Biệt Đội Thiên Nga |
(Viết
theo lời kể của Chị Nguyễn Thanh
Thuỷ K1/BTV, cựu Thiếu
Tá, Biệt Đội Trưỏng Thiên
Nga/Bài đă đăng trong Đặc
San Phượng Hoàng Xuân Đinh Dậu 2017)
Chị Thủy
Thiên Nga trước và sau 1975 Đă
lâu rồi, người ta hay gọi tôi là “Thủy Thiên
Nga” để phân biệt tôi với những người
có cái tên Thủy giống như tôi. Sở dĩ
mọi người gọi tôi là Thủy Thiên
Nga v́ có thời tôi là người chỉ huy đội
t́nh báo nữ mang tên Thiên Nga của ngành Cảnh Sát
Quốc Gia Việt Nam Cộng Hoà. Cái chức vụ này
đă cho tôi nhiều kỷ niệm vui buồn, nhưng
đồng thời cũng làm cho tôi chịu nhiều
khổ luỵ với
13 năm tù cộng sản sau tháng Tư 1975. Nếu
tôi nhớ không lầm th́ Thủy Thiên
Nga là cái tên đă bị báo chí Việt Cộng gán ghép
cho tôi trước nhất. Khoảng năm 1988, lúc tôi
mới được ra khỏi tù ít lâu, để mưu
sinh, tôi có mở một cái quán cóc bán cà phê trên
vỉa hè đường Trần Quư Cáp (nay là Vơ Văn
Tần), Quận 3 Sàig̣n. Khách của tôi phần
lớn là các anh chị cựu tù “cải tạo”
đến để ủng hộ tôi đồng
thời cũng là để có dịp gặp nhau hàn huyên
tâm sự, ôn lại chuyện tù, đồng thời bàn
tán chuyện thời sự linh tinh. Do đó, cái quán cóc
của tôi chẳng bao lâu đă trở thành giống như
một cái câu lạc bộ mini cho các anh em bạn tù
gặp gỡ. Ngồi uống cà phê, chúng tôi nhắc
lại những kỷ niệm trong tù, điểm danh
những bạn bè xem ai c̣n ai mất mà ngậm ngùi
nhớ đến những người bạn đă vĩnh
viễn ra đi, hay vui cho những người đă vượt
thoát đến được bến bờ tự do.
Chúng tôi cũng bàn tán về những tin tức
thời sự hàng ngày, nhất là những tin tức có
liên quan đến đám cựu tù chúng tôi như chương
tŕnh H.O. đang được bàn tán xôn xao lúc đó.
Nhưng cái quán của tôi cũng chẳng được
yên thân, nó cứ bị công an phường đến
làm khó dễ xua đuổi hoài viện cớ choán
lề đường làm tôi cứ phải thường
xuyên di tản từ chỗ này qua chỗ khác. Tuy nhiên,
riết rồi chúng cũng làm ngơ v́ thấy cái quán
của tôi cũng nghèo nàn chẳng có ǵ đáng giá ngoài
mấy cái ly tách cà phê kiểu dă chiến. Nhờ
vậy, các bạn tù của tôi vẫn có chỗ t́m
tới để tiếp tục ngồi tán gẫu. Có
lần, một bạn tù đă mang đến quán cho tôi
xem một bài báo trên tờ Công An TP.HCM của Việt
cộng (VC), số Xuân Mậu Th́n 1988. Bài báo có
tựa đề “Thủy Thiên
Nga” của
một tác giả tên Nam Phương. Nam Phương là
một trong nhiều bút hiệu mới của tên kư
giả nằm vùng Huỳnh Bá Thành tức họa sĩ
Ớt ở Sàig̣n trước 1975.
Quán
Cà phê Thiên Nga vỉa hè Sàig̣n 1988 (H́nh do Chị Thủy
TN cung cấp) Sau
ngày 30/4/1975, hầu hết bọn Việt cộng
nằm vùng đều đă xuất đầu lộ
diện không cần dấu diếm. Một trong số
những tên đó là Huỳnh Bá Thành, người
đă nhiều năm hoạt động nằm vùng len
lỏi trong giới báo chí tại Sàig̣n. Y tên thật là
Huỳnh Thanh Tâm chuyên vẽ hí hoạ kư tên Hoạ
Sĩ Ớt trên nhật báo Điện Tín của
chủ nhiệm Hồng Sơn Đông. Sau Tháng Tư
1975, Huỳnh Bá Thành đă lộ nguyên h́nh là một
Trung tá công an VC, một hung thần đối với
giới kư giả, văn nghệ sĩ Sài G̣n cũ
trong vụ án mà chúng gọi là vụ án “Những Tên
Biệt Kích Cầm Bút”. Gần một chục nhà
văn, nhà báo trong đó có Hoàng Hải Thuỷ, Doăn
Quốc Sỹ, Dương Hùng Cường (tức Dê Húc
Càn), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Nhă Ca, Phan Nhật
Nam, Dương Nghiễm Mậu,.… đều đă
bị bắt rồi bị đưa ra toà xét xử
với những bản án rất nặng nề chỉ
v́ họ là những người cầm bút chống
cộng dưới chế độ cũ VNCH. Ngoài ra,
y c̣n nổi tiếng với “Vụ án Hồ Con Rùa”
và “Vụ án thập nhị Tăng Ni Già Lam”. Vụ
án Hồ Con Rùa là vụ nhóm kháng chiến Phục
Quốc đặt chất nổ ở Công Trường
Quốc Tế trên đường Duy Tân, gần trường
Đại Học Luật Khoa Sài G̣n; c̣n vụ án Tăng
Ni Già Lam là vụ một số Tăng Ni thuộc Giáo
Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất ở chùa
Già Lam tranh đấu đ̣i tự do tôn giáo. Khoảng
giữa thập niên 1980, Huỳnh Bá Thành, khi đó
đă là Đại Tá, được cử làm
Tổng Biên Tập tờ tuần báo Công An Thành Hồ
rất ăn khách. Nhưng con đường công danh mà
y được hưởng của VC chưa bao lâu th́
đang sống bỗng chuyển qua… từ trần ngày
25/1/1993 một cách đột ngột đầy nghi
vấn. Nghe nói v́ y có người em ruột vượt
biên qua Mỹ nên đă bị thất sủng và bị
đầu độc cho chết khi vừa từ Pháp
trở về sau một chuyến công tác tại đây(?). Một
bài báo khác của Việt cộng đề cập
đến tôi nữa là loạt bài “Thiên Nga Gẫy Cánh”
của tác giả Thành Tín trên báo Quân Đội Nhân Dân.
Sau này tôi mới biết, Thành
Tín là bút hiệu của Bùi Tín
khi đó đang là Phó Tổng Biên Tập báo Quân Đội
Nhân Dân của VC, nay đă đào tị xin tỵ
nạn tại Pháp từ đầu thập niên 1990. Cũng
giống như bài “Thủy Thiên
Nga”, bài báo “Thiên Nga Gẫy Cánh” cốt ư làm
nhục, bêu riếu tôi bằng cách mô tả những công
việc lao động khổ sai mà VC đă hành hạ
tôi trong tù hàng ngày; không những vậy bài báo c̣n xuyên
tạc những việc làm của Biệt Đội
Thiên Nga là tay sai của Đế Quốc Mỹ, là cánh
tay nối dài của CIA. Chúng kể công, mặc dù tôi
đă đánh phá “Cách Mạng” và có nhiều nợ
máu với nhân dân nhưng chúng vẫn khoan hồng tha
cho tôi tội chết. Ngoài
hai bài báo nói trên, báo chí VC thỉnh thoảng vẫn c̣n
nhắc đến cái tên “Thủy Thiên
Nga” nhiều lần nữa trên các báo chí của chúng;
tất cả cũng không ngoài mục đích bôi
nhọ việc làm của Biệt Đội Thiên Nga mà
tôi là người chỉ huy biệt đội này. Có
lẽ cũng v́ những bài báo đó mà tôi đă
trở thành bất đắc dĩ “nổi
tiếng”. Cho nên, từ khi được định
cư ở hải ngoại, một vài báo chí Việt
Mỹ cũng đă t́m gặp tôi để t́m
hiểu, nhưng dĩ nhiên họ t́m hiểu để
cảm thông với những việc làm của tôi,
của t́nh báo Thiên Nga nhiều hơn, không như
báo chí của VC. Do đó, trước kia, chỉ có
một số ít anh chị em trong ngành Cảnh Sát
Quốc Gia biết tôi là người chỉ huy Biệt
Đội Thiên Nga, nhưng nay th́ hầu như mọi
người trong và ngoài ngành đều đă biết. Mặc
dù bị báo chí VC hạ nhục và bôi bẩn nhưng
tôi vẫn hănh diện về những việc làm
của Thiên Nga. Qua những năm tháng làm việc dưới
cái tên đẹp đẽ dễ thương này, tôi
nghĩ tôi đă cống hiến, đóng góp một
phần nhỏ công sức của ḿnh vào việc
giữ ǵn an ninh trong công cuộc bảo quốc an dân
của ngành CSQG mà tôi đă dấn thân phục vụ. Vào
đầu thập niên 1990, tôi được định
cư ở Mỹ theo diện H.O. Sau ba năm đi làm công
cho một nhà hàng ở vùng Little Saigon, năm 1995, tôi
đă cố gắng dành dụm được một
ít tiền đủ để mở một cái quán nho
nhỏ. Vốn là người có biết chút căn
bản về nấu nướng và làm bánh học
được từ khi c̣n ở Sài G̣n, tôi đă
mở một gian hàng bán thực phẩm “food to go”
lấy tên là “Thiên Nga Deli” ở ngay trong Little Saigon. Cái
tên Thiên Nga Deli không chỉ là cái cửa hàng cho tôi mưu
sinh mà c̣n là cái tên để cho tôi gợi nhớ
về một thời tôi từng gắn bó với
những hoạt động của Thiên Nga. Một vài
người bạn gặp tôi đă hỏi, bộ tôi
không sợ sao lại đặt tên quán là “Thiên Nga”
như vậy. Họ lưu ư tôi, coi chừng bọn VC
nằm vùng ở hải ngoại này nhiều lắm,
một người “nổi tiếng” như tôi
từng có nhiều ân oán với chúng cần phải
đề cao cảnh giác. Dĩ nhiên tôi luôn phải
đề cao cảnh giác, nhưng tôi không sợ v́ dù
có lấy tên ǵ th́ chúng cũng đă biết rơ tôi là
ai rồi, chẳng trốn đi đâu được.
Quán
Thiên Nga Deli ở Little Saigon (CA) Gian
hàng của tôi rất nhỏ ở trong thành phố
Fountain Valley, ngay sát Little Saigon. Nói là tôi làm chủ là nói
cho oai vậy thôi chứ tôi vừa là chủ vừa kiêm
đủ thứ. Nào là, vừa là người đứng
bán hàng, vừa là đầu bếp, kiêm tạp
dịch,v.v… C̣n ông xă tôi là người phụ bán hàng
và dọn dẹp, giao hàng. Hàng ngày, tôi phải dậy
sớm cùng ông xă đi chợ mua các thứ về
để chuẩn bị thực đơn bán hàng cho
một ngày. Mặc dù phải tất bật từ sáng
sớm cho đến chiều tối nhưng tôi rất
vui v́ được tự ḿnh làm chủ và phục
vụ khách hàng. Cái quán Thiên Nga Deli này đă trở thành
niềm vui và điểm tựa tài chánh cho cả gia
đ́nh. Nó tuy không giúp cho tôi làm giàu nhưng ít ra, tôi
có thể hănh diện, nó đă giúp cho chúng tôi có
thể tự lực cánh sinh bằng chính công sức
của ḿnh. Cũng
giống như thời gian làm cô hàng bán cà phê ở
vỉa hè Sàig̣n, cửa hàng “Thiên
Nga Deli” của tôi ở Little Saigon cũng được
bạn bè truyền tai nhau nên mọi người đă
đến ủng hộ cho tôi khá nhiều. Phần
lớn họ là những anh chị em cựu tù
“cải tạo” đến Mỹ định cư
theo diện H.O. như tôi. Tôi rất cảm kích tấm
ḷng của họ. Họ đến cửa hàng của
tôi không hẳn v́ những thức ăn của tôi ngon
rẻ mà chỉ v́ họ muốn thể hiện
mối thân t́nh huynh đệ chi binh giữa những người
từng cùng chiến tuyến, cùng cảnh ngộ.
Gặp lại nhau nơi xứ người, chúng tôi
lại có dịp ôn lại chuyện xưa, chuyện
nay, chia sẻ những khó khăn khi hội nhập trên
đất khách. Hầu hết chúng tôi khi đến
Mỹ đều đă lớn tuổi, lại thêm ngôn
ngữ bất đồng, tiếng Anh không giỏi, nên
thật khó để hoà nhập vào cuộc sống
mới; nhưng mọi người đều vui v́
từ nay được hít thở không khí tự do, không
c̣n lo bị bọn công an VC hạnh hoẹ làm khó
dễ. Nói th́ nói thế nhưng cá nhân tôi, nhiều
khi trong giấc ngủ chập chờn thỉnh
thoảng vẫn có những cơn ác mộng ám ảnh
bởi những sự hành hạ, khổ ải mà tôi
từng bị bọn VC khủng bố trong tù. Chúng tôi
nay như được hồi sinh, vui mừng v́ tương
lai con cái có cơ hội được vươn lên.
Ngay cả hai trong ba người con của tôi, là con gái,
mặc dù bị khuyết tật nhưng chúng vẫn
được đi học, được hướng
dẫn vừa học nghề vừa đi làm, thỉnh
thoảng chúng c̣n ra tiệm phụ giúp cho tôi làm
bếp, bán hàng. Đó là những ngày tháng đă mang
lại cho tôi những hạnh phúc không thể tả. Khi
thấy những đứa con tật bệnh của tôi
được đi học, đi làm, tôi đă
mừng và thầm cám ơn nước Mỹ.
Chính sách của họ dành cho những con người kém
may mắn bị khuyết tật như các con của tôi
thật là cao cả, nhân đạo và nhân bản.
Nếu chúng c̣n ở Việt Nam có lẽ chúng đă
bị gạt ra bên lề xă hội. Chúng không chỉ
bị kỳ thị v́ có cha mẹ là người
của chế độ VNCH cũ mà c̣n bị bỏ rơi
v́ những khuyết tật của chúng. Nhưng
niềm vui và hạnh phúc ấy đến với tôi
không kéo dài được lâu. Đầu năm 2001,
đứa con gái lớn đầu ḷng của chúng tôi
kém may mắn v́ bị khuyết tật đă chẳng
may qua đời v́ bị một bệnh hiểm nghèo
không vượt qua được. Cái chết của
con gái tôi là một mất mát lớn không ǵ bù đắp.
Cả hai vợ chồng tôi đều suy sụp tinh
thần không c̣n thiết tha đến việc kinh doanh.
Nỗi
buồn chưa vơi th́ họa vô đơn chí đến
lượt tôi cũng bị mắc một căn
bệnh hiểm nghèo. Sau cái chết của con gái chưa
được bao lâu, trong một lần đi khám
bệnh, bác sĩ đă phát hiện ra tôi bị ung thư
cổ tử cung. Tin nghe như sét đánh ngang tai. Đây
cũng là lư do khiến tôi phải dẹp tiệm Thiên
Nga Deli để lo chữa bệnh, một căn
bệnh mà tỷ lệ tử vong khá cao, nhất là
trong giới phụ nữ Việt. Lúc đầu, tôi
cứ tưởng bệnh của tôi chưa trầm
trọng đến nỗi phải giải phẫu, nhưng
sau nhiều lần xạ trị trong hơn một năm
mà bệnh không thuyên giảm mà c̣n có vẻ nặng hơn,
nên cuối cùng, bác sĩ đă đề nghị tôi
phải giải phẫu, cắt bỏ toàn bộ tử
cung. Dĩ nhiên, để sống sót tôi không c̣n
chọn lựa nào khác. May mắn, cuộc giải
phẫu đă diễn ra tốt đẹp. Sau đó, các
thử nghiệm hậu phẫu đă có kết quả
rất tốt, ung thư đă không lây lan nên tôi không
phải xạ trị như phần lớn những
bệnh nhân ung thư khác sau khi mổ. Đến nay
đă 15 năm, mỗi năm tôi đều phải tái
khám lại nhưng may mắn chưa có dấu hiệu
bệnh tái phát. Sau
khi chữa lành bệnh ung thư, tôi bị rơi vào
bệnh trầm cảm khi đứa con gái út c̣n
lại của tôi cũng bị bệnh phải giải
phẫu. Nỗi lo sợ lại bị mất con một
lần nữa khiến cho tôi hoảng sợ, Nhưng
may mắn thay, lần này cả mẹ và con, bệnh
đều được chữa lành. Sau
những bất hạnh dồn dập đến cho tôi
và gia đ́nh, tôi đă chính thức ngưng hẳn
việc điều hành Thiên Nga Deli để dành
thời giờ chăm sóc cho gia đ́nh riêng nhiều hơn.
Tuy nhiên, v́ vốn là người năng động, tôi
không muốn suốt ngày cứ quanh quẩn ở trong
nhà nên tôi đă t́nh nguyện tham gia vào những công tác
xă hội, thiện nguyện. Từ nhiều năm nay,
tôi là một thiện nguyện viên công tác trong Hội
H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả
Phụ Việt Nam Cộng Ḥa hiện do cựu Nữ
Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn làm Hội trưởng.
Nhiệm vụ của tôi là tiếp nhận và xác minh
hồ sơ của các quả phụ VNCH gởi tới
Hội xin giúp đỡ. Có nhiều người
thắc mắc nghĩ rằng, đă hơn 40 năm qua
rồi những người phụ nữ góa bụa
ấy mấy ai c̣n là quả phụ. Điều
ấy đúng, nhưng cũng không đúng v́ không
thiếu những người phụ nữ đă ở
vậy thờ chồng nuôi con. Là người từng
trải qua những đau thương, tôi hiểu
những nỗi bất hạnh và bi thương của
họ. Họ là những người vợ lính VNCH
trung trinh đáng được tuyên dương; họ
nay c̣n ở trong nước đang phải gánh chịu
những thiệt tḥi, đày đọa và bất công.
Việc làm của tôi chỉ là góp một bàn tay cùng các
anh chị khác trong và ngoài Hội để an ủi
một phần nào những người vợ của
những người đă một thời từng là
chiến hữu của tôi. Đă
hơn 40 năm rồi, những cánh chim Thiên Nga đă
không c̣n tung cánh như ngày nào, nhưng không phải v́
vậy mà chúng gẫy cánh. Những cánh chim Thiên Nga chúng
tôi ngày nay đă bay tản mác khắp bốn phương
trời. Ngoài những công việc nội trợ hàng ngày
như bao phụ nữ khác, hầu hết chúng
tôi đều tham gia vào những sinh hoạt ngoài xă
hội hay trong những hội đoàn – trong đó có
những hội CSQG – tại địa phương. Ngày
xưa, những thiên nga chúng tôi phải bí mật xâm
nhập vào các tổ chức của địch để
thu thập những tin tức t́nh báo; nhưng ngày nay,
chúng tôi công khai tham gia những sinh hoạt cộng
đồng với ḷng ước mong, qua sự góp
sức của ḿnh, sẽ làm cho cộng đồng ngày
một vững mạnh và thăng tiến. Tuy nhiên,
mặc dù chúng tôi không c̣n thực hiện những công
tác t́nh báo nhưng cái nghiệp dĩ năm xưa
vẫn luôn đeo bám chúng tôi. Nó
đă nhắc nhở chúng tôi luôn luôn phải đề
cao cảnh giác, và dưới con mắt nghiệp
vụ, chúng tôi biết rằng, kẻ thù đang
dấu mặt ở quanh đây và chúng đang t́m cách
len lỏi trong cộng đồng để t́m cách gây
phân hóa, xáo trộn.
Để vượt qua được nó, điều
mong ước của tôi là, chúng ta phải có một
cộng đồng đoàn kết, thống nhất và
vững mạnh ở hải ngoại. Mong
lắm thay !!! NHƯ NGĂ. Ghi
thêm, Chị
Nguyễn
Thanh Thủy đă
theo học
K1/CTKD/Viện Đại
Học Đà-
Lạt
năm
1964. Năm
1965 chị
và
một
số
bạn
khác
như
Tôn
Thất
Biên,
Bùi
Văn
Hùng,
Phan Hữu
Nghi cùng
7-8 bạn
khác
thi đậu
K1/ BTV/Học
Viện
CSQG.VNCH. Không kể đến những bạn đă
chết trong tù. Ngoài
chị
Thủy ở
tù
13 năm
các
bạn K1/ BTV khác
như
Phan Hữu
Nghi, Phan Kỹ
Niệm,
Phan Tấn
Ngưu
và
Phan Quang Nghiệp,
Huỳnh
Thanh Nhơn... bị VC đầy đoạ
trong các trại tù
từ Nam chí Bắc tổng cọng hơn 17 năm
rưỡi. NNTiến. |