LTS: Ông
Nguyễn Cao Quyền từng là một viên chức cao
cấp trong chính quyền VNCH. Tốt nghiệp khóa 1
Trừ Bị Nam Định và khoá 51-53 trường
Saint Cyr (Pháp), đỗ
cử nhân luật và cao học tiến sĩ kinh tế
Đại học Luật khoa Sài G̣n (1963), thẩm phán
Ṭa Án Quân Sự, Đại tá Chánh thẩm Ṭa Án
Đặc Biệt (1966-1968), Cố vấn ngoại giao
tại Paris (1968-1974), Nha Thông Tin Báo Chí Bộ Ngoại
Giao (1974-1975), Sau năm 1975, ông bị đưa đi tù
cải tạo (1975-1985), rồi sau đó sang định
cư tại Maryland, Hoa Kỳ từ năm 1990. Ông
từng là Chủ tịch Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính
Trị vùng Hoa Thịnh Đốn, nguyên Phó Chủ
Tịch Ngoại Vụ Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính
Trị, nguyên Chủ Tịch Cộng Đồng VN vùng
Hoa Thịnh Đốn (1996-1998). Ông c̣n viết nhiều
bài khảo luận về kinh tế, chính trị
được phổ biến rộng răi. Ban biên
tập nhật báo Cali Today hân hạnh giới thiệu
bài viết này đến qúy độc gỉa.
Những
đoạn viết sau đây sẽ tŕnh bày một
số sự kiện chính trị đưa dẫn đến
việc những quân nhân VNCH bị Hà Nội tập
trung cải tạo, mô tả chính sách cải tạo
của CSVN sau năm 1975 và sau cùng đề cập
đến thiện chí của Hoa Kỳ trong việc
giải thoát tù cải tạo và cho họ cùng gia đ́nh
sang sinh sống tại Hoa Kỳ và tại những nước
dân chủ trên thế giới.
I
– GIAI ĐOẠN LỊCH SỬ CHUNG CỦA HOA KỲ VÀ
VIỆT NAM
Hoa
Kỳ can thiệp vào Việt Nam kể từ thập niên
1940 nhưng sự can thiệp này chỉ trở thành tích
cực bắt đầu từ thập nhiên 1950. Sau khi
Thế Chiến 2 chấm dứt và cục diện chính
trị thế giới đă h́nh thành rơ rệt với
hai khối Tự Do và Cộng Sản ḱnh chống nhau
trong một mô thức được goi là Chiến
Tranh Lạnh th́ tại Hoa Kỳ tổng thống D.
Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Đông Dương
không c̣n là chiến tranh thuộc địa mà là
cuộc chiến giữa Cộng Sản và Thế
Giới Tự Do. Từ đó Hoa Kỳ viện trơ
cho Đông Dương càng ngày càng nhiều để
đánh trả lại Việt Minh hầu ngăn
chặn sự bành trướng của phe cộng
sản do Liên Xô và Trung Cộng lănh đạo.
Sau
Hiệp Định Genève 1954
( chia cắt Việt Nam thành 2 miền Nam, Bắc,) Hoa
Kỳ biến miền Nam thành tiền đồn
chống Cộng. T́nh nghĩa đồng minh mặc dù
thắm thiết nhưng tới lúc cần tự ḿnh
đảm nhiệm cuộc chiến, Hoa Kỳ đă không
do dự loại bỏ tổng thống Ngô Đ́nh
Diệm để được rảnh tay mang quân vào
Việt Nam và Mỹ hóa chiến tranh. Ngày
8-3-1965 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đổ
bộ lên Đà Nẵng mà không hề thỏa hiệp
trước với chính phủ Saigon. Số quân Mỹ
tham chiến ở Việt Nam lớn dần theo thời
gian và có lúc đă lên tới nửa triệu người.
Đến
khi Hoa Kỳ cần oanh tạc Bắc Việt th́ họ
lại tạo ra sự kiện tàu Maddox. Tuy nhiên với
những trận mưa bom trên đất Bắc và
những chiến dịch lùng diệt rất quy mô
tại miền Nam, Hoa Kỳ vẫn không đạt
được mục tiêu và bị sa lầy. Số
binh sĩ Mỹ tử trận tại miền Nam càng ngày
càng gia tăng và số phi cơ bị bắn hạ
tại miền Bắc cũng lên cao ( 1621 chiếc
từ 1961 đến 1966 ).
Cuối
năm 1967 nước Mỹ ch́m trong xáo trộn và phân
hóa v́ chiến tranh Việt Nam.Tổng thống Johnson
quyết định ‘’Việt Nam Hóa ‘’ cuộc
chiến . Được tăng cường, quân
lực Việt Nam Cộng Ḥa ( VNCH )lần lượt
thay thế quân lực Hoa Kỳ trong những trách
vụ hành quân quan trọng.
Chiến
tích lẫy lừng nhất của quân lực anh hùng này
là chiến thắng Tết Mậu Thân ( 1968 ) Chiến
thắng này bẻ gẫy kế hoạch tổng
tấn công/tổng nổi dậy của tướng
c.s Vơ Nguyên Giáp và phá tan huyền thoại ‘’bách
chiến bách thắng’’ của quân đội
cộng sản Bắc Việt. Gần 60.000 quận
cộng sản tung vào trận địa đă bị
tiêu diệt hết phần nửa chỉ trong một tháng
giao tranh. Phần c̣n lại bị thanh toán gần
hết khi cuộc chiến chấm dứt. Trong cuộc
chiến khốc liệt ấy, người ta ghi
nhận bên phía VNCH chỉ có 4954 chiến sĩ hy sinh.
Sau
chiến thắng Tết Mậu Thân, quân lực VNCH
tự đảm nhiệm trọng trách tác chiến
để quân Mỹ có thể rút về nước.
Cuộc hành quân thần tốc vào Campuchia để
truy lùng Việt Cộng và tiếp cứu Lon Nol,
chiến dịch Lam Sơn 719 cắt đứt
đường tiếp liệu của cộng sản,
cuộc tử thủ An Lộc được ví như
trận Verdun của Pháp, cuộc tái chiếm cổ thành
Quảng Trị tranh nhau với binh sĩ cộng sản
từng thước đất, đă chúng minh một cách
hung hốn khả năng tác chiến và tinh thần dũng
cảm của quân lực anh hùng ấy.
Song
song với những chiến tích lẫy lừng của
quân đội, công cuộc ‘’B́nh Định và Phát
Triển Nông Thôn ‘’cũng ở trên đà thành công
tốt đẹp. Vào những năm đầu của
thập kỷ 1970, theo cuộc thăm ḍ của Hamlet
Evaluation Survey (HES) do các cố vấn Hoa Kỳ thực
hiện khắp miền Nam Việt Nam th́ trong 1333 xă
ấp cuối cùng do chiến dịch Accelerated Pacification
Campaign (APC) đảm trách, 1035 xả ấp đă có an
ninh và 80% dân số miền Nam đă được
sống trong vùng chính phủ kiểm soát.
Chương
tŕnh Viẽt Nam Hóa Chiến Tranh đang đi vào giai
đọan thành công th́ trên thế giới xảy ra
một biến cố làm cho chương tŕnh này đứt
dọan và cuộc chiến thắng của VNCH bị
bỏ lỡ. Năm 1969, trên sông USSURI , dọc theo biên
giới Đông Bắc Trung Hoa, Liên Xô và Trung Cộng
đă động binh giáp chiến. Sự kiện này
chứng minh cho Hoa Kỳ thấy rằng sự nứt
rạn, từ năm 1953, giữa hai đảng cộng
sản anh em là có thật và Hoa Kỳ đă không
bỏ lỡ cơ hội t́m cách ly gián để làm
suy nhược hang ngũ đối phương.
Chiến
lược toàn cầu của Mỹ thay đổi
từ giờ phút đó. Những cuộc vận động
ngoại giao và chính trị dồn dập xảy ra
nhằm hỗ trợ mục tiêu chiến lược
vừa nói :
-Ngày
9-7-1971 Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được
Chu Ân Lai tiếp kiến.
-Ngày
25-10-1971 tại Đại Hội Đồng thứ 26
của Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ bỏ rơi Đài
Loan để bắt tay với Trung Cộng.
-Ngày
21-2-1972 tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon thăm
viếng Trung Quốc trong 7 ngày.
-Ngày
28-2-1972 Thông Cáo Chung Thượng Hải ra đời.
Tổng thống Nixon tuyên bố đây là ‘’một
tuần lễ’’sẽ làm thay đổi thế
giới ‘’.
Sự
thay đổi thế giới khởi sự bằng
tiến tŕnh rút quân Hoa Kỳ khỏi Việt Nam.Bill
Sullivan, phụ tá của Henri Kissinger tại ḥa đàm
Paris tuyên bố rằng :’’…người Trung Hoa đă
khai thông với chúng ta. Làm cho người Trung Hoa tách
rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phiá chúng ta quan
trong hơn nhiều việc chiến thắng ở
Việt Nam. ‘’
Điều
không may cho miền Nam Việt Nam.là đúng vào lúc chương
tŕnh Việt Nam Hóa Chiến Tranh đang thành công
tốt đẹp th́, trên bàn cờ chính trị
thế giới, Hoa Kỳ thay đổi chiến lược
toàn cầu, c̣n trong nước th́ làn sóng chống
chiến tranh dâng lên như nuớc thủy triều.
Cả một thế hệ xuống đường vào
năm 1968, gồm toàn những thành phần trẻ
mới vào đời, chiụ ảnh hưởng
tiểu thuyết hiện sinh của Hemingway và Fitzerald.
Họ sợ hăi. Một loại sơ hăi đặc
biệt chỉ t́m thấy trong các xă hội giàu có.
Đó là thứ sợ hăi trách nhiệm v́ ham hưởng
thụ và không chịu ràng buộc vào bất cứ
vấn đề ǵ. Hoa Kỳ thay dổi chiến lược
toàn cầu một phần v́ muốn lợi dụng
sự phân hóa trong khối cộng sản quốc
tế nhưng phần khàc cũng tại áp lực
của phong trào phản chiến trong nội địa.
Về
phía miền Nam Việt Nam th́ mặc dầu chiến
đấu oanh liệt và thắng lợi như vậy,
rốt cuộc quân lực VNCH đă phải tủi
hờn ră ngũ để nh́n Việt Cộng chiếm
trọn quê hương. Họ đă là thành phần
phải trả giá đắt nhất cho một sự
phản bội. Họ không thua v́ hèn kém mà thua v́
lộ đồ bại trận đă được
đồng minh Hoa Kỳ vạch sẵn từ lâu.
Vào
giờ phút hấp hối của VNCH, khi nghe Dương
Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều
kiện, 5 vị tướng tài ba và đảm lược
nhất của quân đội đă tuẫn tiết
theo truyền thống hào hùng của ông cha. Đó là các
tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn
4, Lê Văn Hưng, tư lệnh phó Quân Đoàn 4, Lê
Nguyên Vỹ, tư lệnh Sư Đ̣an 5, Trần Văn
Hai, tư lệnh Sư Đoàn 7 và Phạm Văn Phú, tư
lệnh Quân Đoàn 2.Trong hàng sĩ binh sĩ cấp dưới
cũng không ít những tấm gương hiên ngang và
khí phách tương tự. Điểm son này cần ghi
lại cho các thế hệ mai sau v́ là một trong
những nét kiêu hùng của ṇi giống.
II
– TIẾN TR̀NH CẢI TẠO
a/
THỦ ĐỌAN LỪA DỐI THAM ĐỘC CỦA
CSVN:
Khi
đồng minh Hoa Kỳ tháo chạy trước đà
tiến quân của cộng sản Bắc Việt,
họ đă để lại đằng sau 980.000 người
lính của quân lực VNCH, những quân nhân đă
từng sát cánh với binh sĩ Hoa Kỳ bảo vệ
biên cương của thế giới Tự Do.
Vào
giờ VNCH hấp hối thảm cảnh ‘’sống
chết mặc bay ‘’diễn ra vô cùng chua sót. Người
ta dẫm lên nhau chạy trốn cộng sản không
kể ǵ đến sinh mạng và tài sản v́ Hoa
Kỳ không có một chương tŕnh di tản nào tương
xứng với t́nh nghĩa đồng minh. Khởi
thủy Mỹ chỉ muốn di tản 50.000 người.
Vào phút chót số nhân mạng được may
mắn cứu vớt mới nhích lên được con
số 130.000. Họ muốn moị chuyện diễn ra
nhanh chóng cho xong việc.Người ta đoán được
tâm trạng này qua lời nguyền rủa rất tàn
nhẫn của Henri Kissinger :’’ Sao chúng không chết
phứt cho rồi’’( Why don’t these people die fast ? ). Như
vậy,chỉ cần làm một con tính nhỏ người
ta có thể thấy ngay là hơn 800.000 binh sĩ của
quân lực VNCH đă là nạn nhân của chế độ
cải tạo của cộng sản Việt Nam.
Chỉ vài ngày sau khi chiềm trọn miền Nam,
những người cộng sản đă lùa quân nhân,
công chức và thành viên đảng phái quốc gia vào
tù bằng một thủ đoạn vô cùng hèn hạ.
Trong một buổi ra mắt mừng chiến thắng,
tướng cộng sản Trần Văn Trà, chủ
tịch Ủy Ban Quân Quản thành phố Hồ Chí Minh
( Saigon ) với dụng ư hiểm độc đă tuyên
bố trước báo chí một câu mà những người
bị cải tạo không thể nào quên ‘’ Đối
với người Việt Nam không có ai là kẻ
chiến thắng hay chiến bại. Chỉ có đế
quốc Mỹ là bị đánh bại mà thôi.’’ V́
lời tuyên bố đường mật này mà các quân
nhân, công chức và thành viên đảng phái quốc
gia đă tự nguyện đi học tập cải
tạo với số lương thực tự túc là 10
ngày hay 1 tháng tùy theo cấp bậc, chức vụ.
Thế
rồi một tháng trôi qua, không ai được tha.
Khi giải thích sự việc này, bọn cai tù cộng
sản, dương dương tự đắc nói
rằng :’’Đó là nghệ thuật của Cách
Mạng bắt các anh vào tù chứ làm ǵ có chuyện
trả tự do, sau 1 tháng giam giữ, cho các con người
có nợ máu với nhân dân như các anh. Các anh c̣n
phải cải tạo dài dài.’’. Biết ḿnh bị
lừa nhiều người đă tự tử. Môt
số người khác t́m cách trốn trại để
rồi cũng bị bắt lại và đánh chết
thảm thương như những con vật.
Sau
một năm áp dụng lao động khổ sai cho
chế dộ cải tạo, Chính Phủ Cách Mạng Lâm
Thời Cộng Ḥa Miền Nam, trước khi bị Hà
Nội giả tán, công bố chính sách 12 điểm quy
định thời gian cải tạo là 3 năm. Sự
công bố này lại mang hy vọng cho những người
đă mất hết tin tưởng vào viễn ảnh
của một ngày về đoàn tụ với gia đ́nh.
Đến
cuối năm 1978 th́ cái hy vọng mong manh nói trên
lại tan tành ra mây khói.Thời gian cải tạo 3 năm
như lời cộng sản hứa đă chấm
dứt, song chẳng thấy ai được tha
về.Trái lại, trong thời gian này, đa số
đă bị lưu đầy lên những vùng rừng
núi Bắc Việt ma thiêng nước độc
với thân tàn ma dại và tinh thần sa xút đến
cùng cực. Một làn sóng tự tử thứ hai
lại xảy ra, nhưng lần này bên cạnh
những xác chết v́ thất vọng c̣n có thêm
nhiều xác chết khác v́ đói khát và bệnh
tật.
Vợ
con của những người bị bắt đi
cải tạo cũng trở thành nạn nhân của các
biện pháp kỳ thị và ngược đăi. Họ
bị đuổi khỏi nơi cư trú và phải
đi vùng kinh tế mới giữa những rừng núi
hoang vu không có một chút tiện nghi tối thiểu
cần thiết cho đời sống. Con cái họ
bị kỳ thị gắt gao khi thi cử và không
được phép vào đại học. Nhà cửa
của họ bị cán bộ cộng sản chia nhau
chiếm đoạt, tiền bạc của họ ở
ngân hàng cũng không được phép lấy ra. Trong
cơn túng quẫn những phụ nữ trẻ đẹp
đă bị dồn vào thế làm lẽ mọn cho cán
bộ cộng sản để có phương tiện
nuôi thân và nuôi con c̣n nhỏ dại. Những người
khác, rủ nhau chạy ùa ra biển, đem sinh mạng
của chính ḿnh và của con cái ḿnh để đổi
lấy tự do. Phong trào ‘’thuyền nhân tị
nạn cộng sản ‘’ đă đánh động lương
tâm nhân loại v́ trong số hàng triệu ngựi
liều chết ra đi, gần một phần nửa
đă nằm trong bụng cá hoặc làm mồi cho
hải tặc.
b/NHỮNG
CHẶNG ĐƯỜNG CẢi TẠO ( KINH NGHIỆM
BẢN THÂN )
–
Những ngày đầu giam lỏng : Sau khi tŕnh diện
để được ‘’học tập cải
tạo’’chúng tôi được chở bằng xe bus
đến Long Thành. Nằm trên đường Saigon-Vũng
Tầu, không cách xa thị xă Biên Ḥa là bao nhiêu,
trại giam Long Thành là một cô nhi viện cũ
bị cộng sản trưng dụng làm nhà tù.
Trong
những ngày đầu, chúng tôi tương đối
được tự do, ăn uống không thiếu
thốn v́ ngoài lương thực mang theo 1 tháng chúng tôi
c̣n có thể mua thực phẩm tại căng tin
của trại. Chúng tôi cũng chưa phải lao động
mả chỉ phải học tập 10 bài chính trị và
viết tự kiểm. Các bài học chính trị là
những tài liệu đơn giản kể tội
Mỹ-Ngụy, tuyên truyền lư thuyết cộng
sản và phổ biến chính sách khoan hống nhân
đạo của chính phủ cách mạng. Những
buổi học tập này nhằm gieo vào đầu óc
chung tôi mặc cảm tội lỗi để chúng tôi
nhận tội và an tâm cải tạo lâu dài. Thỉnh
thoảng cũng có cán bộ cao cấp từ trung
ương về thuyết tŕnh những đề tài
chính trị và quân sự có tính cách vừa khoe khoang
vừa đe dọa.
Cái
mà những người cộng sản muốn đạt
được không phải là vấn đề cải
tạo chúng tôi thành những người ủng hộ
chế độ mà chủ yếu là khai thác chúng tôi
qua những bản tự kiểm để biết thêm
tin tức về các mặt t́nh báo và tài nguyên của
miền Nam. Trong thời gian làm tự kiểm cán bộ
cộng sản đối xử với chúng tôi rất
ḥa nhă và tử tế. Họ khuyến khích khai thành
thật với bằng chứng cụ thể và tố
cáo thật nhiều để đái công chuộc
tội với cách mạng. Phải nh́n nhận rằng
về mặt khai thác này những người công an
cộng sản rất lành nghề và làm việc có
hiệu qủa cao.
Sau
một tháng cải tạo không ai được tha .
Đợt tha đầu tiên, gồm một số ít người
có gia đ́nh biết chạy chọt tiền bạc,
chỉ xảy ra vào đầu năm 1976 trước
khi chúng tôi bị lưu đầy ra Bắc. Chiến
dịch lưu đầy này được cộng
sản chuẩn bị chu đáo v́ họ có thời
gian một năm để xắp xếp và thực
hiện. Các trại tù miền Bắc được xây
cất thêm hoặc dồn lại để có chỗ
tiếp nhận chúng tôi.Phương tiện chuyên
chở th́ gồm vừa hàng không vừa hàng hải.
Chuyến máy bay duy nhất chở tù chính trị ra
Bắc nhằm mục đích quảng cáo cho chế
dộ và đánh lừa dư luận để người
ta không để ư tới những chuyến hải hành
khủng khiếp tiếp theo.
Sau
khi những quân nhân và công chức cao cấp của
VNCH đuợc chở bằng máy bay đi rồi chúng
tôi được di chuyển từ Long Thành lên
trại giam Thủ Đức. Cảnh tù đầy
đầu tiên đến với chúng tôi tại
trại giam này.Chúng tôi bị lùa vào những pḥng giam
chật chội thiếu vệ sinh, có cửa sắt khóa
chặt dưới con mắt kiểm soát cú vọ
của những người công an cộng sản
với nét mặt căm thù và hống hách. Hai tháng không
hoc tập, không lao động, chỉ ngồi ăn làm
cho số lương thực dự trữ cuả chúng
tôi dần dần khô cạn. Viễn tượng đói
khát bắt đầu xâm chiếm tâm hồn nhưng
mỗi người trong chúng tôi cứ phải thúc
thủ với ư nghĩ riêng của ḿnh mà không dám chia
sẻ với ai v́ sợ bị gán cho tội nói
xấu chế độ. Chúng tôi ư thức rằng
cuộc đời phiêu lưu gian khổ sẽ bắt
đầu từ đây.
–
Chuyến hải hành khủng khiếp :Thế rồi
việc ǵ phải đến đă đến. Tại
trại giam Thủ Đức, một đêm, chúng tôi
bị đánh thức dậy, nhận lệnh sắp
xếp quân áo để chuyển trại, bị c̣ng
tay và chở bằng xe hơi lên bến Tân Cảng
Saigon. Tại đây một chiếc tàu thủy to
lớn đă chờ sẵn. Chúng tôi bị lùa vào
những hầm tâu dành cho súc vật, nằm chờ tàu
nhổ neo để bắt đầu chuyến hành tŕnh
ra Bắc.Bóng tối của hầm tàu che dấu
những giọt nước mắt tuôn ra v́ lo sợ,
đau buồn và tủi nhục.
Trong suốt ba bốn ngày đêm lênh đênh trên
mặt biển chúng tôi phải thu hết can đảm
và nghị lực để chịu đựng sự
tanh tưỏi và hôi hám của hầm tàu. Ban đêm
hầm tối đen như mực. Ánh sáng chỉ
lọt qua những kẽ hở khi mặt trời ló
rạng. Khi tàu chuyển máy ra khơi, phần đông
anh em tù nhân bị say sóng và nằm mê man bất
tỉnh. Cao điểm của cảnh khổ cực này
xảy ra chỉ một ngày sau khi chuyến hải hành
khởi sự. Ví say sóng, nôn mửa và bài tiét
nhiều nên lượng bài tiết lớn hơn
những thùng chứa đựng khiến phân và nước
tiểu cứ tự do đào thoát ra ngoài và len lỏi
vào chỗ nằm của các tù nhân mỗi khi tàu chao
đảo.
Khi tàu cập bến Hải Pḥng, mở nắp hầm
ra, những người cai tù sa sẩm mặt mày v́ mùi
hôi thối sông lên nồng nặc. Họ tức
tốc đóng cửa hầm lại, đi lấy
khẩu tranh đeo vào mũi miệng rồi mới
tiếp tục công việc chuyển tù lên đất.
Riêng đối với tù nhân th́ khi bước ra
khỏi hầm tầu ai cũng có cảm giác như
vừa từ địa ngục được bước
lên thiên đàng, một cảm giác chết đi
sống lại.
Thoát
được cảnh hầm tàu hôi hám chúng tôi
liền bị c̣ng tay và nhồi nhét vào những
chiếc xe hơi bịt bùng không cho nh́n thấy
cảnh vật bên ngoài. Xe chạy rất lâu trong đêm
tối. Măi gần sáng chúng tôi mới được
lệnh ra khỏi xe và nhập trại. Những người
công an canh gác cho chúng tôi tắm rửa ngay ở
miệng một giếng nước, giặt rũ qua
loa rồi hối thúc chúng tôi vào những pḥng giam kiên
cố cuả nhà tù. Sau khi cửa sắt đóng
lại và khóa chặt, họ nói vọng vào từ bên
ngoài : ‘’Các anh đến đây an toàn rồi, bây
giờ chỉ c̣n việc an tâm cải tạo để
chờ ngày được chính phủ khoan
hồng’’. Nói xong họ bỏ đi chỉ c̣n
lại hai người công an trẻ cầm sung gác.
Hói
thăm hai người công an trẻ chúng tôi được
biết trai này là trại Quảng Ninh, nằm trên
rừng núi cao và nh́n ra vịnh Bắc Việt. Trại
này hoàn toàn cách ly khỏi xă hội bên ngoài v́
đường giao thông rất khó khăn. Xă hội
thu hẹp của chúng tôi bây giờ chỉ gồm có
ba thành phần :nhóm tù cải tạo chúng tôi mới
đến, những người tù h́nh sự bị
giam giữ từ lâu và những người cai tù có
nhiệm vụ canh giữ.
Ngày
đầu tiên đến trại Quảng Ninh, chúng tôi
có cảm tưởng h́nh như thời gian trôi nhanh hơn
thường lệ.Mới sáng đấy mà đă
tối ngay. Khí lạnh của độ cao rừng núi
thấm vào pḥng giam và vào cơ thể con người.
Khi màn đêm đổ xuống, trong pḥng ch́ c̣n
lại một ngọn đèn dầu leo lắt và
những tiếng thở dài năo nuột trong im lặng
buồn tanh và ghê rợn.
–
Tiến tŕnh diệt chủng bắt dầu : Sáng hôm
sau chúng tôi bị phân chia thành đội để
bắt đầu làm quen với lao động. Mỗi
đội, 30 người, do một đội trưởng
là tù nhân và một quản giáo là cán bộ công an
phụ trách.Khi đội đi lao động , công an vác
súng đi kèm.
Trong
những ngày đầu chúng tôi chỉ phải lao động
nhẹ chẳng hạn như trồng rau hoặc
cuốc sắn gần khu trại giam. Dần dần chúng
tôi phải đi xa và phải lao động nặng
nhọc hơn chẳng hạn như vào rừng lấy
gỗ làm nhà. Sau nhiều ngày làm quen với khung
cảnh sinh hoạt trong trại chúng tôi thấy
rằng mỗi trại tù cộng sản là một
đơn vị kinh tế độc lập. Tù nhân
phải lao động để nuôi cán bộ canh
giữ ḿnh, để xây trại giam hăm ḿnh và để
cung cấp tiện nghi cho khu gia đ́nh là khu vợ con cán
bộ ở. Nhà nước không cần chi phí ǵ
nhiều cho trại tù nên nếu nói rằng dưới
các chế độ cộng sản nhà tù nhiền hơn
trường học th́ cũng không có ǵ đáng
ngạc nhiên.
Bị
lưu đầy ra Bắc chúng tôi mất hết liên
lạc với gia đ́nh, cho nên mọi nguồn
tiếp tế lương thực đều bị
cắt đứt. Lao động cả ngày mệt
nhọc, chúng tôi chỉ được trại cho ăn
2 bữa, với mỗi bữa hai chén cơm đầy
sạn thóc và một ít rau muống luộc.Ngoài hai
bữa cơm ra chúng tôi không có thứ ǵ khác để
nuôi sống cơ thể. Mỗi ngày anh em tù nhân nh́n
nhau chỉ c̣n biết thở dài.Ai cũng gầy
ốm đi trông thấy.
Ở
trại Quảng Ninh chừng hơn một tháng, tôi và
một số tù nhân khác bị chuyển đi trại
Thanh Cẩm. Trại này nằm trong vùng Bái Thượng,
trên thượng nguồn sông Mă, sau những giẫy núi
Lam xanh biếc.Từ trại sang biên giới Lào ước
lượng chỉ vài cây số. Đến đây chúng
tôi bị giam chung với khoảng 700 anh em tù chính
trị khác và trong trại cũng có cả một
số tù h́nh sự. Tôi bị giam ở trại này liên
tục cho đến ngày được tha về.
Tại
trại Thanh Cẩm, chế độ lao động c̣n
khắt khe và nặng nhọc hơn ở trại
Quảng Ninh. Dưới mũi súng canh gác của công
an gốc dân tộc Mường, chúng tôi phải đi
rất xa để lấy cát làm nhà. Mỗi chuyến
vừa đi vừa về vào khoảng 3 cây số.
Mỗi ngày phải đi ba chuyến mà chỉ
đươc ăn có 4 chén cơm với vài cọng
rau muống luộc th́ sức nào chiụ
nổi.Nếu đội nào không đi xe cát th́
phải xe đá hoặc vào rừng đẵn luồng
vác về cho cán bộ làm nhà. Những người lao
động ở trại cưa, trại mộc cũng
không sung sướng ǵ hơn. Cả ngày quần nhau
với những cây gỗ lớn, cưa sẻ liên
hồi hoặc đục đẽo luôn tay thi lấy năng
lượng đâu mà bù đắp. Cuốc đất
trồng khoai ngô mới là mệt v́ đất núi
bạt ngàn mà nhân công th́ thưa thớt. Ấy là chưa
kể nhũng vụ gánh phân đi bón nặng gẫy sương
sườn và chốc lở sương vai.
Sức
người có hạn c̣n nhu cầu của trại th́
mỗi ngày môt tăng thêm. Bên cạnh những cái
chết v́ tại nạn lao động như bị
đá núi đè, lợp nhà té xuống đất hay
bị cây luồng đâm thủng bụng, dần
dần người ta thấy xuất hiện những cái
chết v́ đói, v́ thiểu lực.Sau hơn ba năm
bị lưu đầy ra Bắc anh em tù nhân chôn nhau, v́
chết đói, đă chật cả một phần
đồi sắn. Có một thời gian, trong tâm tư
và trước mắt mọi người cái chết
đă trở thành quen thuộc, không gây sợ hăi và cũng
không gây súc động. Tù nhân chờ đợi
Thần Chết đến thăm như chờ đợi
một sự giải thoát.
Chính
sách bắt lao động khổ sai kết hợp
với bỏ đói là phương cách giết người
tinh vi và thâm độc của những người
cộng sản. Đó là sự nhẫn tâm và tàn ác
nhất mà con người có thể đối xử
với con người.
–
Một vài cảnh đói ngoài tưởng tương
: Xin kể ra đây vài cảnh đói mà người b́nh
thường sống ngoài xă hội, cho dù óc tưởng
tượng có xúc tích đến đâu, cũng không
thể nào nghĩ tới :
Một
hôm nhân lúc đội tù đang lợp nhà, th́nh ĺnh
anh em tù nhân phát giác một ổ rắn dưới
tấm lá tranh. Tức th́ một anh hô to ‘’Rắn,
Rắn’’. Tiếng hô vừa rứt, đám tù nhân
nhanh như cắt đă vây quanh ổ rắn và chỉ
trong nháy mắt, bằng tay không, các anh đă bắt
hết những con rắn độc, bẻ cổ
vứt đi và nhét phần c̣n lại vào túi áo. Trong
giờ giải lao, được phép của cán bộ
canh giữ, các anh đă nổi lửa rồi đem
rắn ra nướng và ăn ngon như chưa bao
giờ ngon thế. Không phải chỉ có rắn mà
cả rết, cả chuột, cả cóc nhái, sên
ốc…nghĩa là tất cả những con ǵ cử
động mà để cho các anh trông thấy th́ đều
chịu chung một số phận.
Một
hôm khác, nhân ngày Chủ Nhật, không phải lao động,
các tù nhân ôm bụng đói đang thiu thiu ngủ th́
một anh nghe tiếng chuột con kêu trên mái nhà. Không
bỏ lỡ cơ hội, anh liền chồm giậy,
gọi thêm 2 người khác rồi cả ba, khiêng bàn,
công kênh nhau lên bắt chuột. Họ bắt được
một ổ chuột con hăy c̣n đỏ hỏn, chia
nhau ăn sống như nhai những củ sâm.Mặc
cho máu mê trào ra ngoài miệng trông như ác qủy, các
anh thản nhiên nhai ngấu nghiến như không màng ǵ
tới hoạt cảnh ghê rợn tạo nên.
Một
buổi chiều sau khi đi lao dộng về, chúng tôi
thấy một anh bạn tù nhân sắp chết đói
đang ngồi bên một ḍng nước tiểu
chảy ta từ phía những thùng phân nổi trong
cầu tiêu. Nh́n kỹ thấy anh đang bắt mấy
con kiến, tha những mảnh ngô chưa tiêu kịp,
di chuyẻn từ cầu tiêu về tổ. Anh lượm
những mảnh ngô đó bỏ vào mồm rồi tha
cho những con kiến để chúng tiếp tục làm
công việc vận tải mà anh thèm muốn. Chương
tŕnh cướp ngô của kiến anh chỉ thực
hiện được có một ngày. Ngày hôm sau anh trút
hơi thở cuối cùng v́ quá đói.
Bằng
chính sách bỏ đói kết hợp với lao động
khố sai những người cộng sản đă
giết tù cải tạo mà không cần đem ra trường
bắn, không cần nhốt vào ḷ hỏa thiêu như người
Đức Quốc Xă đă làm. Họ cũng chẳng
cần tạo ra những cảnh ‘’tắm máu’’ làm
ǵ.
–
Một chuyện tù vượt ngục : Trại cải
tạo Thanh Cẩm có một khu kiên giam dành cho những
thành phần được cộng sản coi là đặc
biệt nguy hiểm. Những người bị giam trên
khu này không phải lao động nhưng bị cùm chân
ban đêm khi đi ngủ. Có một thời gian, tôi cũng
là một tù nhân của khu vực kiên giam này. Nhờ
không phải lao động nên tôi mới sống sót
đến ngày nay. Tại đây tôi c̣n giữ lại
một kỷ niệm hăi hùng mà suốt đời không
bao giờ quên được, kỷ niệm liên quan
đến một chuyện tù vược ngục.
Là
những tù nhân không có ngày về và bị bỏ đói
triền miên hết ngày này qua tháng khác, chúng tôi cam tâm
kéo dài cuộc sống bị đầy ải và hoàn
toàn tuyệt vọng giữa rừng núi hoang vu của
biên giới Lào-Việt. Khi màn đêm đổ
xuống, khu kiên giam lạnh lẽo và tĩnh mịch,
nặng nề như một nhà quàn chất chứa
những xác người chưa chết. Ban ngày, chúng tôi
đau đớn nh́n nhau như nh́n những bộ xương
khô biết cử động.Viễn tượng
của ngày xum họp với gia đ́nh, từ lâu,
đă hoàn toàn tan biến. Tương lai duy nhất c̣n
lại là sự chờ đợi ngày về với
tổ tiên.
Thế rồi, một biến cố kinh hoàng đă
xảy ra. Đêm ấy là đêm 1 tháng 5 năm 1979,
đêm liên hoan của cộng sản nhân dịp lễ
Lao Động. Bọn công an trẻ thuờng chểnh
mảng trong nhiệm vụ canh gác mỗi khi có liên
hoan. Bỗng nhiên trong bầu không khí tĩnh mịch
của đêm khuya, chúng tôi nghe phát ra từ pḥng giam bên
cạnh, một âm thanh đào tường đều
đều như máy chạy. Thỉnh thoảng lại
có tiếng người rầm ŕ động viên nhau như
hối giục.
Chúng
tôi hiểu ngay đó là một kế hoạch trốn
trại đang được tiến hành. Trong cơn
tuyệt vọng, các anh mới đến từ
trại Quyết Tiến, đang chọn đi vào
chỗ chết để t́m đường sống.
Mọi người trong pḥng giam bên này đều
nhắm mắt cầu nguyện cho các bạn đó thành
công.
Đêm
càng khuya chúng tôi càng hồi hộp. Âm thanh đào tường
nghe mồi lúc môt yếu dần. Gà bắt đầu gáy
sáng mà âm thanh vẫn c̣n tiếp tục.Khi âm thanh
chấm dứt th́ ánh nắng đă luồn qua khung
cửa sắt chật hẹp của pḥng giam.
Đang
lo lắng cho số phận của mấy anh em trốn
trại, chúng tôi giật ḿnh v́ những tiếng súng báo
động nổ rến. Rồi tiếng chân người
xô chạy về thượng nguồn song Mă xen lẫn
với những tiếng la hét vọng lại từ xa.
Trong pḥng lúc đó không biết ai đă thở dài và
thốt ra hai tiếng ‘’thất bại’’. Chúng tôi
đau đớn chia sẻ sự thất bại đó
và lo sợ đến tột cùng khi nghĩ tới
những biện pháp trả thù của bọn công an
cộng sản trong cơn tức giận.
Khi
trời sáng hẳn, pḥng giam của những người
trốn trại bị công an lục soát rất kỹ.
Một tên công an thản nhiên nói với đồng
bọn :’’Thằng Tiếp chết rồi ‘’. Anh
Đặng văn Tiếp là một cựu trung tá
của không lực VNCH và dân biểu quốc hội trước
khi miền Nam sụp đổ.Nghe hung tín đó chúng tôi
đau đớn lặng người. Những giọt
nước mắt từ từ lăn trên g̣ má như
một lời vĩnh biệt. Tất cả các anh khác
bị bắt lại hết và bị đánh đập
tàn nhẫn. Hai ngày sau, anh Lâm Thành Văn chết theo anh
Tiếp. Riêng cha Nguyễn Hữu Lễ may mắn
sống sót dù bị đả thương rất
nặng. Sau 13 năm cải tạo, linh mục Lễ
hiện đang phụ trách một họ đạo
ở Tân Tây Lan.
Bài
học của Bắc Kinh : Vào khoảng đầu năm
1979, tại trại Thanh Cẩm, anh em tú cải tạo
chết đói khá nhiều. Trong khi ai cũng cam tâm
chờ chết th́ một đêm chúng tôi nghe thấy
những bài b́nh luận lạ tai phát ra từ những
loa tuyên truyền ngoài cổng trại. Sau nhiều ngày
theo dơi tin tức chúng tôi được biết
giữa Hà Nội và Bắc Kinh đang có sự xích mích
nặng nề.
Bắc
Kinh đang chuẩn bị cho Việt Nam một bài
học. Một quân đoàn Trung Cộng, trải dài trên
600 cây số tại biên giới phía Bắc sẽ xâm lăng
Việt Nam và sẽ tiến vào Hà Nội trong vài ngày.
Không khí chiến tranh bao chùm cả nước. Lệnh
tổng động viên được ban hành và bộ
đội đang di chuyển cấp tốc từ
Campuchia về biên giới Việt-Trung. Các trại
cải tạo nằm sát biên giới như Quyết
Tiến, Phong Quang…được di tản sâu vào
nội địa. Trại Thanh Cẩm phải nhận
thêm một số tù nhân đến từ trại
Quyết Tiến.
Chiến
tranh đă thật sự xảy ra nhưng quân Trung
Cộng, sau khi làm cỏ, mấy tỉnh miền biên
giới, chỉ tiến đến Việt Tŕ rồi rút
về nước. Hà Nội không bị bao vây và công hăm.
Bài
học của Bắc Kinh đă cứu sống rất
nhiều tù cải tạo, đó là điều mà ít người
biết tới.V́ có bài học này nên chính sách cải
tạo khắc nghiệt của Hà Nội có đôi
phần nới lỏng. Sau 4 năm bị cắt đứt
mọi liên lạc với gia đ́nh, chúng tôi được
viết thư và nhận đồ tiếp tế
trở lại. Không những thế, gia đ́nh c̣n
được phép đến trại thăm gặp và
trong vài trường hợp đặc biệt tù nhân
cải tạo c̣n được phép ở lại
suốt đêm ngoài nhà khàch để sinh hoạt
với gia đ́nh.
Một
chuyện khác mà không ai ngờ tới là những gói qùa
tiếp tế không những đă cứu sống chúng
tôi khói chết đói mà cón cho chúng tôi cơ hội
cải tạo những bộ óc chậm tiến của
những người tự cho có nhiệm vụ cải
tạo chúng tôi.
Mỗi
đợt khám quà của tù nhân là một dịp để
các cán bộ làm quen với thế giới bên ngoài qua
những đồ tiếp tế.Lần đầu tiên
khám qùa một anh cán bộ trẻ thấy một gói
lạp xưởng đ̣i tịch thu.Chúng tôi hỏi
tại sao th́ được trả lời
:’’Tịch thu, v́ các anh không được phép mang
nến ( đèn cày) vào trong trại’’. Tội
nghiệp, từ bé tới lớn anh chưa được
ăn lạp xưởng bao giờ nên tưởng
lạp xưởng là đền cày.
Những
thứ lạ mắt như những cuốn giấy
vệ sinh trắng muốt, những chai sà bông nước,
những lon cà phê-sữa bột, những viên thuốc
Tây xanh đỏ đựng trong những lọ có
nắp khó mở….đều là những thứ mà
trại thấy cần phải giữ lại để
nghiên cứu. Sau này khi biết những thứ đó không
có ǵ nguy hiểm và thỉnh thoảng lại được
chúng tôi ‘’kỷ niệm’’(nghĩa là cho theo ngôn
từ cộng sản) các công an trẻ dần dần làm
thân và thường muốn nghe chúng tôi kể những
chuyện của thế giới bên ngoài, trong giờ lao
động. Kỷ luật trại giữa cán bộ và
tù nhân cũng không c̣n gay gắt như trước
nữa.
Ngày
một số anh em chúng tôi được trả
lại tự do ( 1985 ) những người công an
trẻ đến chia tay bằng một câu nói cảm
động :’’Thôi các anh về mạnh khoẻ
rồi đi ngoại quốc. Chúng tôi th́ c̣n ở
đây chưa biết đến bao giờ.’’. Ngay lúc
đó chúng tôi chưa nắm bắt được thông
điệp ‘’rồi đi ngoại quốc ‘’ nhưng
chúng tôi hiểu ngay rằng những thanh niên cộng
sản đó đă bắt đầu tỉnh ngộ
sau thời gian mấy năm được chúng tôi
cải tạo.
III
– CHIẾN DỊCH GIẢI THOÁT TÙ CẢI TẠO
Có
một thời gian, công an trại thường chỉ
mặt chúng tôi và hăm dọa nhiều lần :’’
Nếu bọn Mỹ không chịu bồi thường 3
tỷ 2 th́ các anh sẽ c̣n cải tạo mút mùa.’’.
Câu hăm dọa này không làm chúng tôi lo sợ mà, trái
lại, làm chúng tôi mừng thầm v́ đoán rằng
có thể ở bên ngoài xă hội đang diễn ra
một cuộc thương lượng giũa Hoa
Kỳ và Việt Cộng để giải thoát chúng tôi
khỏi cảnh tù đầy. Cho dù đây chỉ là
một hy vọng rất mong manh nhưng chúng tôi cứ
bám viú lấy nó như người sắp chết
đuối vớ được cọc, để có lư
do và can đảm tiếp tục cuộc sống.
Thế rồi, không bao lâu sau, sự ước đoán
của chúng tôi được thân nhân vào thăm xác
nhận là đúng. Từ đó, trong ḷng chúng tôi, ngày
nào cũng như mở hội. Hy vọng được
về xum họp với gia đ́nh có nhiều triển
vọng trở thành sự thật.
Tôi
được trả tự do vào cuối năm 1985,
sau 10 năm 4 tháng 10 ngày bị cộng sản bỏ tù.
Hội nhập lại vào xă hội bên ngoài, tôi
được biết vào năm 1976, Kissinger đă tuyên
bố :’’Hoa Kỳ đang chuẩn bị b́nh thường
hóa bang giao với Việt Nam ‘’. Việc b́nh thường
hóa bang giao không thành v́ trong cuộc đàm phán ở
Paris vào đầu năm 1977 Hà Nội khăng khăng
đ̣i Hoa Kỳ phải trả 3250 triệu Mỹ Kim
để bồi thường chiến tranh. Lẽ
cố nhiên là Hoa Kỳ bác bỏ đ̣i hỏi vô lư
đó v́ Hà Nội đă không tôn trọng hiệp
định Paris năm 1973.
Nền
kinh tế của Việt Nam mỗi ngày một sa sút.
Sự vô hiệu của kinh tế hoạch định
và t́nh trạng sa lầy trong chiến tranh Campuchia
khiến chế độ Hà Nội đứng trên
bờ vực thẳm. Trung Cộng đă trở thành thù
nghịch c̣n Liên sô th́ cũng đang gặp khó khăn
nên không biết nương tựa vào ai. Hoa Kỳ là
sinh lộ duy nhất c̣n lại. Làm găng không
được, Hà Nội bắt đầu đấu
dịu.
Đầu
thập niên 1980, cả Phạm văn Đồng
lẫn Nguyễn Cơ Thạch đều bắn
tiếng là sẽ thả tù cải tạo nếu Hoa
Kỳ tiếp nhận. Hà Nội dùng tù cải tạo
như phương tiện măc cả để xin
viện trợ của Hoa kỳ. Hoa Thịnh Đốn
đáp ứng và diễn tiến của chiến
dịch giải thoát tù cải tạo được
ghi nhận như sau.
Ngày
11-9-1984 ngoại trưởng George Schultz chính thức yêu
cầu Hà Nội trả tự do và cho phép các tù nhân
chính trị được định cư tại Hoa
Kỳ. Ba tuần sau tổng thống Reagan gủi văn
thư chính thức đến các bộ ngoại giao, an
sinh và tư pháp về việc thâu nhận những người
tù cải tạo Việt Nam.
Hoa
kỳ đồng ư gặp đại sứ Vơ Đông
Giang của Hà Nội tại Nữu Ước. Cuộc
đàm phán tiến hành trong bí mật.
Tháng
7 năm 1988 phái đoàn Robert Funseth, phụ tá thứ trưởng
ngoại gao Hoa kỳ, đi Hà Nội họp với
phụ tá bộ trưởng ngoại giao Việt
Cộng Trần Quang Cơ để bàn về việc
trả tự do cho tù chính trị và đưa họ
đi định cư tại ngoại quốc.
Ngày
30-7-1989, ông Robert Funseth và Vũ Khoan, thứ trưởng
ngoại giao Việt Cộng kư kết tại Hà Nội
văn kiện về việc định cư tù
cải tạo.
Qua
thỏa hiệp này 3000 tù cải tạo và gia đ́nh
đă đến Hoa Kỳ trong những tháng đầu
tiên của năm 1990. Chương tŕnh định cư
này trù liệu đưa ra nước ngoài 400.000 người
th́ 20% đă đến bến tự do năm 1990, 30% năm
1991, 30% năm 1992, 10% năm 1993 và 10% c̣n lại vào
những năm kế tiếp.
Dựa
theo các tài liệu đáng tin cậy người ta cũng
được biết là trong số quân nhân VNCH
được sang Mỹ định cư sau thời
gian cải tạo th́ 61% là cấp úy, 35% là cấp tá và
tướng và 4% là viên chức chính phủ.
Con
số những người chết trong các trại
cải tạo chưa được xác định là
bao nhiêu. Tài liệu của Khu Hội Tù Nhân Chính
Trị Hawaii, thiết lập ngày 20-4-1993 đưa ra
một con số rất thiếu sót là 587 người.
Đây chỉ là một phần nhỏ của số
‘’tử vong v́ cải tạo’’ trong thực tế.
Cũng
theo một tài liệu khác chưa dầy đủ th́
số trại cải tạo CSVN thiết lập trên toàn
quốc sau năm 1975 là 80 trại ( bao gồm cả 2
trại ở các đảo Côn Sơn và Phú Quốc ).
Quyết
định của Cộng Sản Việt Nam đưa
quân cán chính VNCH đi cải tạo lâu dài sau năm
1975 là một sai lầm trầm trọng. Sau khi chiếm
miền Nam, đáng lư ra Hà Nội phải biết
lợi dụng thời kỳ vàng son này để ḥa
hợp ḥa giải dân tộc và xây dựng tương
lai phồn thịnh cho đất nưốc.
Giữa
tháng 5-1975, bộ trưởng ngoại giao 5 nước
ASEAN họp thường niên tại Kuala Lumpur đă bày
tỏ ư muốn thiết lập bang giao với các nước
Đông Dương. Trong thông cáo chung ngày 24-7-1975 Phi
Luật Tân và Thái Lan minh định rơ là các căn
cứ quân sự của nước ngoài trong khu vực
chỉ là tam thời và khối SEATO sẽ giải tán.
Vào
thời gian đó Nhật cũng trù liệu một ngân
khoản 1600 triệu Mỹ Kim để giúp 5 nước
ASEAN và 3 nước ĐÔNG DƯƠNG xây dựng khu
thịnh vượng chung Đông Nam Á. Tiếp theo, tháng
8 năm 1977, Nhật lại kêu gọi sự hợp tác
thân hữu giữa các nước trong vùng kể
cả Miến Điện, và hứa viện trợ 5
tỷ Mỹ Kim cho kế hoạch phát triển Đông
Nam Á tành một khu vực phồn vinh.
Sau
khi gia nhập Liên Hiệp Quốc, Việt Nam c̣n
được gia nhập Quỹ Tiền Tệ Quốc
Tế với một khoản vay mượn đầu
tiên là 35 triệu Mỹ Kim. Ngân Hàng Thế Giới cũng
xúc tiến kế hoạch giúp đỡ Việt Nam phát
triển kinh tế thời hậu chiến. Thừa
kế chỗ trống của VNCH, Hà Nội c̣n là
hội viên của ngân hàng phát triển Á Châu.
Trong bối cảnh đó nếu không có chính sách
cải tạo sai lầm th́ nhân dân hai miền Nam
Bắc đă cùng dồn nỗ lực vào việc hàn
gắn vết thương chiến tranh, thực
hiện việc hoà hợp ḥa giải dân tộc để
nhanh chóng đưa đất nước đến
cảnh phú cường.
Bị
Hoa Kỳ giăng bẫy CSVN đă xé bỏ hiệp
định Paris và xâm chiếm miền Nam để
rồi liền sau đó lại bị Trung Cộng giăng
bẫy nhử sang Campuchia và bị sa lầy ở đó.
Hậu qủa của những quyết định mù quáng
này là một nước Việt Nam kiệt quệ và
tụt hậu, cam tâm làm chư hầu một lúc cho hai
thế lực thù địch. Cắt đất dângTrung
Quốc để duy tŕ mạng sống chính trị và
qùy gối ôm chân Hoa kỳ để kiếm miếng
ăn. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc
lại có một tḥi kỳ nhục nhă như hiện
nay.
Đối
với Hoa Kỳ, bỏ rỏi miền Nam Việt Nam
trong trận đồ quốc tế để thắng
Liên Xô và làm tan ră khối cộng sản là một
vấn đề chiến lược. Tiến hành
chiến dịch giải thoát tù cải tạo Việt
Nam để họ được sang sinh sống và
đoàn tụ tại Hoa Kỳ là một vấn đề
của lương tâm. Đứng về phương
diện quyền lơi cuả Hiệp Chủng Quốc
mà xét th́ trong cả hai việc làm này Hoa Kỳ đều
khôn ngoan và thắng lợi.
Nguyễn
Cao Quyền
|