Thương
Thuyền VIỆT NAM THƯƠNG TÍN I: Nhớ Lại
40 Năm trước Trần-Hậu-Khánh - Cựu Sĩ Quan Cơ Khí - VNTT1 |
Ngày
30 tháng 4 năm 1975, thương thuyền Việt Nam Thương
Tín 1 đang cập bến Sài G̣n, sau khi nghe lệnh
đầu hàng của Tổng Thống Dương văn
Minh, đă gấp rút rời kho 5 Khánh Hội, phải kéo
neo và chặt đứt dây cột tàu vào lúc 10:30 sáng,
mang theo 750 người tị nạn bất đắc dĩ,
dưới sự điều khiển của một
thủy thủ đoàn chỉ có 8 người thay v́ 45
trong t́nh trạng t́nh thường. Lúc đó, tôi là
một Sĩ Quan Cơ Khí cùng có nhiệm vụ
đưa con tàu ra khỏi sông Sài G̣n và cũng trong cùng
số phận với những người tị
nạn trên tàu. Sau
gần 40 năm, VNTT1 không c̣n nữa, những người
thủy thủ năm xưa cũng sống phân tán
đó đây, người ở hải ngoại, kẻ
ở Việt Nam, một số về hưu ở
tuổi xế chiều và một số đă qua đời.
Số 750 hành khách của ngày 30/4/1975 cũng
phân tán khắp nơi trên thế giới mà tôi không có
dịp tiếp xúc, một số khác t́nh nguyện
trở về Việt Nam với con tàu từ đảo
Guam vào tháng 10 năm 1975 v́ hoàn cảnh ly tan của gia
đ́nh lúc bấy giờ. Người viết v́ măi lo
đời sống trên quê hương thứ hai trong
suốt 40 năm qua nên không có dịp t́m kiếm hay ghi
lại những tin tức liên quan đến VNTT1 và măi
cho đến hôm nay, gần đến Tết năm
2015, mới có dịp gởi đến quí vị
những dữ kiện mà tôi được biết
về con tàu nầy 40 năm về trước. M/S
Việt Nam Thương Tín 1 Việt
Nam Thương Tín 1, chiếc tàu viễn dương đầu
tiên của Việt Nam Cộng Ḥa được mua
lại năm 1968, là sở hữu của Công Ty
Quốc Doanh Việt Nam Hàng Hải (Vietnam Marine Lines Co,
Inc), chi nhánh của Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín,
khởi hành từ Marseille, chạy ngang qua Tunisia, Marocco,
Cap de Bonne Espérence và Malaysia trước khi về đến
Sài G̣n. Thủy thủ đoàn lúc đó gồm
Thuyền Trưởng Hồ Đắc Tâm (đang là
Hoa tiêu sông Sài G̣n), Thuyền Phó Burel (Pháp), Sĩ Quan 1
Vơ Kiết Triệu, Sĩ Quan 2 Dương Tấn Kim
Sanh, Cơ Khí Trưởng Fabreguettes (Pháp), Cơ Khí Phó
Nguyễn Văn Tươi, Cơ Khí 3 Phùng Văn
Gạt, Cơ Khí 4 Nguyễn ngọc Chấn. Công Ty Việt Nam Hàng
Hải tọa lạc ở số 16-22 đường Tôn
thất Đạm, Sài G̣n, Tổng Giám Đốc là Ông
Dương Liên, Giám Đốc Kỷ Thuật là Ông Phùng
Lương Ngọc và cũng là Giám Đốc Trường
Việt Nam Hàng Hải, Giám Đốc Thương
Mại là Ông Lê Minh Đức và cũng là Giáo Sư
Trường Việt Nam Hàng Hải. Tàu VNTT1 được
đóng bởi Công Ty Fincantieri vào năm 1956 tại Ư, dài
148m, rộng 19m, vận tốc 14 hải lư, trọng
tải 10965 tấn. Tàu được trang bị
với 1 chân vịt (hélice), 1 máy chính 2 th́ FIAT 757 (moteur
principal à 2 temps), 3 máy phát điện (générateurs électriques
DC). Máy chính gồm 7 cylindres, đường kính
rộng 0.75m, di chuyển (course) của piston 1.3m, có công
suất tổng cộng khoảng 5500CV.
Hải tŕnh thường xuyên của VNTT1 khởi hành
từ Sài G̣n đến Phi Luật Tân và ghé qua
những hải cảng: Manila, Ilo Ilo, Pulau Pandan, Tolong, San
Fernando để lấy hàng (charge) đường
xuất cảng sang Hoa Kỳ và từ Hoa Kỳ, VNTT1 thường
ghé qua những bến như New York, Baltimore, Norfolk,
Jacksonville, New Orleans, Galveston, Corpus-Christy… để
nhận hàng như gạo, lúa ḿ, bắp chở về
Việt Nam. Những chuyến hải hành như thế
có thể kéo dài đến từ 4 đến 4.5 tháng
mới trở lại Sài G̣n. Đặc biệt, có
một chuyến dài hơn sáu tháng từ 25 Juin 1971
đến Janvier 1972 v́ công nhân cảng ở Mỹ
đ́nh công, tàu phải neo ở New Orleans trên sông
Mississippi 45 ngày. Với một thời gian dài như
thế ở New Orleans, không một thủy thủ nào mà
không biết đến con đường nổi
tiếng về đêm "Bourbon" lúc ấy, con
đường tấp nập phố xá "Canal" và
cây cầu dài nhất thế giới "Pont
Chartrain". Ngoài
những chuyến tàu đến Phi Luật Tân và Hoa
Kỳ, VNTT1 cũng đă có lần ghé những cảng
miền Trung như Qui Nhơn, Nha Trang, Đà Nẵng
để bốc hàng (decharge) gạo chở từ Sài G̣n
(1971). Tháng Hai 1971, sau khi bốc hàng ở Đà
Nẵng, tàu rời bến đi Hongkong vào ụ để
bảo tŕ trong thời gian khoảng một tháng.
Chuyến hải hành cuối cùng của VNTT1 khởi hành
từ Sài G̣n ngày 22 tháng Hai 1975 đi Phi Luật Tân
để chở đường đến Osaka và
Hakata (Nhật). Từ Hakata, theo dự định, tàu
sẽ chạy xuống Úc để lấy sữa
bột và bốc hàng ở Peru. Trên đường
xuống Úc, Thuyền Trưởng Vỏ Kiết
Triệu xin cho VNTT1 trở về Việt Nam v́ t́nh h́nh
sôi động ở miền Trung và cũng mong thủy
thủ đoàn có dịp về đoàn tụ với
gia đ́nh trong lúc dao động nầy. Măi đến
2 ngày sau khi được yêu cầu, vào lúc chuẩn
bị đón hoa tiêu để dẫn vào cảng Sydney,
VNTT1 nhận được chỉ thị từ công ty
phải trở về Sài G̣n gấp, lúc đó là ngày
10 tháng Tư 1975 ! Ngày 17 tháng Tư 1975 VNTT1 về đến
Sài G̣n, neo trên sông Sài G̣n và cột vào hai phao nổi bên
ngoài kho 5 và cảng Nhà Rồng. Sinh
hoạt trên tàu Việt Nam Thương Tín 1 Tôi
được nhận làm Sĩ Quan Học Viên Cơ Khí
(Élève Officier Mécanicien) từ ngày 1 tháng Giêng 1971, trước
bạn cùng khóa Bùi Hửu Hoàng (Pont 18) vài tháng (Mars
1971). Là những SQ Học Viên (Élève Officier) đầu
tiên trên một thương thuyền viển dương,
hai chúng tôi chân ướt, chân ráo, bở ngỡ trong
lối làm việc theo "régime français" nên thấy
ǵ cũng mới, cũng lạ ! Thủy
thủ đoàn gồm từ 42 đến 45 người,
14 Sĩ quan gồm Thuyền Trưởng, Cơ Khí Trưởng,
Sĩ Quan Boong và Máy, SQ Vô Tuyến và 2 SQ Học Viên. Thủy
thủ gồm có Cai Pont và Máy 1 và 2, Thợ Điện
1 và 2, Timonier, Matelot, người giữ kho, Thợ
Mộc, Chấm dầu, Phụ dịch máy, Đầu
bếp 1 và 2, phụ bếp, người giữ kho
thực phẩm, bhư kư và những bồi bàn (garçons).
Tàu có 4 pḥng ăn (carré), pḥng ăn Thuyền Trưởng
(carré Commandant) dành riêng cho Thuyền Trưởng,
Thuyền Phó và Cơ khí Trưởng, một người
bồi bàn đặc trách cho pḥng ăn nầy. Pḥng
ăn của Officiers (carré Officiers) được
phục dịch bởi 2 người bồi bàn. Hai pḥng
ăn ở pḥng dưới, một dành cho các Cai (carré
Maîtres), Đầu bếp và Maître Electricien và một dành
cho các thủy thủ c̣n lại (carré Equipage). Mỗi SQ
đều có pḥng ngủ và lavabo riêng trong khi phần
đông thủy thủ th́ 2 người ở một pḥng. Trong
vấn đề ăn uống, mỗi SQ được
2 chai bia mỗi ngày, thủy thủ được 2 chai
nước ngọt. Bữa ăn trưa, SQ được
phục vụ món ăn Tây, bữa ăn tối th́ dùng
món Việt. Hằng tuần, thứ Tư và Chủ
Nhật, bữa ăn trưa của SQ có thêm rượu
nho (vin) và những món ăn đặc biệt. Người
viết vẫn không quên những món ăn Tây trên tàu
VNTT1 và hay suy luận rằng: đầu bếp Việt
mà nấu món Tây cho người Việt th́ ngon hết
chỗ chê! Ngon thật, lúc bấy giờ! Mỗi tháng
một lần hay vào ngày lễ lộc, Quan Tàu mời
tất cả SQ đến pḥng ăn Thuyền Trưởng
ăn trưa, những buổi ăn trưa như
thế thường kéo dài đến 3 tiếng đồng
hồ! Theo thông lệ, để mừng ngày sinh
nhật của một SQ nào đó, khi tàu trên biển,
vị SQ đó phải khoản đăi tất cả SQ
khác 3 chai champagne. V́ theo truyền thống Hàng Hải Pháp,
nên mọi người đều chào nhau bằng
bằng tiếng Pháp "Bonjour", trước khi
ăn, chúc "Bon appétit" và nếu ăn xong,
muốn ra khỏi carré trước th́ cáo lỗi
"Bonne continuation". Về
giải trí, tàu VNTT1 có một thư viện nhỏ, bàn
ping pong, bàn babyfoot và máy chiếu phim. Film cinéma được thay đổi mỗi lần
tàu qua kênh đào Panama vào bến Cristobal. Cristobal,
một bến ghé của các tàu biển để
lấy thêm dầu, nước uống, thực phẩm
cũng như để nhận thư từ. Cristobal cũng
là nơi mà hầu hết những thủy thủ
khắp nơi trên thế giới gặp gở trong
một thời gian ngắn ngủi trong quán rượu
hay nơi "giải trí". Nơi đây, thủy
thủ tứ xứ đều có thể trao đổi
tin tức hay thông cảm nhau về ưu tư của
người đi biển, dù không cùng ngôn ngữ. Chúng
tôi hay tuyên bố với nhau là "nếu một người
đi biển nào mà đă ghé bến Cristobal và lên
bờ một lần, th́ người đó đă
trở thành một international
football player". Tàu VNTT1
được đóng ở Ư nên các sách kỹ
thuật và tài liệu nguyên thủy đều là
tiếng Ư, tuy nhiên theo thời gian, tất cả
những tài liệu và sách chỉ dẫn của Pont và
Máy được viết lại bằng tiếng Pháp.
Sau mỗi lần có lệnh
Quan Tàu làm thực tập về khẩn cấp/an toàn
(exercice de sécurité), SQ hướng dẫn ngày hôm đó
phải đệ tŕnh một báo cáo ghi lại
những hành động và nhận xét về cuộc
thực tập bằng tiếng Pháp để Quan Tàu lưu
trử. Sổ ghi quart hay lệnh trả lời trong lúc
làm manœuvre của Pont và Máy cũng được ghi chép
bằng tiếng Pháp. Hai SQ Học Viên chúng tôi
vốn liếng tiếng Pháp có giới hạn, không như
các đàn anh SQ khác, nhưng đă tiếp tục
học hỏi và thực hành những sinh hoạt và
điều lệ của tàu nên sau đó cũng đă
được trao cho chức vụ Sĩ Quan theo như
khả năng và kinh nghiệm đạt được.
Từ SQ Học Viên tháng 1 năm 1971, tôi đă lên SQ Cơ
Khí 5 rồi SQ Cơ Khí 4 và 3 trong chuyến hải hành
cuối cùng trước khi VNCH thất thủ. Ông
bạn Hoàng của tôi, cũng từ SQ Học Viên Pont
tháng 3 năm 1971 được lên làm SQ Phụ Tá 3
rồi 2 cũng trong thời gian đó. Oái oăm thay !
Hai chúng tôi không mong mà lại được thăng
chức Cơ Khí Phó và Thuyền Phó ngay sau khi tàu VNTT1
ra khỏi Vũng Tàu trong chuyến hải hành lịch
sử ngày 30/04/1975 v́ trên tàu lúc đó, SQ Máy chỉ có
Cơ Khí Trưởng Phùng văn Gạt và Trần
Hậu Khánh, c̣n SQ Pont chỉ có Thuyền Trưởng
Nguyễn Nhứt Thống và ông bạn Bùi Hửu Hoàng.
Dĩ nhiên trong thời điểm đó, không ai màng
đến chức vụ hay lương bổng nữa,
mà chỉ mong con tàu và hành khách đến một nơi
nào đó an toàn, bắt đầu cho những suy tư
về một cuộc sống mới ở một chân
trời nào đó. Chuyến Di Tản Lịch Sử
30-04-1975 VNTT1 đậu trên sông Sài G̣n từ ngày
17-04-1975, thủy thủ đoàn vẫn sinh hoạt hàng
ngày theo quart bờ. Chúng tôi cứ nghĩ rằng tàu
về Việt Nam lần nầy là để ra
miền Trung chở người tị nạn vào Nam, nhưng
chúng tôi không nghe lệnh đó ban hành và cũng không
nghe biết ư định ǵ của Công Ty về
lịch tŕnh sắp tới (Dĩ nhiên Công Ty và Chính
Phủ đă có dự định rồi nhưng đó
là bí mật. Sau nầy chúng tôi mới được
biết mật lệnh đó). Ngày
29-04 là ngày trực (quart) của tôi. Sài G̣n bị
giới nghiêm 24/24 v́ tối 28-04 Dinh Độc Lập
bị dội bom. Nhờ có một lá thư chứng
thực bởi Thuyền Trưởng tôi là SQ CK của
tàu VNTT1 cho nên Cảnh Sát cho phép tôi được
đến tàu làm việc. Chiều tối 29-04, chúng tôi
đă chứng kiến cảnh trực thăng trên
bầu trời Sài G̣n bốc người từ Ṭa
Đại Sứ Mỹ, hàng trăm người đă
tụ tập và lao xao ở bờ sông Bạch Đằng,
nơi mà các tàu buôn c̣n đậu ở đó. Đêm
29/30-04, đoàn tàu Hải Quân lù lù di chuyển trên sông
Sài G̣n ra Vũng Tàu. Tôi và số người đang
trực trên tàu thật hoang mang, không liên lạc
được với gia đ́nh và không biết là ḿnh
phải tính sao đây? Ở lại hay ra đi? 8.00
giờ sáng ngày 30-04, Thuyền Trưởng Vơ Kiết
Triệu, SQ Phụ Tá 2 Bùi Hữu Hoàng, Cơ Khí Trưởng
Phùng văn Gạt, Cai Nguyễn văn Sa mướn
chiếc canot từ cầu tàu Nguyễn Huệ ra tàu
VNTT1. Cùng với nhân viên đang trực, SQ
Phụ Tá 3 Phạm Đ́nh Tuân, SQ Cơ Khí 3 Trần
Hậu Khánh, SQ Học Viên Lư Thế Đạt,
Chấm dầu Lê văn Bầu, Thợ Điện Quách
văn G̣n, lập tức điều động tàu
từ phao 1 vào cập bến kho 5 Khánh Hội.
Tàu vừa cập vào kho 5 an toàn, đương
nhiệm Thuyền Trưởng Vơ Kiết Triệu, SQ
Phụ Tá 3 Phạm Đ́nh Tuân, Cai Nguyễn văn Sa và
Chấm Dầu Lê văn Báu lập tức rời
khỏi tàu để về nhà rước vợ con.
Những gia đ́nh có liên hệ với con tàu VNTT1
đang chờ sẵn ở kho 5 cùng với số người
may mắn đă vào được bên trong cổng
số 5 hối hả lên tàu. Trong
khi chờ đợi gia đ́nh Thuyền Trưởng
Vỏ Kiết Triệu và SQ Phụ Tá 3, một số
quân nhân trên tàu hối thúc và áp lực thủy
thủ đoàn phải rời bến gấp, sau khi nghe
lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương
văn Minh lúc 10.00 giờ. Lúc nầy t́nh h́nh đă
bắt đầu hổn loạn, người người
chen lấn nhau lên tàu. Đành phải ra đi!
Dây thừng mũi đă được tháo ra, mũi tàu
bắt đầu tách ra khỏi cầu tàu. Máy chính
được phát động: chân vịt quay rất
nhanh, sức đẩy rất mạnh. Dây thừng phía
sau phải bị chặt đứt bằng ŕu chửa
lửa trong lúc có 2 người đang lơ lững
đu vào dây thừng cố trèo lên tàu. Khi dây bị
chặt đứt, 2 người ấy bị rớt
gần chân vịt, một người nổi lên c̣n người
kia mất dạng. Tàu bắt đầu tách ra khỏi
bến, bấy giờ Thuyền Trưởng Vỏ
Kiết Triệu và vợ con mới xuất hiện trên
cầu, ông Triệu ẳm một đứa bé, bà
Triệu cũng ẳm một bé và có hai bé nữa bên
cạnh. Tàu lúc đó chỉ cách cầu khoảng 1-2m,
nhưng không thể nào nhảy lên thang tàu được
vào thời điểm hỗn loạn ấy.
Thuyền Trưởng Nguyễn Nhứt Thống cố
điều khiển (manœuvre) tàu vào cầu hai lần nhưng
không thể nào cặp sát vào được, một
phần v́ dây thừng không cột được,
phần v́ lúc thủy triều đang xuống. Trong lúc
đó, SQ Phụ Tá 2 Bùi Hữu Hoàng có cầu cứu
một chiếc giang đĩnh của Hải Quân đang
đậu gần VNTT1 cặp vào giữa VNTT1 và cầu
tàu để cho ông Triệu và gia đ́nh bước
xuống rồi leo lên cầu thang của tàu VNTT1, nhưng
cả hai tay bồng bế em bé như thế th́ không
thể nào nhảy qua chiếc giang đỉnh được.
Đành chịu thua! VNTT1 phải ngậm ngùi rời
bến kho 5 dưới áp lực của những người
lính đang cầm súng và lựu đạn. Lúc ấy
là 10.30 sáng.
Cũng trong hoàn cảnh nầy, Thuyền Phó Dương
Tấn Kim Sanh xuất hiện trên bến. Có người
nào đó quăng cái dây thang pilote xuống cầu,
đầu dây dưới cột vào cái cột nào
đó để cho ông có thể leo lên, nhưng v́ VNTT1
lao chao, cái thang dây bị đứt và Dương
Tấn Kim Sanh cũng bị bỏ lại! Tàu
chạy hết tốc lực, vừa qua khỏi cầu
Tân Thuận th́ bị B40 (hay ḿn?) và súng cối nổ
tứ tung từ bến Thủ Thiêm. Trái B40 hay ḿn đó đă làm
lủng vỏ tàu một lỗ khoảng 1m x 0.8m ở bên
hông cale số 4 bên trái (babord), dưới mặt nước.
Miểng đạn (hay ḿn) đă xuyên qua một réservoir
dầu máy, vào pḥng máy, cắt đứt ống
dẫn dầu (circuit hydrolique) của tay lái. Tàu nghiêng
qua một bên v́ nước tràn vào cale 4 và bắt
đầu lủi vào bờ v́ tay lái bị tê liệt
! SQ Phụ Tá 2 Bùi Hửu Hoàng nghĩ ngay đến
Gyro Pilot, nhưng pḥng nầy bị khóa, đến pḥng
của SQ Radio (SQ Vô Tuyến) để lấy ch́a khóa
nhưng không ai mở cửa. Măi đến khoảng vài
phút sau, ông SQ Radio mới xuất hiện trên pḥng
chỉ huy (Passerelle) và được yêu cầu mở
pḥng Gyro Pilot để mở máy Gyro. Sau khi Gyro hoạt
động, Dịch 2 trở lại pḥng chỉ huy cho
Thuyền Trưởng biết là Auto Pilote đă
hoạt động. Lập tức tàu được
đánh trở lui ở mức tối đa (En Arrière
Toute) rồi hối hả tiến tới trước.
Trước khi đến Nhà Bè, VNTT1 bị pháo kích
lần thứ 2 cũng từ phía bên trái, có quả
nổ trên boong tàu cắt đứt dây cáp của
cần trục (mât de charge), có quả rớt xuống nước,
nhưng không có tổn thương nhân mạng.
Mới vừa qua khỏi Nhà Bè, gần Cát Lái (?), VNTT1
lại bị tấn công lần thứ 3 bằng súng
cối hay đại liên bắn thẳng vào château tàu,
ở hành lang bên trái phía trước của boong chính,
nơi mà một số hành khách đang ngồi núp.
Lần tấn công nầy đă làm cho nhà văn Chu
Tử và một em bé tử thương và 20 người
khác bị thương.
Với công xuất máy được xử dụng
tối đa và với một vận tốc kỷ
lục, VNTT1 đă ra được sông Sài G̣n, vượt
qua khỏi Vũng Tàu. Ôi ! VNTT1 và hành khách đă thoát
được hiểm nguy!
Trên đường tiến về Hạm Đội 7
ngoài hải phận quốc tế, một buổi
lễ thủy táng đơn sơ cho hai nạn nhân
tử thương đă diễn ra với sự
hiện diện của đại diện Thủy
Thủ đoàn và hành khách trên tàu. Goodby forever nhà văn
Chu T! Dựa vào báo cáo của Thuyền Trưởng
về t́nh trạng của VNTT1, điều kiện an toàn
của tàu và hành khách, số người bị thương,
số lượng hành khách… Hạm Đội 7
chỉ thị VNTT1 trực chỉ Subic Bay.
Sáng 03-05-1975, 10.00 giờ, VNTT1 đến Subic Bay, Phi
Luật Tân. Số người bị thương
được đưa lên trại Subic Bay điều
trị. Nhân viên của cơ quan Hải Quân Mỹ lên
tàu tiếp xúc Thủy Thủ đoàn, quan sát thực
trạng trên tàu, giám định điều kiện an
toàn (seaworthiness), tạm thời sửa chữa lỗ
hổng của vỏ tàu, tiếp tế thực
phẩm cần thiết và chỉ thị VNTT1 tiếp
tục hành tŕnh đến đảo Guam. VNTT1
đến Guam ngày 09-05-1975, cập bến lúc 16.00
giờ để chuyển số hành khách lên trại
tị nạn ASAN, rồi trở ra neo trong vịnh. Gia
đ́nh của Thủy Thủ đoàn và các nhân
vật quản trị của VNHH được phép
ở lại trên tàu cho đến khi có chỉ thị
mới của nhà chức trách trại ASAN. Tuy nhiên, SQ
Radio Dương khắc Hổ và gia đ́nh tự
nguyện rời khỏi tàu cùng lúc với hành khách.
Thợ điện 2 (G̣n) cũng rời khỏi tàu,
muốn trở về Việt Nam v́ không mang gia đ́nh
theo.
Tàu VNTT1 là chiếc tàu đầu tiên đến Guam.
Những ngày sau đó, có tàu Tân Nam Việt đến
ngày 15-05-1975, tàu Trường Hải và
HQ 500 22-05-1975, tàu Đồng Nai và Đại Dương
23-05-1975. Suốt
hai tháng trên tàu VNTT1, mọi người đều có
một cuộc sống thật thoải mái về
vật chất v́ số lượng thực phẩm và
rượu, bia trữ trên tàu được dự
định cho một hành tŕnh 3-4 tháng. Các phu nhân trên
tàu là những đầu bếp đặc biệt
của những món ăn ngon hằng ngày. Thỉnh
thoảng chúng tôi đi picnic, tắm biển, lên
bờ, sinh hoạt như đang đi nghỉ hè ở
một phong cảnh hữu t́nh! Nhưng trên thực
tế, mỗi chúng tôi đều có một ưu tư
riêng trong cùng một trạng huống: mất quê hương,
xa gia đ́nh, vắng người thân yêu, một tương
lai vô định! Giờ đây hồi tưởng
lại, mắt tôi rưng rưng lệ, nhớ lại
những gịng nước mắt của những ngày cô
đơn, buồn tủi lúc bấy giờ. Cả nhóm
chúng tôi chọn Canada làm "đất hứa", nơi
mà chúng tôi chưa một lần đặt chân đến,
chỉ biết đó là một quốc gia có một
thể chế trung lập, diện tích bao la và ngập
đầy tuyết trắng !
Ngày 12-07-1975, tất cả chúng tôi được
lệnh rời khỏi VNTT1, nhập trại ASAN để
làm thủ tục di cư đến Canada. Hai SQ trẻ
chúng tôi, Trần Hậu Khánh và Bùi Hữu Hoàng coi như
vỉnh viễn xa ĺa VNTT1 từ ngày ấy, sau 4.5 năm
gắn bó với con tàu và chức vụ. Qua sự
sắp đặt của văn pḥng Luật Sư
ARRIOLA & CUSHNIE ở Guam, đại diện cho Công Ty
VNHH và Thủy Thủ đoàn, VNTT1 được
chuyển giao quyền sở hữu cho chính phủ liên
bang Hoa Kỳ. "Vậy, trong trường
hợp sau nầy, Chánh phủ Liên Bang Hoa Kỳ, v́
một lư do nào, quyết định bán chiếc tàu,
quyền lợi của anh em cần được
chứng minh và thông báo đầy đủ cho văn
pḥng Luật Sư đại diện" (trích
từ "Thông tư Nội bộ của ông TGĐ Dương
Liên).
Ngày 21-07-1975, nhóm chúng tôi rời trại ASAN Guam, lên máy
bay qua trại B́nh-Đăng-Sơn (Pendleton) ở
California để làm thủ tục khám sức khỏe
và visa vào Canada. Gia đ́nh ông Lê Minh Đức, ông
Nguyễn văn Sang và Elève Lư thế Đạt xin
định cư ở California, Hoa Kỳ. Ngày 25-07-1975, chúng tôi gồm gia đ́nh các ông
Dương Liên, Nguyễn Nhứt Thống, Phùng văn
Gạt, Bùi Hữu Hoàng và Trần Hậu Khánh nhập
cảnh Canada. Một cuộc sống mới nơi đất
hứa bắt đầu từ đây ! Cuối tháng 10, 1975 chúng tôi nhận được
thư thông báo từ văn pḥng Luật Sư đại
diện ở Guam cho hay là chính phủ Hoa Kỳ đă dùng
VNTT1 để đưa 1600 người đ̣i trở
về Việt Nam. Thế là chúng tôi măi măi không c̣n
gặp lại VNTT1 nữa. Những ghi nhận liên quan đến chuyến
đi lịch sử của VNTT1 Những
gia đ́nh có liên hệ với VNTT1 đă chờ
sẵn ở kho 5 để theo VNTT1 sáng ngày 30-07-1975
gồm gia đ́nh Thuyền Trưởng Nguyễn
Nhứt Thống, gia đ́nh Cơ Khí Trưởng Phùng
văn Gạt, gia đ́nh SQ Radio Dương Khắc
Hổ, gia đ́nh cựu SQ CK Huỳnh văn Lắm, gia
đ́nh ông Dương Liên, TGĐ Công Ty VNHH, gia đ́nh
ông Lê Minh Đức, GĐ Thương Mại VNHH, ông
Lê Tấn Lộc, TGĐ Ngân Hàng VNTT, ông …Cơ, GĐ..
Ngân Hàng VNTT. Gia đ́nh ông Dương Liên và gia đ́nh
ông Lê minh Đức ở lại trên tàu với
Thủy Thủ đoàn trong thời gian VNTT1 neo ở
Guam. Trong số 750 hành khách có ông cựu Bộ Trưởng
Kinh Tế Châu Kim Nhân, 1 Thẩm Phán, 1 Dân Biểu, 2 Hoa
Tiêu tàu biển, 2 Bác Sĩ, nữ Ca sĩ Phương
Hoài Tâm, tất cả c̣n lại là Quân, Nhân, Công, Cán
các cấp của VNCH trong số có 5 Đại Tá.
VNTT1 không có dự định di tản hay ít ra là
Thủy Thủ đoàn không nghe hay nhận được
chỉ thị nào từ ban giám đốc. Nhưng v́
phi trường Tân Sơn Nhứt bị pháo kích và
hỗn loạn vào ngày chót, máy bay không cất cánh
được, quí vị của VNTT và của VNHH đă
không được không vận, nên con tàu VNTT1 là phương
tiện cứu cánh cuối cùng của quí vị đó
và cũng là cái may mắn cho số hành khách tức
thời của sáng ngày 30-04. Trong khi đó, phần
đông Thủy Thủ đoàn và gia đ́nh của
họ không có cơ hội để cùng di tản
với VNTT1. Sau
khi cập bến kho 5 sáng ngày 30-04, Dịch 3 (SQ Phụ
Tá 3) Phạm đ́nh Tuân về nhà để đem gia
đ́nh xuống tàu, nhưng khi vào được kho 5
th́ VNTT1 đă ra đi rồi. Bằng cách nào đó, nhóm
của Tuân đă leo lên được một chiếc
tàu đánh cá theo sau VNTT1 trên sông Sài G̣n, nhưng không
bắt kịp. Mặc dầu bị tấn công trên sông,
nhưng nhóm của Tuân cũng thoát được ra
biển. Có lần Tuân đă tâm sự là trên tàu không
có dụng cụ hải hành, chỉ có một bản
đồ, nên phải đoán hướng và tọa
độ bằng 1 que tăm xỉa răng ! Nhóm
của Tuân cuối cùng đến được
Singapore và được chuyển qua trại tị
nạn ASAN sau đó.
Ông Dương Tấn Kim Sanh, ngày 30-04 là đương
nhiệm Phó Thuyền Trưởng của VNTT1. Ông vào
kho 5 trễ, cố t́m cách lên tàu, nhưng lúc đó
VNTT1 đă tách ra khỏi kho 5 và t́nh thế rất
hổn loạn, nên đành ở lại. Được
biết, sau 30-04-1975, ông Sanh là một trong những người
đă dẫn VNTT1 từ Nha Trang về Sài G̣n theo
lời yêu cầu của chính quyền mới. Nghe nói
ông định cư ở Pháp.
Ông Vơ Kiết Triệu trong ngày 30-04 là đường
nhiệm Thuyền Trưởng VNTT1, sáng ngày 30-04, sau khi
đưa tàu từ phao vào cập kho 5, lập tức
trở về nhà để rước gia đ́nh. Khi
trở lại và vào được bên trong kho 5 th́ t́nh
thế hổn loạn nên không lên tàu được nên
đành ở lại. Sau ngày 30-04, chính quyền mới
yêu cầu ông và Chef Máy Trần văn Đúng ra Nha
Trang dẫn tàu VNTT1 (sau nầy đổi tên thành Vũng
Tàu) về Sài G̣n. Cho đến tháng Tám 1978 ông
Triệu và gia đ́nh tổ chức vượt biên cùng
với 346 người khác, được tàu Anh
Quốc vớt, đưa về Đài Loan làm thủ
tục nhập cảnh Anh Quốc. Đến tháng Mười
Một 1989, ông và gia đ́nh đến định cư
ở Montréal, Canada. Tết 1975 – Tết 2015 VNTT1
về Sài G̣n nhân dịp Tết Ất Măo 1975. Mặc dù
chiến tranh có ảnh hưởng nhiều đến
cuộc sống của toàn dân miền Nam nhưng người
Sài G̣n vẫn tưng bùng đón Tết. Cái rộn
rịp của đường hoa Nguyễn Huệ, cái
truyền cảm khi sánh vai bên người bạn gái trên
đường phố, cái ray rức v́ những
mối t́nh, những mẫu chuyện về hải hành
và đại dương, những ước mơ
định hướng cho tương lai, tôi vẫn
nhớ ! Lúc đó, tôi là một Sĩ Quan trẻ trên tàu
VNTT1: Ngày
xưa, tôi như con chim biển,
Thích đi hoài, xa măi chuyện nhân gian,
Nhiều nàng đến, lắm người yêu và
hờn giận,
Tôi vẫn đi, đi măi, xá chi t́nh… (THK)
Những năm sau 04-1975 là thời gian buồn thảm
nhứt của người tha phương như chúng tôi,
cô đơn trên đất mới, buồn nhớ
về người thân và quê hương bên kia Thái B́nh
Dương. Huyền Sang, tức ông Nguyễn văn
Sang, Chấm Dầu của VNTT1, cùng ra đi với tôi,
nhưng định cư ở Cali, đă viết
tặng tôi những vần thơ nói lên tâm tư
của chúng tôi lúc bấy giờ: Ngọt
bùi mua lấy héo hon,
Bán trăm thương nhớ mà c̣n xót xa,
Nhắn về nguyên quán dùm ta,
Từ nay phải gọi quê là cố hương !
…
Đất mới dù hoa xinh, trái ngọt,
Hoài hương mộng bén suốt canh trường.
(HS, Jan 1976) Trong
suốt thời gian sinh sống ở quê hương
thứ hai, cứ mỗi lần Tết đến, ḷng
tôi vẫn c̣n thấy xót xa, nhớ về Tết
của một thời trai trẻ ở quê nhà, nhớ
đến những lần đón Tết trên VNTT1 lênh
đênh trên sóng nước đại dương.
Tết Ất Mùi năm nay, 2015, vừa đúng 40 năm,
tôi vẫn không quên cái không khí và sự thiêng liêng
của Tết cổ truyền ở Việt Nam.
Ở cái tuổi "xế chiều" nầy, con người
hay nhớ về quá khứ, cho nên cũng là lúc tôi
muốn ghi lại nỗi niềm và kỷ niệm đáng
nhớ liên quan đến thương thuyền "Việt
Nam Thương Tín 1" của Việt Nam Cộng Ḥa
trước 04-1975. Xin gởi đến quí vị và các
bạn những dữ kiện đă nêu để
biết thêm về con tàu VNTT1 và chuyến đi lịch
sữ 30-04-1975. Đặc biệt tôi cám ơn
Thuyền Trưởng Vơ Kiết Triệu và ông bạn
Dịch 2 (Phó Thuyền Trưởng 04-1975) Bùi Hửu Hoàng
của tôi đă kiểm chứng và xác nhận
những dữ kiện mà tôi đă nêu ra trong
"hồi kư" nầy.
Kính chúc quí vị, các bạn cựu Hàng Hải Thương
Thuyền Việt Nam và tất cả những hành khách
đă di tản trên tàu VNTT1 ngày 30-04-1975 đang sinh
sống khắp nơi thế giới một năm
Ất Mùi Vạn Sự Như Ư. |