là khóa duy nhất đào tạo chính qui
nữ cảnh sát th́ không sai bởi v́ sau đó
Cảnh Sát Quốc Gia chỉ tuyển thành phần
đào tạo ngắn hạn mà thôi. Kết quả cho
thấy 18 cô Biên Tập Viên có bằng cấp Tú Tài II
cùng 30 cô Thẩm Sát Viên với Tú Tài I được
công nhận tốt nghiệp. Thanh Thủy được
bổ nhiệm về làm việc tại Khối Đặc
Biệt. Tháng
8 năm 1968, Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia
quyết định thành lập Biệt Đội Thiên
Nga chỉ gồm các nữ nhân viên nhằm đáp
ứng nhu cầu t́nh báo trên toàn lănh thổ miền
Nam. Thanh Thủy được chỉ định làm
Biệt Đội Trưởng cho đến ngày Sài G̣n
thất thủ. Năm
1973 Mỹ rút quân. Họ có kế hoạch cho đàn
Thiên Nga vỗ cánh: các cô tốt nghiệp từ
Học Viện Cảnh Sát với cấp bậc sĩ
quan có tên trong danh sách đưa sang Mỹ. Hạ sĩ
quan phải ở lại. Thanh Thủy đă phần nào
dự cảm chánh biến sẽ xảy ra nhưng
chỉ chưa biết chính xác lúc nào mà thôi. Vào
thời điểm Tháng Tư Đen một chín bảy
lăm, Thanh Thủy trằn trọc mất ngủ
cả tháng. Hạ sĩ quan không được bốc
đi th́ các hồ sơ lưu với đầy đủ
mật danh và ám số ắt gây nguy hiểm cho họ.
Họ gồm đủ thành phần: hồi chánh viên,
cộng tác viên, mật báo viên. Họ c̣n là những
sinh viên, học sinh, phụ nữ có con nhỏ. Khi
nghe tin tức dồn dập rằng vị Tư
Lệnh và vị Trưởng Khối Đặc
Biệt đă rời nhiệm sở, Thanh Thủy hít
một hơi dài, mím môi, tự động quyết
định. Đôi cánh đầu đàn không đủ
rộng để che chở tất cả th́ ít ra cô
phải tận dụng khả năng của ḿnh để
giữ an toàn cho cả đàn Thiên Nga. Đó
là những ngày cùng tháng tận. Thanh Thủy không liên
lạc được với tài xế để
đưa cô đến sở làm. Cô nhờ chồng
chở xe gắn máy đến gần Bộ Tư
Lệnh, cô đi bộ vào sở c̣n anh qua trường
Sư Phạm ngồi chờ. Thanh Thủy được
cấp một thẻ ưu tiên ra vào Khối Đặc
Biệt bất cứ lúc nào. Tự tay cô soạn, và cũng
chính tay cô hủy hồ sơ để bảo đảm
rằng không hồ sơ nào bị sót lại. Đối
với các chị em đă được đưa ra
ngoài để làm việc tại các cơ sở khác,
Thanh Thủy trấn an rằng họ cứ làm việc
b́nh thường v́ cô đă lo mọi chuyện chu toàn.
Ngoài ra, cô vẫn giữ bí mật, không hề thổ
lộ với ai rằng ḿnh đă hủy hồ sơ. Giữ
bí mật là nguyên tắc bắt buộc của ngành t́nh
báo. Ngay chính người bạn đời trăm năm
thân thiết của Thanh Thủy cũng không hề
biết vợ ḿnh là Thiên Nga đầu đàn. Việt
Cộng muốn ám sát cô nhiều lần nhưng không t́m
ra đúng người. Sau những lần đụng
địch, tài liệu của phía địch bị
tịch thu cho thấy chúng đă biết đàn Thiên
Nga hoạt động nhưng chưa nhận diện
được cụ thể người nào v́ các Thiên
Nga tuổi trạc như nhau, vừa tầm nhau. Thanh
Thủy ít khi đi một ḿnh. Cô vô cửa này mà
đi ra cửa khác. Đi làm cô mặc thường
phục, đôi khi ngụy thức, tức hóa trang đủ
mọi thành phần, nên hành tung khó đoán. Chiều
30 tháng Tư, chúng theo dơi nhưng t́m nhà không ra v́
đường hẻm khó kiếm. Đôi bạn Long-Thanh Thủy trước cổng Trường Vơ Bị Quốc Gia Đà Lạt, 1967. Ngay
từ ngày 1 tháng 5, chúng đă tống đạt
giấy triệu tập tŕnh diện trong khi Thanh
Thủy đưa con gái bị sốt cao đi bác sĩ.
Chồng ở nhà nhận giấy triệu tập
chuyển lại cho vợ. Giấy tờ nêu đích
danh Nguyễn Thanh Thủy, Thiếu tá Biệt Đội
Trưởng T́nh Báo Thiên Nga. Anh chưng hửng.
Lần đầu tiên anh đọc thấy cái tên
Biệt Đội Thiên Nga. Anh nói ngay khi vợ về
đến nhà: -
Hồi sáng có thằng công an xuống đưa cái
giấy triệu tập em. -
Làm ǵ có! -
Anh đọc rành rành đây mà. Chồng
của Thanh Thủy đi từ chưng hửng này
đến chưng hửng khác... “Chưng
hửng kể từ lần đầu biết cổ
lận!” Anh nhắc nhớ kỷ niệm với
những lời tŕu mến. Chưng hửng v́ cô đă
hớp hồn anh từ giây phút mới gặp. Chưng
hửng v́ cô duyên dáng, mặn mà. Ngay đến
giờ này sống bên cô, anh vẫn chưa hết chưng
hửng v́ người bạn đời của anh lúc
nào cũng đằm thắm.Trong lúc chồng c̣n
bồi hồi với kư ức năm xưa th́ vợ
nối lời: “Ảnh nghĩ cưới một cô giáo
chớ đâu có nghĩ cưới cô cảnh sát đâu!”
Để rồi tiếng cười ṛn ră tiếp theo
sau: “Nếu biết sớm chắc ảnh xuống tàu
đi mất luôn.” Ngày
đó, Lê Thành Long, chàng trai quê ở Cần Giuộc,
Long An, tốt nghiệp khóa 13 Thủ Đức,
biệt phái về Năm Căn, Cà Mau để góp tay
thực hiện công tác b́nh định gom dân lập
ấp. Lần đầu tiên Long về phép, chiếc xe
đ̣ đưa anh từ Bạc Liêu ghé qua Cần Thơ
đón thêm khách trước khi về Sài G̣n. Trước
đó Thanh Thủy xuống Cần Thơ thăm người
bạn. Vào ngày Long đáp chuyến xe về phép, Thanh
Thủy ra bến xe Cần Thơ mua vé về lại Sài
G̣n. Bước lên xe, chiếc ghế trống bên
cạnh Long được Thanh Thủy t́nh cờ
chọn ngồi. Tưởng chỉ là cuộc
chuyện tṛ đặng quên quăng đường dài,
đặng rút ngắn thời gian chờ qua hai bến
phà sông Hậu và sông Tiền, có ngờ đâu cú sét
ái t́nh đánh trúng chàng Long trong chuyến xe đ̣ duyên
phận này. Thời
xưa con gái giữ ư lắm, không đường
đột đưa tên tuổi ḿnh cho người
mới quen huống hồ là địa chỉ. Vừa
xuống xe đ̣, Thanh Thủy xăm xăm đón
tắc-xi về thẳng nhà. Có biết đâu khi
chiếc xe đ̣ chở hai người vừa cập
bến xe Chợ Lớn th́ Long đón ngay chiếc
tắc-xi khác chạy theo chiếc tắc-xi chở Thanh
Thủy tận đến con hẻm dẫn vô nhà cô. Qua
hôm sau Long đến đúng chỗ, nói kiếm cô em
trong cái nhà này. Ông anh tưởng là bạn của em gái,
xăng xái mời vô. T́nh cảm đôi bên được
dịp bắc cầu. Khi
Long hoàn tất khóa học Chỉ Huy Tham Mưu Trung
Cấp tại Đà Lạt, anh được trường
Vơ Bị tuyển chọn làm Trưởng Ban Nghi
Lễ. Đối với sĩ quan độc thân như
Long, Trường Vơ Bị dành cho anh chỗ ở
tại Khách Sạn Thủy Tiên 2, đối diện
với Đại Học Xá Đà Lạt nơi Thanh
Thủy theo học. Những thắng cảnh thơ
mộng của Đà Lạt là nơi ḥ hẹn của
đôi uyên ương trước khi đi đến hôn
nhân. Lấy
nhau xong,chồng vẫn đóng tại Đà Lạt c̣n
vợ làm việc tại Sài G̣n. Lâu lâu anh về phép
không báo trước. Đôi khi, trong những lần
bất ngờ đó Thanh Thủy phải đi kích
đêm. Thường th́ cô để đồ dă
chiến ở trong sở, vô đó mới thay đổi
quân phục rồi ra đi với lính có súng ống
hẳn ḥi vào mật khu. Gặp lúc chồng về phép
không báo trước, Thanh Thủy đành nói: “Cho em
đi. Mới có lệnh công tác. Giới nghiêm em về
tới.” Long
biết vợ làm việc ở Bộ Tư Lệnh
Cảnh Sát, ngoài ra không biết ǵ hơn. Tin tưởng
vợ là đủ. Tài
xế lái chiếc xe mang số ẩn tế, tức
loại bảng số dành cho mục đích công
vụ, đến đón vợ Long đi. Công tác xong cô
trở lại sở thay quần áo, lính lái xe đưa
về nhà. Xe ngang qua ngă sáu bùng binh Chợ Lớn, cô nói
với lính: -
Cho tui xuống đây đi rồi chú lái trở
lại Bộ Tư Lệnh cất xe. Ông xă tui chơ
đằng kia. -
Sao chị hay vậy? -
Chớ sao nữa! Quả
nhiên ở đằng quán sinh tố, anh Long đang
thấp thỏm, thấy vợ xuất hiện th́
mới an ḷng. Anh chỉ hỏi: -
Em làm ǵ mà khuya lắc khuya lơ mới về tới? Vợ
đáp gọn lỏn: -
Em công tác ở Củ Chi mới về. Vậy
là thôi. Không hỏi tới nữa. Từ
ngày 1 tháng 5 năm 1975 cho đến lúc Thanh Thủy chính
thức đi tù cải tạo, Việt Cộng liên
tục đến nhà xét hỏi, lục soát giấy
tờ, đập phá nền nhà để đào
bới xem cô có chôn dấu hồ sơ tài liệu
về Biệt Đội Thiên Nga hay không. Mỗi ngày cô
phải vào Khối Đặc Biệt tŕnh diện. Cô
bị kết tội trụ tại một chức
vụ liên tục 10 năm nên chắc chắn nắm
rất rơ nội dung công việc; tội thứ hai la
ắt hẳn cô thấm nhuần lư tưởng
Việt Nam Cộng Ḥa nên mới gia nhập quân ngũ
cùng nam giới trong khi phái nữ không bị bắt
buộc động viên. Chưa kể cô bị qui
kết là có cấp bậc Trung tá. Thực sự, sau này
gặp lại vị chỉ huy cũ ở bên Mỹ, cô
mới biết được rằng giấy bổ
nhiệm thăng cấp Trung tá cho cô đă về
tới nhưng Sở c̣n chờ đến 1 tháng 6 năm
đó, Ngày Truyền Thống Cảnh Sát Quốc Gia,
mới gắn lon. Ngoài
Thanh Thủy với cấp bậc Thiếu tá Cảnh Sát
Trưởng Biệt Đội Thiên Nga của Khối
Đặc Biệt, các anh em trong gia đ́nh của cô
lần lượt đi tù cải tạo: anh Ba là Trung
úy Công Binh, anh Tư tốt nghiệp Vơ Bị khóa 20 là
Đại úy Bộ Binh Sư Đoàn 7. Cậu Sáu em
trai Thanh Thủy tốt nghiệp Vơ Bị khóa 22 là
Thiếu úy đă trở thành thương phế binh
trong trận đụng địch trước năm
1975. Tuy cậu Sáu không bị vướng tù cải
tạo nhưng sau đó bị bắt giam không lư do. Ngày
ngày vợ cậu phải đem cơm nuôi tù và
cậu chỉ được thả khi bị buộc kư
giấy giao cho chính quyền cộng sản căn nhà
nhỏ trong hẻm mà vợ chồng Thanh Thủy và
vợ chồng cậu đang ở chung. Phía
bên Long cũng chịu kiếp nạn tương
tự. Chồng của chị Hai là Thiếu tá làm
việc tại Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung,
chồng của chị Ba là Đại úy đóng
tại Trung Tâm Truyền Tin Viễn Địa; Long là
Đại úy Bộ Binh Sư Đoàn 21, chú Sáu em trai
Long là Đại úy Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn
3/15 Sư Đoàn 9 bị bắt làm tù binh ngay năm
1972 và giải đi tận Yên Bái, tù chục năm có
dư. Mỗi
gia đ́nh có bốn người trong quân ngũ. Hai
lần bốn là tám, vị chi hai bên sui gia có tám người
ở tù: con ruột, con rể, và con dâu. Nữ tù nhân
Thanh Thủy lại là người ở tù lâu năm
nhất, bóc đến 13 quyển lịch đời.
Hai ông sui gia, từng là bạn đồng môn Sư
Phạm Sài G̣n khi xưa, vào thời điểm đó
trở thành hai ông giáo già ngậm ngùi chia sẻ
nỗi đau thời cuộc để rồi không bao
lâu lần lượt qua đời. Ông thân sinh của
Long đổ bệnh mà chết chỉ vài tháng sau ngày
mất miền Nam. Tư-thục
Thủ-Khoa tại thị xă Mỹ Tho do thầy giáo
Nguyễn Ngọc Phái, thân sinh của Thanh Thủy, thành
lập và là hiệu trưởng từ đầu
thập niên 60 đến ngày mất miền Nam,bị
cộng sản tịch thu. Chúng đ̣i chiếm luôn căn
nhà ba gian mà hai vợ chồng ông, mấy đứa
con, cùng đàn cháu dại đang tạm sống qua ngày.
Ông thường xuyên bị kêu hỏi, hăm dọa,
khó dễ. Đến ngày nhắm mắt ĺa đời
ông vẫn không hề biết con gái ḿnh làm việc ǵ
cụ thể trong ngành Cảnh Sát. Học
tṛ của ông rất đông, đi tù cải tạo cũng
nhiều. Ngày trở ra tù, họ đến thăm ông
và hỏi: “Thầy có biết con gái Thầy làm ǵ không?”.
Nghe mà bần thần, ông hỏi tới. Họ chỉ
kết luận: “Con gái Thầy đi không biết khi nào
mới về được” để rồi
thấy ông nh́n trân trân vào khoảng không trước
mặt, lặng im. Người
cha già ngày một sinh bệnh cho đến lúc từ
biệt cơi trần vẫn c̣n khắc khoải rằng
con gái yêu của ông đă làm ǵ mà chịu tù tội
đọa đày đến thân tàn ma dại. Vợ
chồng Long và Thanh Thủy đi tù cải tạo
mỗi người một ngả. Ba đứa con thơ
sắp lớp: bảy tuổi, sáu tuổi, và đứa
nhỏ nhất chưa đầy bốn tuổi mà trong
đó hai đứa bệnh tật, sớm chịu
phận côi cút theo d́ Tám về nương náu bên
ngoại. Long
ra khỏi trại tù cải tạo ở Suối Máu năm
1981. Anh khiếu nại lấy lại căn nhà bị
tịch thu th́ nhận câu trả lời: “Nhà anh nay công
an ở rồi, anh phải ngủ ở trước
cửa thôi.” Nương náu tại nhà chị, nhà em
của Long cũng không đặng v́ cứ nửa
đêm là gia chủ bị đập cửa hoạch
họe kiểm tra hộ khẩu. Long đành về quê
làm ruộng kiếm sống qua ngày. Tư-thục
Thủ-Khoa tại Mỹ Tho. Lần
đầu tiên Long đi thăm nuôi vợ tại
trại tù Long Thành, ngay lúc Thanh Thủy đang bị
kỷ luật rút phép thăm nuôi sáu tháng. Năn
nỉ cách mấy đều không được, Long
đành gửi lại túi đồ thăm nuôi rồi
ra về mà buồn tê tái. Phải đợi đến
khi Thanh Thủy chuyển sang trại tù khác th́ Long
mới gặp lại vợ ḿnh, tính ra đă hơn
bảy năm xa cách.Tâm cang anh chết lặng v́ không
thể mường tượng người nữ tù nhân
c̣m cơi, hốc hác đang đứng trước
mặt lại là người vợ thân yêu của ḿnh.
Bản thân từng trải qua sáu năm tù đày nên
Long càng thấu hiểu sự t́nh, ḷng đau đớn
khôn nguôi. Ngoài
vô số lần biệt giam lẻ tẻ, Thanh Thủy là
nữ tù nhân duy nhất bị chuyển đến
trại giam Thủ Đức để chịu cảnh
biệt giam hơn một năm: bị cô lập hoàn toàn,
ăn uống thiếu thốn, cán bộ chấp pháp luân
phiên hỏi cung ngày đêm nên cô phải đấu trí
liên tục để bảo mật cho Biệt Đội
Thiên Nga. Tên Đại tá chấp pháp đă nhiều
lần nổi dóa, đập bàn la hét: “Bản tự
khai của chị viết cả ngh́n trang rồi mà
nội dung cứ lửng lơ con cá vàng nghĩa là
sao?” Đau yếu quặt quẹo, cô chỉ có
thể trườn ḅ khi di chuyển v́ không đủ
sức mà đứng lên đi lại dù chỉ là
một đoạn ngắn từ chỗ bị giam đến
nhà vệ sinh. Đôi
lần tưởng rằng tử thần đă đem
cô đi. Lần đó, cơn sốt rét rừng ác tính
ở Hàm Tân khiến cô rét run vật vă. Một
bạn tù là bác sĩ Quân Y gom góp thuốc từ các
anh em tù để giúp cô cắt cơn. Lần khác th́
bao tử cô bị xuất huyết trầm trọng. Lúc
đó vào khoảng giữa năm tù thứ 13, bao
tử của cô không c̣n nghiền nổi bo bo và các lát
khoai ḿ mốc meo khô khốc được nữa. Nhưng
không ăn th́ chết đói nên đành phải
đưa các thứ khó tiêu hóa đó vô miệng
ngậm cho mềm rồi nuốt trệu trạo.
Một bạn tù khác làm đội trưởng nhà
bếp thấy tội nghiệp mỗi ngày sớt cho
một “gô” (các tù nhân gọi tắt cho loại lon
đựng sữa bột Guigoz) nước cơm
chắt để cô uống cầm cự. Vậy
chớ hai hàm răng để đâu mà sao không
tiếp sức cho bao tử? Xin thưa: hàm răng trên
đă mất hết, hàm dưới c̣n vài cái răng
trồi sụt, làm sao mà nhai? Nướu tụt, lở
loét v́ những chiếc răng đau được
nhổ bởi cái xà beng được chế tác
từ cái muỗng kim loại mà tù h́nh sự quăng lén
cho mượn. Cái dụng cụ thô sơ đó
được sát trùng bằng cách nhúng vào nước
nấu sôi rồi đưa vô miệng nạy, nhổ
răng. Đau chết ngất. Máu chảy ṛng khó
kềm. Người
cùng quê đi thăm nuôi người nhà của họ
khi trở về ái ngại nhắn với gia đ́nh cô: -
Phải lo thăm nuôi chỉ đi v́ chỉ bị
xuất huyết bao tử nặng lắm rồi,c̣n không
th́ chỉ chết. Thanh
Thủy chẳng hề dám trông đợi thăm nuôi.
Thăm tù đă là chuyện khó mà nuôi tù lại là
chuyện xa xỉ đối với hai bên nội
ngoại của các con. D́ Tám tụi nhỏ bậm môi
cố không khóc để nói với chị ḿnh: “Em thăm
chị kỳ này chớ lần sau em không thể thăm
được nữa. Chắc chị không h́nh dung
nổi nhà ḿnh nghèo cỡ nào đâu!” Thơ
của d́ Út cô gửi vô cho biết khi đến chúc
Tết ba mẹ cô chỉ thấy ông bà ăn chuối
chấm muối tiêu thay cơm. C̣n gia đ́nh bên Long
trồng củ cải đem bán nên quà thăm nuôi cô
thường là củ cải phơi khô ngâm nước
mắm, kế đến là món muối sả, may
mắn lắm mới có thêm bịch đường cát.
Kiếm tiền mua vé xe cho mấy đứa con để
lâu lâu chúng được gặp mẹ là điều
ráng hết sức của người chồng rồi. Sau
này có người hỏi Long: “Thời đó các bà
đi thăm nuôi chồng tù cải tạo chớ có
nghe nói chồng đi thăm nuôi vợ đâu?” th́
nhận nụ cười hiền ḥa đáp lại:
“Người ta ca ngợi những cánh c̣ lặn
lội thăm chồng th́ đúng rồi nhưng tui cũng
cực khổ không thua ǵ các bà hết! Cảnh gà
trống thăm vợ chăm con ngậm ngùi lắm
đa.” Sang
năm tù thứ 13, Thanh Thủy lao động khổ
sai tại xưởng may. Trại tù kư hợp đồng
may quần áo lạnh xuất khẩu sang các nước
xă hội chủ nghĩa ở Đông Âu, buộc tù nhân
may theo chỉ tiêu bằng với tốc độ máy
may công nghiệp trong khi họ phải làm việc
với những chiếc máy may cà rịch cà tang.
Gần đến ngày giao hàng, tù nhân phải ăn,
ngủ ngay chỗ làm việc để hoàn tất
sản phẩm. Đến khi những chiếc xe
chở hàng đến lấy xong xuôi th́ các tù nhân
đều vật ra ngủ tại chỗ, không thể
về trại nổi. Cán
bộ coi tù thấy Thanh Thủy sau giờ lao động
hoặc trong giờ nghỉ giải lao đều
cặm cụi ngồi may tay những miếng vải
vụn thành quần áo gửi về cho các con, đă
phải động ḷng mà thốt: “Ở đây có bà
mẹ giờ này vẫn c̣n nhớ tới con.”
Thậm chí, cô c̣n nhắn gia đ́nh mua lại
những áo len cũ gửi vào để cô gỡ ra
từng sợi đan lại thành áo chờ gặp
dịp nhờ người thăm nuôi cùng quê đem
về đưa cho em gái bán lấy tiền mua thức
ăn cho các con. Một
ngày kia, một người khách từ Bộ Nội
Vụ ghé thăm nhà tù: -
Chị này bịnh ǵ mà nằm đây? Trại
trưởng đáp lại: -
Báo cáo đồng chí: chị hai này bịnh nặng
lắm rồi. Tui đề nghị nhiều lần
rồi sao không thấy cho về. Để chỉ
chết ở đây ḿnh mang tiếng. Người
khách đi trở lên, yêu cầu lấy hồ sơ ra
coi, xét thấy nhân thân Nguyễn Thanh Thủy không vi
phạm điều ǵ nên kư giấy cho về trong
số những tù nhân bịnh nặng. Quán
Thiên Nga nhắc nhớ h́nh ảnh Biệt Đội
Thiên Nga thời chiến. Không
c̣n bộ đồ nào khác, Thanh Thủy đành
mặc bộ đồ tù bước ra khỏi
trại tù Z30–D Hàm Tân, Thuận Hải. Hai bên túi áo tù
c̣n nhét hai chiếc bao tay may ráp bởi những rẻo
vải vụn. Đôi bao tay được dùng để
nhổ cỏ ngoài giờ lao động khổ sai
tại xưởng may. Kêu về mà có phát giấy ra
trại đâu! Khi xe tù đưa về Sài G̣n làm
thủ tục tại quận Nh́, cô c̣n bị phỏng
vấn cắc cớ: -
Bà được Mỹ can thiệp hay chánh phủ nhà
nước cho về? Là
người sau cùng bước khỏi nơi làm
thủ tục ra tù, Thanh Thủy c̣n đang phân vân: nhà
cửa không c̣n mà hộ khẩu cũng chẳng có,
bất ngờ cô nghe tiếng gọi. Vợ chồng
cậu Sáu đọc báo thấy có đợt thả tù
nhân bèn chạy đến t́m cầu may, nào ngờ
gặp được chị ḿnh. Từ quê, anh Long
được nhắn tin. Vợ chồng gặp nhau
mừng mừng tủi tủi, đưa nhau về
ngoại gặp các con. Lúc đó, hai đứa con gái dù
bệnh tật cũng gắng sức phụ d́ Tám và bà
ngoại se cói kiếm cơm. Con trai đi làm công
lột vỏ dừa cho người ta, bữa đói
bữa no. Vợ
chồng gắng trụ lại Sài G̣n mở quán
vỉa hè lây lất nuôi gia đ́nh, chia sẻ cùng nhau
bao gian truân cho đến ngày sang Mỹ theo diện
tỵ nạn chính trị. Bước đầu định
cư nơi xứ người, gia đ́nh Long và Thanh
Thủy cũng trải qua những tháng năm vất
vả như bao người Việt tỵ nạn khác
nhưng cả nhà được sum họp, yên ổn,
không bị xách nhiễu. Quán bán thức ăn nhanh mà
vợ chồng Long và Thanh Thủy duy tŕ được
bảy năm mang tên Thiên Nga để nhắc nhớ h́nh
ảnh Biệt Đội Thiên Nga thời chiến đă
thầm lặng góp cánh bảo vệ đất nước
Việt Nam Cộng Ḥa và sắt son giữ vững lư tưởng. Ngồi
kể lại mà nước mắt Thanh Thủy lăn dài.
Cô hănh diện về đàn Thiên Nga trong cảnh tù
đày: các chị em rất thương yêu và đùm
bọc cho nhau. Dù Biệt Đội Trưởng đă
ngầm dặn rằng chị em Thiên Nga cứ đổ
hết trách nhiệm cho cô nhưng các cộng sự không
hề làm vậy, họ khai báo ngắn gọn và
giữ y lời khai. Ra tù cô đạp xe kiếm thăm
các chị em Thiên Nga nhưng hầu hết đă
hồi hương hoặc cải đổi danh tánh nên
không biết t́m đâu mà gặp lại. Đàn Thiên
Nga tan tác. Nếu tính tuổi đời, các Thiên Nga
hiện nay hầu hết đă mỏi cánh.Từ ngày
sang Mỹ nếu liên lạc được với Thiên
Nga nào c̣n ở lại Việt Nam mà biết họ
cần giúp đỡ, Thanh Thủy không bao giờ đợi
họ phải nói đến lần thứ hai, vấn
đề chỉ là giúp được bao nhiêu thôi
chớ cô chưa hề từ chối. Huyền
thoại kể rằng vào lúc cuối đời,
những con Thiên Nga vốn chỉ im lặng sẽ
cất tiếng hót ngọt ngào. Cô đàn trưởng
Thiên Nga giờ đây chỉ muốn nói lên tiếng ḷng
rằng trong suốt bao nhiêu năm nay cô luôn nhớ
đến các Thiên Nga cộng sự, ao ước
gặp đông đủ các chị em một lần
cuối. Mong lắm thay! Thiên
Nga, loài thủy cầm quyến rũ, c̣n là một
trong những biểu tượng của t́nh yêu và ḷng
chung thủy v́ tập tính kết đôi suốt đời.
Con trống luôn đi sau bảo vệ và dơi theo con mái,
c̣n con mái thường âu yếm quay đầu về
phía con trống. Cặp đôi Long và Thanh Thủy
từ lúc kết duyên đến nay hiểu rằng trái
tim họ thuộc về nhau dù có lúc phải chia xa
bởi các bước ngoặt lớn nhỏ khác nhau
trong đời mỗi người. Tuổi già kèm theo
bệnh tật là điều không tránh khỏi,
nhất là từ hệ lụy của những năm tháng
đọa đày. Ông từng được chữa
trị ung thư máu. Từ khi cô con gái đầu ḷng
của ông bà qua đời sau những chống chọi
với căn bệnh, bà đă trải qua thời gian dài
trầm cảm, rồi phải cắt bỏ khối u,
nay lại cao máu, cao mỡ, tiểu đường
nặng, đau bao tử kinh niên,và phải đặt máy
trợ tim. Mắt bà mờ không phân biệt được
độ cao thấp nên bước hụt và té liên
tục nhưng luôn có ông một bên nắm tay dắt bà
đi. Ông
quan niệm: “Thương yêu nhau th́ phải giúp đỡ
nhau”.Đơn giản! Bà
nhắc nhở ông lịch hẹn khám bịnh, uống
thuốc; ông đi lâu chưa về tới là ngóng là
chờ. Chăm chút vậy thôi. Bà cũng có phần trăn
trở riêng ḿnh. Vẫn biết rằng Chúa thương
cho bà sống đến ngày hôm nay nhưng bà vẫn chưa
sẵn sàng ra đi khi Chúa gọi v́ bà mong được
ở bên những người thân yêu càng lâu càng
tốt, nhất là bên cô con gái út bệnh tật. Có
đàn có đôi. Thiên Nga muôn đời là thế! Orchid
Thanh Lê *
Chú thích của người viết: “ngụy
thức”, “kích đêm”, “ẩn tế” là
thuật ngữ dùng trong ngành Cảnh Sát Quốc Gia
Việt Nam Cộng Ḥa. |