Ngày
xuân đọc truyện cổ tích Phạm Duy Khiêm
|
Xin giới thiệu quí độc giả vài
truyện cổ tích xa xưa trong tập truyện
ngắn nổi tiếng Légendes des Terres Sereines của
Phạm Duy Khiêm viết bằng tiếng Pháp năm 1941.
[1]
Khối
T́nh Trương Chi Phạm Duy Khiêm sinh năm 1908
tại Sài G̣n, mất năm 1974 tại Pháp. Là
con nhà văn Phạm duy Tốn, ông cũng trở thành
nhà văn nổi tiếng viết bằng tiếng Pháp
trong giới người cũ chịu ảnh hưởng
của văn hóa Pháp. Sau khi xong tú tài tại
Việt Nam ông sang Pháp du học, tốt nghiệp Cao
Đẳng Sư Phạm và Thạc Sĩ về văn
phạm năm 1935. Tác phẩm chính -Việt Nam Văn Phạm soạn
chung với Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ năm
1941. -De Hanoi à la Courtine, tự
truyện, năm 1941. Năm 1958 in lại đổi tên
là La Place d’un Homme, Plon, Paris –Légendes
des Terres Sereines, Paris: Mercure de France, 1942 –La Jeunes Femme de Nam Xuong, truyện dài
1944. –Nam et
Sylvie, truyện dài Plon, Paris , 1957. Légendes des Terres Sereines,
Huyền Thoại Miền Đất Thanh B́nh là tập
truyện cổ tích gồm 30 huyền thoại,
giai thoại đời xưa, đoạt giải thưởng
Văn chương Đông Dương 1943, được
đón nhận nồng nhiệt. Năm 2009 được
Harry Aveling dịch ra tiếng Anh (Legends from Serene
Lands: Classical Vietnamese Stories by Pham Duy Khiem, translated from the
French by Harry
Aveling, Prestige, New Delhi, nd, ca 2009). Viết
tập truyện này, Phạm Duy Khiêm muốn giới
thiệu những giá trị tinh thần của người
Việt Nam với Tây phương, tác phẩm cho
thấy Phạm Duy Khiêm rất am tường về
phong tục và văn hóa cổ nước nhà, văn chương
của ông bay bướm và sâu sắc. Những
truyện cổ dân gian đơn sơ giản dị
đă được cây bút tuyệt vời của
Phạm Duy Khiêm biến thành những áng văn chương
tuyệt tác để đời. Tôi
lựa bốn đề tài được nhiều người
ưa chuộng: Khối T́nh Trương Chi, Ḥn Vọng
Phu, Mỵ Châu Hay Chiếc Nỏ Thần, Truyện
Trầu Cau và dịch theo nguyên bản tiếng
Pháp do nhà Editions Philippe Picquier tái bản năm
2003. [1] Khối
T́nh Trương Chi Ngày
Xưa có anh Trương Chi, Người
th́ thậm xấu hát th́ thậm hay. Ngày
xửa ngày xưa đă lâu lắm rồi, một
tiểu thư con quan thượng thư yêu
kiều diễm lệ sống cấm cung trên lầu son
gác tía. Tiểu thư thường tựa cửa đọc
sách, thêu thùa, đôi khi nàng đưa mắt nh́n
xuống con sông lững lờ trôi bên dưới
rồi thả hồn mơ mộng trông theo ḍng nước
uốn ḿnh khuất vào đồng ruộng xa xăm. Có lúc
tiểu thư liếc nh́n chiếc thuyền đánh cá
cỏn con. Anh thuyền chài nghèo hay hát. Từ xa nàng không
thấy khuôn mặt, cử chỉ anh ta nhưng
tiếng hát vọng tới tai nàng, giọng hát hay, bài
ca năo nuột. Không ai biết bài ca, tiếng hát của
anh có gợi lại trong ḷng cô nàng cảm xúc, mơ
mộng ǵ không nhưng hôm nào vắng bóng chàng bên dưới
ḍng sông th́ lạ thay, nàng lại ngóng chờ anh cho
tới tận chiều. Tiểu thư
mỏi ṃn trông chờ anh thuyền chài hết ngày này
sang ngày khác cũng chẳng thấy bóng dáng anh đâu.
Nàng ngả bệnh, các thầy lang không t́m được
nguyên nhân nào đă khiến tiểu thư đau
yếu, song thân lo lắng, thế rồi tự
nhiên nàng hết bệnh: Tiếng hát trở lại dưới
sông. Nghe con
hầu tŕnh lên sự việc, quan lớn bèn cho gọi
người thuyền chài tới gặp tiểu thư.
Vừa thấy mặt anh, nàng như tỉnh cơn mê,
không c̣n muốn nghe tiếng hát. Nhưng chàng
đánh cá đáng thương lại bất thần
bị tiếng sét ái t́nh rồi mắc bệnh tương
tư. T́nh yêu tuyệt vọng khiến anh tiều
tụy gầy ṃn, tàn tạ chết như một
ngọn đèn cạn dầu, mang theo mối hận t́nh
xuống dưới tuyền đài. Mấy năm
sau, gia đ́nh cải mả, bốc mộ anh lấy hài
cốt đem chôn. Họ thấy trong quan tài một
khối đá mờ mờ đục bèn đem gắn
phía trước thuyền làm món đồ trang trí.
Một hôm ông quan thượng thư đi ngang qua nh́n
thấy thích bèn hỏi mua về giao cho thợ tiện
thành cái tách trà. Mỗi khi
rót trà vào người ta thấy anh ngư phủ
hiện lên thong thả chèo thuyền quanh chén. Nghe nói
thế tiểu thư muốn thấy tận mắt xem
sao. Nàng rót chút nước trà vào chén, anh thuyền chài
hiện ra khiến nàng xúc động khóc v́ hồi tưởng
đến chuyện đă qua. Một
giọt lệ rơi xuống tách khiến nó tan ra thành
nước . Trong một
kiệt tác phẩm lừng danh của Việt Nam , hai câu
thơ sau nhắc đến huyền thoại này. Nợ
t́nh chưa trả cho ai. Khối
t́nh mang xuống tuyền đài chưa tan. Tuyền
đài nghĩa là ở bên kia, nơi mà cánh đồng
có nhiều hoa cỏ, những bóng cây bất tử xanh
tốt quanh năm. Nhưng
“nợ t́nh” ở đây có ư nghĩa ǵ? Ai trả nợ cho ai? Người
ta có thể nghĩ người con gái
nợ chàng trai v́ anh đă yêu nàng cho tới chết mà
chẳng được đền bù. Măi
về sau nàng mới trả nợ t́nh khi rơi lệ
khóc cho mối t́nh kết tinh và đă khiến nó tan thành
nước. Niềm cảm thương cho số
phận hẩm hiu của chàng và ḷng hối hận
đă khiến chàng đau khổ sẽ xoa dịu
những phiền muộn của chàng ở nơi âm
cảnh. Đối
với người Việt Nam truyện này c̣n mang
nhiều ư nghĩa hơn thế. Họ tin rằng t́nh
duyên do tiền định, mọi cuộc xum vầy,
kết hợp đều là hậu quả tất nhiên
của mối duyên nợ có từ kiếp trước.
Khi hai người kết nghĩa phu thê ấy chỉ là
họ cùng tự giải món nợ chung. V́ thế cô
tiểu thư con quan phải hội ngộ với anh
thuyền chài nghèo khó mặc dù hoàn cảnh đă phân
chia anh chị. Khi nàng nghe tiếng hát cất lên từ
dưới ḍng sông và khi chàng ngày đêm tương tư,
tưởng nhớ tới dung nhan người đă
gặp th́ cả hai đă t́m đường tiến
tới kết hợp với nhau và trái tim mù ḷa
của họ đă đập theo nhịp điệu
của định mệnh. Nhưng
chàng và nàng đă không kết hợp với nhau lúc
sống. Duyên nợ vẫn c̣n đó nên sau khi
chết anh thuyền chài vẫn không biến dạng
đi được. Khối đá trong mờ mà người
ta thấy trong quan tài của anh không phải chỉ là
vật thể tồn tại của mối t́nh cảm
sâu xa sau khi xác thân tan ră nhưng nó chính là con người
của chàng, h́nh hài của chàng ở bên kia thế
giới hay bộ mặt của số mệnh c̣n dang
dở khiến nó phải kết tinh lại để
đợi chờ. Về
sau người con gái cúi nh́n tách trà trong mờ nơi
phảng phất giấc mộng đẹp đă tàn. Nàng
nhận thấy mối duyên nợ đă buộc ḿnh vào
anh thuyền chài và hối tiếc đă không sớm
nhận ra bổn phận của nàng vào lúc mà nàng không
gặp được hạnh phúc. Nhưng nàng cũng
biết sự kết hợp của hai người
phải làm trọn vẹn bên kia cuộc đời phù
du này. Có thể nàng đă linh cảm thấy giây phút
trọng đại ấy đă gần kề. Giọt
lệ t́nh của nàng đă khiến tách trà tan
biến thành nước để trộn lẫn
với nhau trong sự kết hợp giải thoát cho
cả hai người. (Nguyên
tác Le Cristal D’Amour của Phạm Duy Khiêm Trọng
Đạt dịch) [2] Ḥn
Vọng Phu Trước
khi tới Lạng Sơn, du khách từ Châu thổ lên
miền Thượng du để ư thấy, bên phải
con đường Bắc kỳ xưa, một ngọn
đứng núi trơ vơ. Một tảng đá trên
đỉnh giống h́nh một người đàn bà
đứng ôm con. Vào lúc chiều khi mặt trời
lặn trông càng giống y như thật. Đó là núi
Vọng phu, ngọn núi h́nh người
đàn bà chờ chồng. Người ta kể như
sau. Ngày
xưa, có hai anh em mồ côi sống trong một làng
tại miền thượng du, người anh tuổi
đôi mươi, đứa em gái lên bẩy. Không bà
con họ hàng, cả hai yêu thương nhau
rất mực . Một
hôm ông thầy tử vi người Tầu qua làng,
được người anh hỏi về tương
lai ông trả lời. “Nều
ngày giờ sinh của cậu như thế th́ nhất
định cậu sẽ phải lấy em gái cậu.
Không thể cưỡng lại số mệnh được
cậu ạ” Lời
tiên tri khiến anh ta khiếp sợ, nó ám ảnh ngày
đêm. Về sau phát điên lên anh bèn quyết định
liều lĩnh. Một
hôm đi dốn củi trong rừng, đem theo đứa
em. Thừa lúc em quay lưng lại, anh lấy búa táng em
một nhát rồi bỏ trốn. Hết
bị ám ảnh nhưng thỉnh thoảng tội ác ghê
rợn lại hiện ra theo đuổi anh, người
thanh niên đổi tên , dần dần b́nh thản
rồi về sinh sống tại Lạng Sơn. Thời
gian trôi qua nhanh, chàng ta lấy con gái một nhà buôn,
vợ sinh một bé trai, gia đ́nh hạnh phúc. Một
hôm bước vào sân trong, anh thấy vợ ngồi ngoài
nắng phơi mớ tóc dài đen, chị ta
quay lưng lại nên không thấy chồng đi vào.
Trong lúc nàng một tay giữ làn tóc mượt, tay kia
cầm lược chải th́ chàng thấy một
vết sẹo dài phía trên gáy. Chàng
hỏi nguyên do, sau một lúc do dự người
vợ vừa khóc vừa kể chuyện của ḿnh. “Em
chỉ là con nuôi, không phải là con đẻ của
cha. Hồi
c̣n bé em mồ côi, sống với người anh
lớn, nhà chỉ có hai anh em. Cách đây mười lăm
năm, anh lấy búa chém em một nhát bỏ em lại
trong rừng. Một bọn cướp cứu em. Ít lâu
sau bị săn đuổi, chúng chạy trốn
khỏi sào huyệt người ta t́m thấy em.
Một ông nhà buôn có con gái mới chết bèn nhận
nuôi em. Nay
em không biết anh ấy ra sao, em cũng không hiểu sao
anh lại làm thế .. hai anh em thương yêu nhau
rất mực” Mặt
nàng ràn rụa nước mắt. Người chồng
tự trấn tĩnh rồi hỏi tên cha mẹ, quê quán
của vợ. Sau khi biết chắc chắn không
c̣n nghi ngờ ǵ nữa, chàng giữ kin chuyện bí
mật ghê rợn ấy. Người chồng thấy
hỏ thẹn và ghê sợ cho chính ḿnh, cảm thấy
không thể sống chung như thế bèn kiếm
cớ đi xa. Sáu tháng trôi qua, người vợ
nhẫn nại chờ chồng nhưng thời hạn
đă qua lâu mà chàng vẫn biệt vô âm tín. Chiều
nào nàng cũng bế con trèo lên núi nh́n về phương
xa ngóng chờ chàng trở lại. Lên tới đỉnh
nàng đứng ngay như tượng gỗ, mắt
đăm đăm nh́n về phía chân trời. Nàng
hóa thành đá v́ thế nay người ta vẫn c̣n nh́n
thấy nàng đứng yên trông chờ măi măi. Ngọn
núi huyền thoại đă gợi nguồn cảm
hứng cho các thi nhân Việt Nam sang tác lên nhiều
vần thơ hay. (Nguyên
tác La Montagne De L’Attente của Phạm Duy Khiêm Trọng
Đạt dịch) [3] Mỵ
Châu Hay Chiếc Nỏ Thần Truyện
này đă được ghi trong biên niên sử từ xưa. Từ
hơn hai ngh́n ba trăm năm, vua nước Thục
cầu hôn công chúa nhà Hồng Bàng trị v́ nước
Văn Lang . Căm
giận v́ bị khước từ, vua Thục thề
sẽ tiêu diệt nhà Hồng Bàng. Nhà vua băng hà không
kịp rửa hận bèn dặn con cháu báo thù. Đó là
nguyên do chiến trận liên miên giữa hai nước
Thục và Văn Lang Nhà
Hồng Bàng thắng trận nhiều năm. Họ
vững mạnh nhờ đó, tin tưởng được
thần linh che chở nên canh pḥng chểnh mảng,
họ hưởng nhàn, ăn chơi thỏa thích. Khi
đó kẻ thù Thục Phán, vua nước Thục
đă chuẩn bị chiến trận từ lâu, ông
đợi thời cơ thuận lợi để
chiếm Văn Lang. Bị
thua trận, vua nước Văn Lang uất hận
hộc máu ra rồi nhẩy xuống giếng tự
vẫn. Đó là vị vua cuối cùng ḍng dơi Thần
Nông, một trong năm vị đại đế
nước Tầu ngày xưa đă trị v́ năm trăm
năm. Thục
Phán nhập hai nước làm một, đặt tên là
Âu Lạc, lấy hiệu An Dương Vương. Ngài
lập kinh đô tại Phong Khê. Nhưng mới
dựng tường thành lên đă bị sụp đổ
v́ trận cuồng phong ban đêm kéo tới. An
Dương Vương cho khởi công xây dựng
lại ba lần nhưng đều bị hủy
hoại trong một dêm. Ngài bèn lập bàn thờ ở
cửa đông để cầu khấn. Ngày
mồng bẩy tháng ba nhà vua thấy một ông già
từ phương đông đến bảo. “Ngài
hăy tin sứ giả Thủy Tinh sẽ đến giúp” Sáng
sớm hôm sau, nhà vua thấy một con rùa vàng thật
lớn từ phương đông tới nổi trên
mặt nước. Rùa Vàng hay Thần Kim Qui nói đă
được giang thần gửi tới. Nhà vua
mời vào trong cung và hỏi tại sao ngài lại không
xây được thành. Thần đáp. “Đất
này của núi và sông đầy những thần linh. Chính
Thần Núi, Sơn Tinh đă giật sập những tường
thành của Ngài.” Nhờ
Thần Kim Qui giúp, nhà vua đă chế ngự được
bùa phép phá hoại của quỉ thần và xây
dựng được thành quách nhanh chóng. Thành gồm
ba bức tường dài hàng ngh́n trượng cuốn
lại theo h́nh soắn chôn ốc. Do đó gọi là
Loa Thành, thành h́nh vỏ ốc. Xây
Kinh đô xong, Thần Kim Qui giă từ nhà vua. Ngài
tiễn Thần ra cửa cung điện bầy tỏ ḷng
cảm tạ và nói. “Nhờ
ơn ngài mà thành được vững mạnh. Nhưng
khi ngài đi rồi tôi có thể giữ thành được
không? Thần
Rùa đáp. “Thịnh
hay suy là do Thiên mệnh. Trời phù hộ cho người
tài đức, tôi xin tặng Thánh thượng món quà
v́ ngài đặt nhiều tin tưởng vào tôi. Ngài
nhớ là nó sẽ giúp ngài bảo vệ giang sơn” Thần
Rùa bèn tháo một móng chân ḿnh đưa cho nhà vua
bảo. “Ngài
lấy cái móng này thay vào cái lẫy nỏ, khi ra
trận ngài sẽ bách chiên bách thắng” Nói
rồi Thần Kim qui tiến ra bờ sông, nhà vua nh́n
theo cho tới khi Thần biến mất. Vào
thời này Tần Thủy Hoàng cai trị nước
Tầu, sau khi thống nhất sơn hà, thu hồi
lục quốc, nhà Tần đem quân tới tận
biển Nam hải. Vua Tần đồng thời cho xây
Vạn lư trường thành và đem quân đánh nước
Âu lạc. Nhưng quân Tầu phải tháo lui không
tới được Loa Thành. Ba
năm sau, Vua Tần cử tướng Triệu Đà
mang năm ngh́n quân đi chiếm đất của An Dương
Vương , đóng quân trên núi, dàn chiến
thuyền dưới sông. Nhà
vua ra khỏi kinh thành dẫn đầu đoàn quân,
lấy cái nỏ thần có lẫy linh thiêng rồi
bắn ba mũi tên: ba ngh́n quân Tầu chết la
liệt trên mặt đất, số c̣n lại
chạy tan tác Biết
không thể chống lại nỏ thần. Triệu
Đà bèn nghĩa mưu đánh thắng An Dương
Vương, ông xin cầu ḥa và gửi con trai Trọng
Thủy đế làm con tin trong triều tỏ ḷng thân
thiện An
Dương Vương giao miền đất phía trên sông
Bằng Giang cho Triệu Đà, đưa Trọng
Thủy vào hàng cận thần rồi gả con gái là
Mỵ Châu cho chàng ta. Trọng Thủy thương yêu
vợ nhưng không quên trách nhiệm mà vua cha đă
giao cho. Chàng
bèn hỏi Mỵ Châu cho xem cái nỏ thần, nàng không
ngần ngại đưa cho chồng. Trọng Thủy
xem xét cái móng rùa rồi làm một cái giả giống
y như thế và lén đánh tráo nó. Sau đó chàng xin
An Dương Vương cho về thăm nước
một thời gian. Trọng
Thủy bảo Mỵ Châu. “Nghĩa
phu thê không làm chàng quên bổn phận với song thân
phụ mẫu, từ lâu chàng đă không được
qú lạy các người. Chàng tiêc không thể đem
nàng đi theo, đường về phương
Bắc vạn lư xa xăm qua rừng qua núi đầy
những hùm beo, ác thú” Nhưng
trong lúc phân ly chàng không khỏi bồi hồi xúc động
khi nh́n vợ hiền, v́ thương yêu và tin tưởng
chồng nàng đă phản lại vua cha và đất nước
mà không biết. Mỵ
Châu chợt thấy Trọng Thủy buồn bă và xúc
động sâu xa lúc chia tay, nàng có linh cảm sự
chẳng lành và bảo chồng. “T́nh
nghĩa phu thê bất diệt, nhưng cảnh thái b́nh
của hai nước thật phù du, biêt đâu mai kia
Bắc Nam cách biệt đôi đường. Nếu
phải bỏ Loa Thành chạy loạn, em sẽ mặc
áo lông ngỗng ḿnh tặng cho em trước đây. Em
sẽ rắc lông ngỗng trên các ngă tư để
chỉ cho ḿnh biết đường em chạy qua. Trọng
Thủy vội về nước trao cái móng rùa
thần diệu cho phụ vương. Triệu Đà
vội cất quân đi đánh An Dương Vương.
Nghe tin ấy ông vua này bật cười. Ông
để cho quân địch đến gần mà không
ngăn chận, chẳng cần pḥng ngự thành. Trên
thành cao, lính canh báo hiệu quân Tầu đông như
kiến đen nghịt cả chân trời, nhà vua tự
măn bảo. “Nước
láng giềng lại quên cái nỏ thần của ta chăng?
Ông tiếp tục ván cờ. Sau
cùng quân địch đă tới cửa thành nhà vua
đứng dậy cầm vũ khí. Nhưng vừa
bắn mũi tên đầu ông biết ḿnh bị
phản. Nhà vua chỉ kịp nhảy lên lưng
ngựa, cơng con gái lên ngồi phía sau rồi phóng nhanh
về phương Nam , bỏ cà kinh thành giang sơn mà
chạy. Trọng
Thủy vào cung không thấy Mỵ Châu bèn theo dấu lông
ngỗng tại các ngả tư đường để
phóng ngựa truy tầm nhà vua. An
Dương Vương phi ngựa như gió qua rừng,
qua ruộng, leo đồi, xuống dốc, vượt
sông. Mỗi khi dừng lại nhà vua nghe thấy
tiếng vó ngựa đuổi theo, ngài lại thúc
ngựa chạy cuống cuồng như điên dại. Mỵ
Châu ngồi nép ḿnh vào cha, hai tay ôm chặt thân người
như hồi c̣n nhỏ. Nước mắt ràn rụa,
nàng cảm thấy thân phận nữ nhi yếu đuối
của ḿnh trước nỗi gian khổ mênh mang.
Chạy tới bờ biển. Không một chiếc
thuyền dưới nước, An Dương Vương
kêu than “Trời bỏ ta rồi! “Sứ
giả Thủy Tinh ngài ở đâu? Hăy tới cứu
nguy ta.” Thần
Kim Qui hiện lên mặt biển ngay và cất tiếng
nói thật lớn đến độ từ xa
Trọng Thủy cũng nghe được và dừng
lại. “Ngài
cơng kẻ thù sau lưng ngựa làm sao thoát được”? Nhà
vua quay lại nh́n con gái, nàng yên lặng ngước
đôi mắt đẫm lệ lên trời. An Dương
Vương bèn rút thanh gươm to bản chém đầu
nàng. Rồi tay cầm cái sừng tê giác, ngài theo
Thần Kim Qui mở đường rẽ nước
đi vào ḷng biển khơi Trọng
Thủy thấy xác Mỵ Châu vội xuống ngựa
bồng lấy nàng mà khóc. Chàng đem nàng về Loa Thành
để chôn cất. Ḷng buồn khôn nguôi, chàng đi
dạo suốt ngày tại những nơi vợ ḿnh hay
ở. Sau cùng trong khi tuyệt vọng chàng nhẩy
xuống ao nơi vợ thường tắm. Những
con ṣ tại bờ biển hút máu từ thân xác Mỵ
Châu, rồi từ đó chúng nhả ra những viên
ngọc quí. Ngọc này đem rửa tại cái ao
nhỏ nơi Trọng Thủy trầm ḿnh sẽ sang
rực hắn lên. Nước ao vang danh tới tận bên
Tầu và Hoàng Đế bắt phải kèm theo một
b́nh nước ao vào hàng triều cống mỗi ba năm,
việc triều cống được thực hiện
đều cho tới triều Lư. Ngày
nay tại bờ biển nh́n lên th́ thấy một cái
đền nhỏ trên núi gần nơi mà cô công chúa
đă kết thúc bi thảm đời nàng. Nhưng
nhất là tại thành Cổ Loa, giữa những
việc tưởng nhớ biến cố lịch
sử mà truyền thống c̣n giữ măi là việc
thờ phụng An Dương Vương và Mỵ Châu.
Tại chánh điện của đền, từ hơn
hai ngh́n năm qua một ngọn lửa vẫn cháy sáng
trước bàn thờ của vị anh hùng đă hy
sinh chiến đấu bảo vệ giang sơn. Xa xa cành
và rễ xum xuê của một cây đa cổ thụ
linh thiêng phủ xuống ngôi đền nhỏ bé
của Mỵ Châu. (Nguyên
tác My
Châu ou L’Arbalète Surnaturelle của Phạm Duy Khiêm,
Trọng Đạt dịch [4] Truyện
Trầu Cau Huyền
thoại này rất phổ biến ở Việt Nam .
Truyện này chắc xưa lắm rồi , cốt
truyện chính đơn sơ, những chi tiết có
nhiều khi khác nhau tùy theo truyền thống, đôi khi
khó lựa chọn cái nào cho đúng. Dưới
triều vua Hùng Vương thứ tư (có người
nói thứ ba), một ông quan tên Cao có hai người
con tên Tân và Lang dù không phải anh em sinh đôi
nhưng giống nhau như hai giọt nước đến
nỗi cha mẹ c̣n không phân biệt được.
Cả hai đều khôi ngô tuấn tú, thương nhau
rất mực, bên nhau như bóng với h́nh. Hai
cậu c̣n nhỏ (có truyện nói mười hai, mười
bốn tuổi, cũng có truyện nói mười
bẩy, mười tám) bỗng một cơn hỏa
hoạn khiến cha mẹ chết cháy, sự
nghiệp tiêu tan Đầu
hôm sớm mai thành trắng tay, không bạn bè quen
biết, hai anh em đi lập nghiệp phương xa. T́nh
cờ gơ cửa nhà ông Lưu, cũng làm quan, người
nhân đức có quen biết cha hai cậu. Ông quan quí
mến hai cậu bèn đón vào nhà cho ăn ở, cũng
v́ ông không có con trai chỉ có một người con gái.
Ít lâu sau ông muốn gả cô cho hai cậu mồ côi này.
Cả hai đều để ư tới cô gái, cô này cũng
không biết chọn ai v́ họ giống nhau cả người
lẫn tính, họ lại ra tỏ cao thượng
với nhau, nhường nhau cô gái mà cả hai cùng yêu
thương. Hôm
sau ông bảo cô gái làm cơm, có ư muốn t́m ra manh
mối qua sự gặp gỡ. Ông sai con gái
đem hai chén cơm, một đôi đũa rồi
đưa cho hai cậu. Người em bèn tự động
đưa đũa cho anh theo bổn phận. Ông quan bèn
chọn cậu cả làm rể. * Thương
yêu anh, theo bổn phận làm em Lang chế ngự
được t́nh cảm với cô gái nay đă là
chị dâu của ḿnh. Thế
nhưng Tân v́ hạnh phúc mới đă lơ là t́nh
ruột thịt, nhạt nhẽo với Lang. Cậu em cô
đơn dù t́nh cảm với anh, chị dâu trong sáng
sâu đậm. Một
buổi sang nọ, buồn quá cậu đành bỏ nhà
ra đi. Chàng
ta đi thật xa, đi măi, đi không biết mệt
cho tới bờ sông ngồi nghĩ đến thân
phận hẩm hiu rồi chết v́ đau khổ.
Cậu biến thành phiến dá. Người
anh thấy em bỏ đi biết là tại sao bèn
tự trách ḿnh ích kỷ. Anh hối hận bèn
đi t́m em. Mấy ngày sau tới chỗ bờ sông
ấy, chàng mệt quá ngồi tựa lên phiến đá.
Người anh biến thành một cây thẳng đứng
có chùm cành lá trên ngọn. Người
vợ không thấy chồng lo lắng khôn nguôi cũng
đi t́m chàng. Nàng cũng đi tới tận chỗ cây
này rồi ôm lấy nó cho khỏi ngă, khóc thương
chồng mà chết. Người vợ biến thành
một dây leo cuốn quanh thân cây cao chót vót. Nhờ
báo mộng, dân làng trong vùng dựng một cái miếu
thờ ba người t́nh bất hạnh. Phía đầu
hồi có ghi: Anh em xum họp, Vợ chồng chung
thủy * Về
sau trong năm đại hạn hán cuối triều
đại vua Hùng vương thứ tư, khi cây
cỏ thực vật chết hết riêng cây và dây leo
quấn quanh vẫn xanh tươi giữa cảnh hoang tàn
khô héo. Nghe chuyện kỳ diệu ấy, từ
khắp mọi phương người ta đổ
về miếu. Chính
nhà vua cũng tới nơi và được các vị
trưởng thượng trong làng kể lại
chuyện hóa thân của ba người. Ngài xúc động
t́m hiểu ư nghĩa linh thiêng của nó, hỏi các
quan tư vấn nhưng không ai giải đáp
được. Sau cùng quan thượng thư bộ h́nh,
một cụ già uyên bác bảo: “Muôn
tâu Bệ hạ, nếu muốm biết họ cha
của anh chị em, hay quan hệ phụ tử của
đứa con hoang, người ta lấy tí máu của các
đương sự hứng vào cùng một cái bát.
Nếu máu ḥa hợp nhau sau khi dông đặc th́
kết quả đúng sự thực. Cũng
có thể ta nghiền nát lá dây leo với một
quả của cây và một tí đá đập
nát thành bột xem sao?..” Nhà
vua nghe theo, sai đem nung phiến đá cho ră ra,
nghiền nát ba thứ trên nó biến thành mấu đỏ
tươi, thử nghiệm là đúng. V́
vậy lăo thượng thư tâu vua Hùng Vương cho truyền
bà việc trồng hai loại cây và dây leo này,
lại được đặt tên trầu cau tượng
trưng cho t́nh huynh đệ nghĩa phu thê. Những cô
cậu mới cưới hay anh chị em trong nhà
bắt đầu nhai lá và quả với một tí vôi
để giữ t́nh thân. Chẳng bao lâu tục ăn
trầu được lan truyền đi rất nhanh
trong mọi cuộc gặp gỡ giữa những người
quen nhau hay người muốn “làm quen” Ngày
nay người ta c̣n thấy nhất là tại miền
quê , những người tập tành ăn trầu tài
tử cho có chút say, với người chưa biết
ăn có thể thấy cay cay nhưng nó cũng lưu
lại cho họ một hương vị cưới
hỏi tươi mát, dịu dàng và chút cay đắng
nhè nhẹ. * Nếu
miếng trầu là đầu câu chuyện như câu
ngạn ngữ đă nói, tục ăn trầu cũng
thường thấy trong những biến cố lớn
của đời sống như quan hôn tang tế cũng
như trong những nghi lễ tôn giáo công, tư .
Với người đă khuất, tổ tiên, thần
thánh trầu cau cùng với chén nước trong là đồ
cúng tinh khiết. Nhưng đối với việc cưới
hỏi và t́nh yêu đương trai gái tục lệ này
có ư nghĩa nhât. Theo
truyền thống, những cuộc truyện tṛ hào hoa
giữa trai gái bắt đầu bằng trầu cau,
đó là lời mời mở đầu. Nếu
nhận lời cũng như đă giao ước ít
nhiều tùy theo mỗi dịp. Phải biết từ
chối khi có dịp như cô gái trong bài hát sau. Sáng
nay em đi hái dâu, Gặp
hai anh ngồi trên phiến đá buông câu Cả
hai đứng dậy bảo em. Cô
đi đâu mà vội mà vàng Thưa
anh em đi hái dâu, Hai
anh mở túi mời trầu, Thưa
anh em nghe lời cha mẹ dặn Con
gái không nhận cau trầu người lạ Trong
đám hỏi, trầu cau của nhà trai đưa
được nhà gái đem biếu bà con bằng
hữu để báo tin vui. Về sau nếu người
ta từ hôn v́ một lư do ǵ, bên gái sẽ trả
lại lễ cưới cũng như ở nơi khác
người con gái từ hôn sẽ hoàn trả nhẫn.
Trong đám cưới vẫn có những quà căn
bản, ngay cả ngày nay trong đám hỏi cổ
truyền ta thấy những người đội trên
đầu những mâm tṛn đựng những chùm cau
và lá trầu, phía trên phủ tấm khăn đỏ,
đó là màu chung thủy Hồi
xưa vào nhà người Việt Nam , ta thấy trên
phản để một cái hộp lớn sơn đỏ
hay khảm sà cừ đă mở sẵn. Trong hộp có
đĩa di động nhiều ngăn đựng
đủ vật dụng ăn trầu: Cau tươi
bổ làm tư, cau khô vành ngoài cuốn vào hạt nâu
ở giữa, không thể thiếu những lá trầu
xanh tươi hoặc ngả vàng hay xanh đậm
cuốn lại nhiều tầng như điếu
thuốc lá, bên cạnh đó là rễ chẻ từng
miếng và cuối cùng một túi vôi nhỏ thường
bằng bạc với cái th́a để trát vôi. Dưới
mâm trong ḷng hộp người ta để dự
trữ sẵn những lá trầu, những quả cau
nguyên vỏ xanh, một con dao nhỏ sắc như nước
và chiếc khăn đỏ để lau tay. Nay
người Việt đứng tuổi c̣n nhớ
hồi nhỏ mẹ thường dậy chị hay em gái
têm trầu, cách cầm quả cau bằng năm ngón tay
trái để gọt vỏ, bổ làm tư thật
đều, cách cắt hai bên lá trầu trước khi
cuốn nó rồi đóng lại bằng cuống lá
cắt bên cạnh không quên quệt chút vôi trước.
Tại một số nhà, các cô gái biết làm nhiều
h́nh lá khác nhau như lá cánh phượng. Cũng có người
khéo tay cuốn nó thành h́nh ống thật đều,
dễ coi, mềm mại, dẻo dai mọichỗ. Ngày
nay, tại tỉnh thành người ta không c̣n thấy
tục ăn trầu hay tục nhuộm răng đen. Các
cô gái tân thời nếu có học một chút nghề
làm bánh, may vá, nấu ăn chưa kể học
chữ nghĩa sẽ không c̣n tập sắp xếp khay
cau trầu lỗi thời nữa. Cũng như
một chàng trai nay không c̣n đưa chùm cau và dây
trầu tươi để tỏ ḷng thành. (Nguyên
tác Le Bétel Et L’Aréquier của Phạm Duy Khiêm Trọng
Đạt dịch) |