TRÊN
NHỮNG D̉NG SÔNG OAN NGHIỆT
Kính
tặng tất cả quân nhân đă phục vụ
tại Giang-Đoàn 26 Xung-Phong ĐIỆP-MỸ-LINH |
Ánh
nắng mai lấp lánh trên ḍng sông, lung linh trên khóm lá
khi đoàn giang đỉnh thuộc Giang-Đoàn 26
Xung-Phong rời sông Hậu-Giang, rẽ vào kinh Cái
Sắn, đi về hướng Rạch-Giá. Từ
Rạch-Giá, đoàn giang đỉnh lầm lủi
tiến trên sông Cái Lớn, mở đầu cuộc hành
quân dài hạn tại U-Minh. Sau
khi rẽ từ sông Cái Lớn vào Kinh Ngang, đoàn giang
đỉnh phát hiện chướng ngại vật
chận ngang sông, phía trên gắn h́nh đầu lâu và
hai xương chéo nhau. Hai chiếc LCVP (Tiểu-Vận-Đỉnh)
vượt lên, thực hiện công tác gỡ ḿn. Trong
khi đoàn giang đỉnh thả trôi, chờ LCVP
gỡ ḿn, tôi thấy một chiếc tắc ráng
từ trong khóm dừa nước chui ra, chạy
thẳng đến chiếc Command. Trên chiếc ghe bé xíu
ấy, một cô gái cầm chèo. Trong ḷng ghe một người
đàn bà nằm im, bên trên phủ vài nhánh dừa nước.
Nơi mũi ghe, một người con trai ngồi
xếp bằng, trên đầu mang nhiều lớp băng
mà máu đă đặc quánh, trở nên nâu sậm.
Chiếc đầu khổ nạn của người
con trai gục lên vai người đàn ông đứng
tuổi. Hai tay ôm lấy vai nạn nhân, đôi mắt
của người đàn ông hun hút nh́n về rặng
dừa nước phía xa. Trong đôi mắt của người
đàn ông tôi thấy những đớn đau ̣a
vỡ, cuồn cuộn theo từng đường gân máu
nhỏ li ti. Những
nét đớn đau trong đôi mắt của người
đàn ông trên chiếc tắc ráng gợi nơi ḷng tôi
ánh mắt u uất của Ba tôi vào những ngày gia
đ́nh tôi tản cư, nương náu trong mái tranh,
cạnh bờ sông Triêm-Đức. Tôi
không nhớ lúc đó tôi bao nhiêu tuổi; nhưng h́nh
ảnh tôi không thể quên được là mỗi sáng,
Má tôi quảy gánh bún vào bán cho công nhân viên ở công
xưởng. Ba tôi đi làm trong bộ đồ kaki xám,
nón cối, dép vơ xe hơi. Em tôi – Bảo-Ngọc – và
tôi chơi cạnh hầm tṛn, dưới gốc cây
khế, với bốn đứa con của bác Ca. Bác
Ca và Ba tôi thân nhau lắm, thường gọi nhau là
“đồng chí”. Bốn đứa con của bác Ca có
tên mang nhiều ư nghĩa: Khó, Khăn, Khắc,
Phục. Mỗi khi nhà bác Ca có khách, Bác thường
nhờ Má tôi làm bánh flan. V́ là trong thời kỳ
“tiêu thổ kháng chiến” cho nên nhà nào cũng nghèo,
không đủ chén dĩa, Má tôi phải làm nguyên cái flan
trong một dĩa lớn rồi dùng dao xẻ ra
từng phần, tùy theo số lượng khách. Đến
khi ăn, mỗi người dùng một muỗng cà-phê,
ăn phần của ḿnh nhưng chung trong cái dĩa
lớn. Lần nào cũng vậy, khi mỗi người
vừa đưa muỗng xúc phần flan của ḿnh
th́ bác Ca lẹ miệng, phun một băi nước
bọt trên cái flan, ai nấy đều gớm, không
ăn. Bác Ca cười ha hả, ăn một ḿnh. Ba tôi
nói ai cũng giận lắm, nhưng không dám nói ǵ, v́
bác Ca làm đến chức Liên-Khu-Phó lận! Mỗi
chiều, khi mặt trời khuất sau dăy Trường-Sơn,
Ba tôi ngồi nơi vơng, thổi Harmonica. Tối
đến, Ba tôi bảo tôi đóng cửa trước
lại để không ai có thể biết là bác Ca qua
nhà tôi để Ba tôi dạy Bác học Pháp văn. Khi
bác Ca đến, Má tôi, tôi và Bảo-Ngọc phải
ra ngoài sân chơi. Bảo-Ngọc
gần hai tuổi rồi mà chỉ biết ḅ chứ chưa
thể đứng chựng. Má tôi phải cho
Bảo-Ngọc thôi bú sớm, v́ Má tôi ăn uống quá
kham khổ, không có sữa nuôi em. Sáng
nào Ba tôi cũng dặn: “Đừng ham chơi
với mấy đứa con của bác Ca mà bỏ bê
Bảo-Ngọc. Con phải luôn luôn ngồi cạnh em,
hễ nghe tiếng kẻng báo động là ôm em
nhảy ngay xuống hầm tṛn.” Tôi “Dạ,
dạ.” Nhưng tôi chỉ là đứa bé gái tóc
c̣n cắt bum-bê, khi thấy bốn đứa con
của bác Ca chơi búng hột măn cầu, đánh
thẻ, chơi ô, nhảy ḷ c̣, nhảy dây mà tôi không
được chơi, tôi giận Bảo-Ngọc “cành
hông”; v́ nghĩ rằng Bảo-Ngọc là “chướng
ngại vật”. Tôi nạt nộ, cố làm cho
Bảo-Ngọc sợ. Khi nào sợ Bảo-Ngọc cũng
khóc, gọi “Ma! Ma!” Tôi biết ư
Bảo-Ngọc, khi em khóc, em thường buồn
ngủ. Tôi chỉ cần để Bảo-Ngọc lên
vơng, đẩy nhẹ vài lần, hát vài câu bâng quơ
là em ngủ; và tôi rănh rang chơi tất cả mọi
tṛ chơi hấp dẫn với bốn đứa con
của bác Ca. Một
buổi trưa, trong khi tôi đang hăng say “ăn thua
đủ” với bốn đứa bạn về
mấy hột măng cầu đen bóng th́ kẻng báo
động vang lên. Chỉ độ vài tích tắc sau,
hai chiếc máy bay sơn cờ Pháp ào tới, chúc mũi
xuống, nghiêng cánh, thả từng loạt bom xuống
công xưởng. Một trái bom rơi gần xóm nhà
của chúng tôi, tạo sức ép khiến tôi và đám
bạn đều khó thở và bùng tai. Sau
khi hai chiếc máy bay khuất xa, tôi và đám bạn
leo lên và thấy, phía công xưởng, lửa cháy ngút
ngàn, tôi không biết số phận của Ba tôi như
thế nào! Nhưng quanh tôi nhiều người đang
khóc than v́ bị thương, bị chết. Bất
ngờ tôi nghe thằng Khó hét lên: “Con
Bảo-Ngọc! Trời ơi!…” Lúc này tôi mới
chợt nhớ đến em tôi. Tôi quay lại chiếc
vơng trước hiên nhà và thấy vài người xúm
vào Bảo-Ngọc. Tôi chưa kịp phản ứng ǵ
cả th́ thấy Má tôi vất đôi gióng và đ̣n gánh
xuống, nhào đến Bảo-Ngọc. Thấy Má tôi,
mấy người đang xúm quanh Bảo-Ngọc
từ từ đứng lên, tỏ ư muốn “nhường
chỗ” cho Má tôi. Má
tôi đứng bất động, nh́n Bảo-Ngọc
nằm nghiêng đầu trên vơng, bên dưới,
một vũng máu c̣n tươi! Trong thế đứng
câm lặng như loài cây khô hết sức sống
đó, môi của Má tôi mếu xệ, run run. Tôi nghĩ
Má tôi muốn gọi tên Bảo-Ngọc – đứa
con ra đời trong khổ nạn; đứa con èo
uột v́ vú Mẹ khô sữa; đứa con ĺa đời
trong giấc ngủ trẻ thơ – nhưng Má tôi không
thể phát âm thành lời! Tôi
không hiểu tại sao Má tôi không kêu gào, không khóc than
hoặc quằn quại đớn đau như mấy
người hàng xóm; cũng như tôi không hiểu
tại sao Bảo-Ngọc không được chôn
gần nhà mà phải theo con đ̣ nhỏ, qua bên kia sông
Triêm-Đức. Trên
con đ̣ nhỏ, Ba tôi ngồi ở mũi chiếc
đ̣, lưng xoay về phía bên kia sông. Trên hai bắp
vế của Ba tôi là xác của Bảo-Ngọc. Cái xác
nhỏ xíu tội nghiệp đó được
cuộn vào chiếc chiếu rách – mà thường ngày
tôi trải dưới gốc khế cho em ḅ quanh –
rồi cột lại bằng ba đoạn giây dừa.
Hai tay Ba tôi mân mê mối giây dừa và mắt Ba tôi chăm
chăm nh́n lên gốc cây khế, nơi Ba tôi đă
cẩn thận đào cho chị em tôi một hầm tṛn!
Đôi mắt Ba tôi lặng lờ như hai khối
thủy tinh màu; nhưng tôi như thấy được
những vụn vỡ trong hồn Ba tôi đang theo
những mạch máu căng lên, đỏ rực! Đôi
mắt của Ba tôi như soi vào hồn tôi để tôi
thấy rơ hậu quả về sự ham chơi của
tôi. Nhưng với thời gian, ánh mắt của Ba tôi
dịu bớt niềm đau – nhất là sau khi Má tôi
sinh cu Chinh. Nhờ
sự ra đời của cu Chinh và cũng nhờ
những đổi thay của không gian, thời gian cùng
những biến chuyển của cuộc sống,
sự dằn vặt trong ḷng tôi tạm nguôi ngoai.
Giữa lúc tôi tưởng rằng tôi đă quên đi
ánh mắt đớn đau của Ba tôi vào buổi
chiều xưa, trên ḍng sông Triêm-Đức, th́ tôi
lại bắt gặp ánh mắt đầy uất
hờn như muốn làm vỡ tung đôi vơng mô khô
lệ của bác nông phu nơi vùng Chương-Thiện! Ánh
mắt uất hờn của bác nông phu trở nên van nài
khẩn thiết khi anh thủy thủ chỉa súng, không
cho chiếc tắc ráng đến gần chiếc
Command. Vài phút sau, một chiếc fom được
phái đến, cặp sát vào chiếc tắc ráng.
Một anh thủy thủ bước qua chiếc tắc
ráng xem xét t́nh h́nh. Nhận thấy không có dấu
hiệu khả nghi, chiếc tắc ráng được
phép cặp sát chiếc Command và anh y tá đă tận t́nh
cứu giúp nạn nhân. Sau
nhiều ngày hành quân ở Kinh Ngang, đoàn giang đỉnh
trở lại kinh Trèm-Trẹm, c̣n gọi là kinh
Thứ, thuộc quận Kiên-An. Kinh
Trèm-Trẹm là một ḍng sông nhỏ, thẳng tắp,
sâu hun hút. Hai bên bờ sông là rừng tràm thâm u, ḷng sông
eo hẹp quyện lá khô và máu. Rải rác dọc theo ḍng
sông câm nín đó là mấy đồn Nghĩa-Quân.
Đoàn giang đỉnh thường ủi băi trước
đồn thứ 9. Trưởng đồn là
Thiếu-Úy Sao, tốt nghiệp trường Sĩ-Quan
Thủ-Đức. Khi
cặp fom ra Tắc-Cậu công tác, Thiếu-Úy Sao
xin quá giang để ghé đồn thứ 6 thăm người
bạn thân, Thiếu-Úy Y, cùng khóa Thủ-Đức.
Thiếu-Úy Y xin đổi về đồn thứ 6
chỉ v́ muốn được làm việc gần Sao. Sau
vài ngày b́nh yên, đoàn giang đỉnh được
lệnh trở ra sông Cái Lớn, ủi băi ngay trước
một đồn Nghĩa-Quân. Mỗi khi thấy tàu
Hải-Quân ủi băi trước đồn, ḷng người
Nghĩa-Quân dấy lên chút t́nh cảm hân hoan, yên
dạ: Sẽ được một giấc ngủ yên
lành trong đêm. Để tỏ bày niềm hân hoan
đối với đơn vị bạn, mấy anh Nghĩa-Quân
đem ra vài xị đế. Vài chú chuột đồng
được nướng vàng trên khóm than hồng, làm
mồi cho những tràng cười vui. Blust
– anh chàng cố vấn “chịu chơi” của
Giang-Đoàn – vừa cười vừa nhăn mũi
hít mùi thơm của chuột nướng. Sau khi ăn
thử, Blust thích quá, không tiếc lời khen món ăn
đồng quê này. Với món ăn lạ và vài ly rượu
cay, Blust không c̣n tự chủ được, bắt
đầu hát Hallelujah… Tiếng hát nhừa
nhựa, nghèn nghẹn, vang xa từ mũi chiếc
Command tan loăng trong không gian mênh mông của ḍng sông và
rừng dừa nước. Hát măi, hát hoài vẫn không
ai hưởng ứng, Blust cảm thấy cô đơn
vô cùng rồi nỗi nhớ nhà dâng cao, dâng cao măi
khiến Blust khóc vùi như trẻ thơ. Khóc
thỏa thuê một lúc, Blust trở vào ḷng chiếc
Command vừa khi Thiếu Tá Quang – Chỉ-Huy-Trưởng
Giang-Đoàn – đang giận dữ, gào lên trong
ống liên hợp: –
Mày nói với
Đại Bàng của mày, không cho tao vào bây giờ th́
ai cứu tụi nó? Chờ đến sáng không c̣n
‘mống’ nào sống sót đâu. Mời Đại Bàng
của mày lên máy, nhanh đi! Không
hiểu tiếng Việt, nhưng thấy thái độ
của Thiếu Tá Quang, Blust hiểu phần nào
những ǵ đang xảy ra. Trong khi Blust ngượng ngùng,
cứ loay hoay cạnh Thiếu Tá Quang và lập đi
lập lại: “I’m sosrry, sir!” th́ Thiếu Tá
Quang ra lệnh cho đoàn giang đỉnh sẵn sàng
tiến vào tiếp cứu đồn Thứ 6. Chỉ vài
phút sau Thiếu Tá Quang ra “phản lệnh”. Quay nh́n
Blust, Thiếu Tá Quang giải thích: Đồn thứ 6
bị vây, bị tấn công nặng, kêu cứu; nhưng
Đại-Tá Tỉnh Trưởng sợ trách nhiệm,
không cho đoàn giang đỉnh vào! Ánh
trăng lưỡi liềm tỏa ánh sáng xanh xao nhưng
cũng không thể làm loăng đi ánh hỏa châu
chập chùng, lơ lửng, hướng kinh Trèm
Trẹm. Tôi nghĩ đến Thiếu Úy Y với
nhiều lo lắng. Sáng
hôm sau, đoàn giang đỉnh không trở vào kinh Trèm
Trẹm mà lại nhận vùng trách nhiệm mới: G̣
Quau, thuộc tỉnh Kiên-Hưng. Con
đường từ nơi đoàn giang đỉnh
ủi băi vào văn pḥng Quận rất gồ ghề,
loan lỗ. Chiếc cấu nhỏ bắt ngang từ làng
vào Quận trông già nua, thảm hại. Quận
đường chỉ là dăy nhà tôn, tường
gạch cũ kỷ, màu sơn úa vàng. Sân Quận
đường c̣n hằn sâu nhiều vết đạn
pháo kích. Quận Trưởng là Trung-Tá Phép, người
miền Nam, ăn nói thật thà, dễ thương như
những hạt cơm gạo nàng Hương. Những
ngày ở G̣-Quau, đoàn giang đỉnh hằng ngày
hải hành trên Kinh Ngang để chuyển quân, quân
trang và quân cụ. Vài chiếc tắc ráng chở đầy
khóm chạy gần đoàn tàu. Có tiếng xua đuổi: –
Dang ra. Cặp vô là bị bắn đó.
– Dạ, em biếu các anh mấy trái khóm ăn chơi
mà! Anh
lính chỉ về cặp fom: –
Tới đưa cho mấy chiếc tàu nhỏ kia ḱa;
đừng tới gần mấy chiếc tàu lớn,
nghe hôn. Vừa
cho ghe lách ra, cô gái vừa quay lui: –
Mèn ơi! Có mấy anh tụi em mới dám đi buôn
ở khúc sông này chớ hổng có mấy anh đố
ai dám bén mảng qua đây đó! Mấy
anh lính cảm thấy ḷng ḿnh xao xuyến, muốn làm
quen nhưng đoàn giang đỉnh được
lệnh trở lại kinh Trèm Trẹm. Ngang
đồn thứ 6, vết tích lửa đạn
vẫn c̣n đó nhưng lá cờ vàng vẫn ngạo
nghễ tung bay; người Nghĩa-Quân vẫn nghêu ngao
câu vọng cổ trên tháp canh. Tất cả dường
như không mang nét thê lương, đau đớn nào
cả. Tất cả chấp nhận sự điêu linh
một cách b́nh thản đến tội nghiệp! Đến
đồn thứ 9, tôi gặp lại Thiếu-Úy Sao.
Sao chào tôi, môi nở nụ cười buồn. Hai
chữ Y-Sao màu đen thêu trên túi áo của Sao đập
nhanh vào mắt tôi. Thấy ánh mắt khó hiểu
của tôi, Sao nh́n vội xuống hai chữ Y-Sao
rồi nh́n ra xa. Trong mắt Sao tôi tưởnh như
thấy được những hận thù vỡ ra tung
tóe như những vệt máu hồng của Y kéo dài
từ chông hào đến cửa hầm chống pháo kích!
Nh́n Sao và nghe câu chuyện thương tâm của Y,
tự dưng tôi nghĩ đến Chinh. Không biết
giờ này Chinh đang phiêu bạt ở chiến trường
nào trên núi cao! Cơn
mưa trái mùa chợt đến. Rừng tràm và
dừa nước ch́m trong màn mưa xám đục.
Tiếng ca vọng cổ trên tháp canh ngân dài thê lương
kèm theo tiếng gơ nhịp nhặt khoan của hai thanh
tre nghe sao năo nề, nhức buốt! Chỉ một lúc
sau tất cả âm thanh đều ch́m lấp trong cơn
mưa nặng hạt và trong tiếng gió thét gào.
Mọi sinh hoạt đều ngưng đọng.
Bỗng…Ầm! Ấm! Tiếng nổ làm rung chuyển
vùng không gian nho nhỏ quanh tôi, trên chiếc Combat.
Từng khối nước tung cao ngất trời trong
khi chiếc Command từ từ ch́m xuống. Hằng
loạt trái sáng được bắn lên như
đưa tiễn chiếc Command vào ḷng sông sâu! Ḍng phù
sa thêm màu mỡ nhờ máu, thịt và xương
của những thủy thủ vừa xong lóp đệ
Nhị! Sau
những tan thương rách nát trong hồn, tôi theo
đoàn giang đỉnh trở lại Kinh Ngang. Mấy cô
bán khóm đâu không thấy mà chỉ thấy mặt sông
gợn lăn tăn những làn sóng nhỏ. Ḍng sông tưởng
hờ hững nhưng nỗi chết đang giăng
đầy! Ngoài tiếng gío lao xao trên rừng dừa nước
và tiếng máy tàu vi vu, không c̣n một âm thanh nào khác
nữa. Tất cả đều im lặng. Cái im
lặng ŕnh rập, cái im lặng hồi hộp, cái im
lặng rợn người như một đoạn
phim căng thẳng quá độ, đạo diễn không
cho nhạc đệm! Trong
khi mọi người, mọi ṇng súng đều
chỉa về khúc quanh như đợi chờ, như
thách thức th́…đoàn tàu đi qua êm xuôi. Tôi chưa
kịp mừng th́ nghe một tiếng nổ rền
trời rồi từng khối nước khổng
lồ tung lên. Chiếc LCM8 bị ḿn! Sau khi cứu
vớt và nhặt xác của đoàn viên, mọi người
đều lúng túng, v́ không biết những bộ
phận cơ thể “rời” này thuộc về
nạn nhân nào để “ráp” vào cho đúng! Thôi,
chia đều trong mỗi bao ny-lông để người
thân bớt đau ḷng! Trong
mấy bao ny-lông đựng xác người có phần
cơ thể không nguyên vẹn của Chuẩn-Úy
Mẫn. Mẫn mới biết miền Tây Nam Việt sau
chuyến xe đ̣ Saigon qua Bắc Vàm-Cống về
Long-Xuyên để tŕnh diện Giang-Đoàn 26, sau khi
Mẫn măn khóa Sĩ Quan Trừ-Bị Thủ-Đức!
Mẫn đến đơn vị chỉ được
một ngày, chưa biết ǵ về những danh từ
chuyên môn của Hải-Quân. Mẹ
của Mẫn đứng chết lặng nơi
cửa, sau khi một sĩ quan đến báo tin. Ánh
mắt của Bà cũng thất thần, mất hết
sức sống, như ánh mắt của Má tôi dạo nào! Chuyến
hải hành từ Kinh Ngang về Chương-Thiện
chiếc Combat lại bị ḿn. Nh́n hai chiếc LCM kè
hai bên để đưa chiếc Combat về bến,
tôi gục đầu vào lóng bàn tay. V́ thương
mến đoàn giang đỉnh, tôi âm thầm nhân cách
hóa mỗi chiến đỉnh bằng một cái tên
rất đáng yêu. V́ lẽ đó, mỗi khi giang đỉnh
nào bị bắn hoặc bị ḿn, tôi cảm thấy
như chính một phần cơ thể của tôi
bị thương! Sau
khi chỉnh trang, đoàn giang đỉnh theo sông
Hậu, rẽ vào Long-Phú, xuôi theo Băi Sầu, đi
xuống Bạc-Liêu, về quận Gia-Rai. Nh́n những
con kinh đào nhỏ hẹp, chỉ đủ rộng
cho chiến đỉnh chạy hàng một – chứ không
đủ rộng để chiến đỉnh có
thể xoay ngang, trở đầu – ḷng tôi cứ ái
ngại thầm! Sáng
hôm sau, đoàn giang đỉnh chuyển quân từ
Gia-Rai đi Cà-Mau. Thiếu Tá Quang đă cẩn thận
dặn tất cả Bộ-Binh ngồi trong ḷng tàu, không
để lộ dấu hiệu là ḿnh đang chuyển
quân. Vậy mà địch quân vẫn ŕnh rập! Khi
đoàn tàu vừa qua khỏi xă Hộ-Pḥng th́ từng
loạt, từng loạt B40 nă xối xả vào
những mục tiêu không có đường xoay trở! Trong
khi chờ trực thăng tản thương, thủy
thủ Hiển ra dấu cho tôi cúi xuống gần anh.
Hiển thều thào: –
Đừng cho
dợ em biết em bị thương, nó lo, tội
nghiệp. Để ít bữa, em d́a! Nh́n
máu và nước sóng sánh trên chiếc băng-ca và người
Hiển run rẩy, tôi chỉ biết khóc, gật đầu,
trong khi tay tôi cứ đẩy cái kéo, cố cắt
bộ quân phục đẫm máu của Hiển.
Cắt xong, tôi xin một chiếc áo nhà binh khác. Tôi
lấy tất cả giấy tờ và cái ví của
Hiễn, cho vào túi áo rồi phủ chiếc áo lên người
Hiển. Tôi nhờ một người đứng
gần phụ tôi, nghiêng băng-ca cho máu và nước
thoát ra rồi tôi từ từ rút từng mảnh
vải đă bị cắt để Hiển đỡ
bị lạnh. Trước
khi tôi quay sang giúp một thương binh khác, Hiển
lại ra dấu cho tôi cúi xuống gần Hiển
một lần nữa. Nước mắt ràng rụa, tôi
xúc động quá cho nên chỉ nghe tiếng được
tiếng mất: –
Trong bóp em c̣n mấy ngàn, …chị đưa giùm cho…
dợ em để nó mua sữa cho con. Dợ em đẻ
con trai, hôm qua… Chỉ-Huy-Trưởng nói mai cho em đi
phép đặc ân… Nói
ngang đó, gương mặt của Hiển trông tươi
tỉnh; nhưng rồi Hiển cong người sang
một bên như muốn ho. Một ḍng máu đỏ
chảy mềm mại từ môi Hiển, rồi mắt
Hiển khép lại! Sau
những cảnh đau ḷng, đoàn giang đỉnh di
chuyển về Kiên-Lương. Tôi rất ngạc nhiên
khi thấy các vị sư mặc áo vàng, ăn hủ
tiếu, uống bia 33. Đám trẻ con đứng dưới
gốc cây, nh́n mấy anh thủy thủ như nh́n
những dị nhân vừa từ một hành tinh khác
đến. Mấy cụ già tươi cười
nhận dầu ăn, cơm sấy, cá hộp từ
mấy anh thủy thủ. Một cụ vỗ vỗ lên
tay Triều, hỏi: –
Làm sao được đi lính như mấy chú,
hả chú? –
Dạ, dễ mà. Lên Saigon ghi tên là đi liền hà. –
Saigon ở đâu vậy, chú em? –
Nói giởn chơi chớ bộ Cụ tính đăng lính
Hải-Quân thiệt sao? –
Hỏng phải! Thằng cháu ngoại của ‘wa’, nó
đóng ở đồn kia cà. Nó muốn đi. –
Thôi, đi Nghĩa-Quân gần nhà sướng hơn;
Hải-Quân xa nhà hoài, chán lắm. –
Bị nó ở trong đồn thằng em của nó
cứ bắt loa kêu nó bỏ súng d́a dới nhơn dân
hoài hà. –
Sao kỳ vậy, Cụ?” Cụ
bước đến gần Triều hơn và nói
nhỏ như sợ ai nghe được: –
Th́ thằng em của nó theo ‘bộ đội giải
phóng’. Dậy mới có chiện chứ. Chẳng
biết nói ǵ, Triều đưa mắt nh́n tôi. Tôi cúi
mặt, cảm thấy buồn buồn, đi dần
về cặp fom. Tôi
thấy một đứa bé len lén sờ vào mũi
chiếc fom rồi rút cổ cười khúc khích.
Đứa khác bước tới, vuốt vào thành tàu
rồi giật ḿnh, nhảy lùi lại, reo to: –
Bằng
sắt, tụi bây ơi! A,
th́ ra đám trẻ con này bị Việt Cộng tuyên
truyền rằng tàu của Hải-Quân
bằng…giấy! Đoàn
giang đỉnh được lệnh trở lại Chương-Thiện.
Khi ghé lại quận G̣-Quau tôi mới biết Trung Tá
Phép đă đổi vào một quận trong xa mà tôi không
nhớ tên. Trên đường đoàn giang đỉnh
lên Tân-Châu, Hồng-Ngự, tôi hay tin Trung Tá Phép tử
trận trong cuộc tiếp cứu một đồn
Nghĩa-Quân! Tôi
từ biệt Giang-Đoàn 26 Xung-Phong để trở
lại U-Minh bằng Giang-Đoàn Tuần-Thám. Thiếu Tá
Chỉ-Huy-Trưởng Giang-Đoàn không cho tôi ngồi
phía mũi tàu; Ông bắt tôi ngồi trong ḷng tàu để
khỏi bị bắn sẻ. Tôi cười, thầm
nhủ, vận tốc PBR chứ đâu phải vận
tốc LCM mà sợ. Mặc dù nghĩ như vậy, tôi
cũng vẫn “tuân lệnh” Chỉ-Huy-Trưởng…không
phải của tôi. Đến
sông Cái Lớn đoàn PBR vẫn phăng phăng lướt
trên nước, sát bờ, bỏ lại phía sau
từng chuỗi bọt tắng xóa, h́nh chữ V.
Đến gần Chương-Thiện, trời tối
hẳn. Đoàn tàu neo giữa sông. Nh́n ánh trăng long
lanh trên mặt sông và nghe văng vẳng từ radio một
t́nh khúc tiền chiến, tôi chợt nhớ đến
hai câu thơ của Ba tôi, bút hiệu Điệp-Linh: Mắt
trinh nữ lệ mờ bên sông cũ. Đợi
cung đàn nghệ sĩ vắng bao Thu! Hôm
sau, tôi theo một giang đoàn Tuần-Thám khác, đi sâu
vào U-Minh. V́ chưa bao giờ đến đoạn sông
này, tôi ṭ ṃ, vui thích nh́n quanh những vườn khóm
thênh thang. Đoàn
PBR đang lướt qua một khúc quanh rất
ngặt. Tôi nghe tiếng B40 nổ liên tục phía trước.
Chíếc PBR chỉ huy trúng B40. Trung Tá Minh –
Chỉ-Huy-Trưởng Liên-Đoàn 5 Tuần-Thám –
bị thương. Đoàn PBR bắn trả dữ
dội. Nhiều người chạy lom khom trong vườn
khóm. Đoàn PBR đâm thẳng vào bờ để
Bộ-Binh đổ bộ. Khi Bộ-Binh trở lại
chiến đỉnh, tôi thấy họ mang theo nhiều
chiến lợi phẩm như súng trường Nga và
B40, B41… Phiêu
lăng trên những ḍng sông vấy máu suốt thời
gian dài, ḷng tôi mang nặng niềm đau của
những thanh niên cùng thời với tôi; và, dường
như tôi quên đi nỗi đau xưa, bên ḍng sông
Triêm-Đức. Tôi
trở lại ḍng sông Triêm-Đức vào những ngày
sôi sục nhất của cuộc chiến để
thuyết phục Ba tôi dọn vào Saigon. Ba tôi bảo
đất đai, nhà cửa và mộ của
Bảo-Ngọc c̣n đó, đi sao đành! Tôi đề
nghị Chinh vào Saigon với tôi. Chinh dứt khóat: –
Ba Má già rồi, em không thể bỏ Ba Má được. Ba tôi tiếp lời Chinh: – Tại sao con có vẻ
sợ? Họ cũng là người Việt-Nam như ḿnh
mà. C̣n Chinh chỉ là Đại-Úy, có ǵ đâu mà lo.
Hơn nữa, họ về họ cũng phải dùng sĩ
quan của ḿnh chứ sĩ quan của họ đốt
đặc, xài ǵ được! Nói ngang đó, Ba tôi vỗ hai
tay vào nhau kêu “bốp” rồi tíếp, giọng
rất vui: – Nè, con nhớ bác Ca không?
Nghe nói bác làm lớn lắm. Bác Ca với Ba bề ǵ cũng
c̣n cái t́nh cách mạng chống Tây. Và hồi đó,
tuy nghèo, nhưng Ba dạy Pháp văn cho bác Ca Ba không
nhận thù lao. Giọng tôi nghẹn lại như
muốn khóc: – Chức Phó Quận Hành Chánh
rồi Trưởng Ty Nội-An của Ba, Ba có giấu
được bác Ca hay không? – Bác biết th́ biết. Ḿnh
“ăn cây nào, rào cây đó”, ai nỡ trách ḿnh. Con
đừng lo. Có bác Ca là mọi việc đều
xong. Tôi đành quay về Saigon
với chút tin tưởng vào bác Ca. Khi những sôi động
trong ḍng lịch sử và trong ḷng tôi ở vào đỉnh
cao nhất, tôi hay tin bác Ca giữ một chức vụ
rất quan trọng trong chính phủ Việt-Cộng. Một người bạn
của tôi có ông Bố đi tập kết, v́ Ông
bị chiêu dụ khi Ông du học tại Pháp. Sau tháng Tư
năm 1975, người bạn này tổ chức
tiệc để ông Bố mời những người
bạn của Ông. Bạn tôi nhờ tôi giúp trang hoàng
để bữa tiệc thêm phần trang trọng. Chính trong bữa tiệc trang
trọng này, tôi được gặp một cụ già
tên Ca. Sau vài câu làm quen, Cụ hỏi tôi người
miền nào mà nói tiếng lơ lớ nửa Nam
nửa Huế. Tôi đáp tôi được sinh tại
Dalat, Má tôi Huế, Ba tôi Nha-Trang. Dường như “lư
lịch” của tôi gợi trong kư ức của Cụ
điều ǵ đó, Cụ hỏi tiếp: – Hồi trước Bố
của Cô làm ǵ? Tôi nghi đây là bác Ca, bố
của thằng Khó, con Khăn, thằng Khắc, con
Phục cho nên tôi muốn làm thân, muốn khơi
lại trong ḷng Cụ h́nh ảnh của Ba tôi: – Thưa Cụ, Ba cháu ngày xưa
đi kháng chiến chống Tây. Ba cháu giỏi nhạc
và Pháp văn lắm. – Ba cô tên ǵ? Hồi kháng
chiến sống ở đâu? – Dạ, Ba cháu tên Kinh.
Hồi tản cư gia đ́nh cháu sống gần sông
Triêm-Đức. – Thế cô là con bé Linh,
phải không? – Dạ, vâng. – Ba cô c̣n ở bên sông Triêm-Đức
không? – Dạ, c̣n. Xin lỗi
Cụ, cháu nhớ hồi xưa Ba cháu có người
bạn rất thân, tên Ca. Thưa Cụ, có phải
Cụ là bác Ca không ạ? – Ừ, tôi là bác Ca đây. Tự dưng tôi cảm
thấy mất b́nh tĩnh! Thật ḷng, tôi muốn nhân
cơ hội này, xin bác Ca giúp đỡ hoặc che
chở cho Ba tôi và các em tôi; v́ lệnh kêu gọi sĩ
quan và công chức “Ngụy” đi “đăng kư”
cứ ra rả trên đài phát thanh. Nhưng đồng
thời tôi cũng cảm thấy khó chịu khi
trực diện với một nhân vật quan trọng
trong guồng máy đầy ác tính mà tôi không thích. Bác Ca nhíu mày như vận
dụng trí nhớ rồi hỏi: – Thằng ǵ em của bé
Ngọc đó, nó làm ǵ? – Dạ, em cháu tên Chinh, Đại-Úy. Không hiểu v́ già lẩn
thẩn hay là v́ bác Ca muốn đâm vào hồn tôi, Bác
hỏi: – Đại-Úy bên nào? Tôi nghẹn! Tay tôi run lẩy
bẩy. Tôi muốn khóc nhưng uất quá khóc không
được! Tôi không nỡ dùng chữ “Ngụy”
mà tôi cũng không dám nói bốn chữ Việt-Nam
Cộng-Ḥa trước mặt bác Ca. Tôi cố né người
khi chủ nhà bưng thức ăn lên để
khỏi phải trả lời. Một cách từ tốn bác
Ca lấy thức ăn cho vào chén của tôi, mời: – Cô dùng chút tiết canh
đi, bổ lắm đấy. Tôi lí nhí cảm ơn, nh́n bác
Ca, thầm nghĩ: Thức ăn miền Nam đầy
đủ, ê hề, Bác đâu cần phun nước
bọt vào dĩa để dành ăn, như ngày Bác c̣n
ở Liên Khu V! Bác Ca lại hỏi: -Thế Ba Má cô có tất
cả mấy người con? -Dạ, cháu, Chinh và hai em trai
nữa. -Thế hai thằng ấy làm
ǵ? -Dạ,
cũng sĩ quan… Tôi
không dám nói hết câu. Như ngầm hiểu, Bác Ca không
hỏi tiếp mà lại nhỏ nhẹ mời tôi
lần nữa. Tôi nâng đũa, trộn phần
tiết canh trong chén. Nh́n phần tiết canh tươm
ra nơi ḷng chén và phần tiết canh sánh lại quanh
mấy miếng ḷng, tôi chợt liên tưởng đến
những phần máu thịt của những Người
Lính V.N.C.H. mà tôi đă thấy tận mắt trên
những ḍng sông oan nghiệt! Từ mối t́nh cảm
dành cho Người Lính V.N.C.H., tôi không thể làm thân
với bác Ca để nhờ Bác giúp cho Ba và các em tôi. Sau
khi nghe tôi tŕnh bày sự việc, Ba tôi đích thân vào
Saigon t́m gặp bác Ca. Không hiểu kết quả
của lần gặp gỡ giữa hai người
bạn già như thế nào, nhưng Chinh và hai em
của Chinh bị bắt trước khi Ba tôi từ
Saigon trở về. Và sau đó Ba tôi cũng phải tŕnh
diện để đi cải tạo. Trong
căn nhà thăm nuôi, Ba tôi ngồi im, mắt đỏ
rực nh́n xuống ḍng sông Triêm Đức khi tôi
nhắc đến các em tôi. Ba tôi hỏi tôi đă
đi thăm các em tôi chưa? Tôi đáp “Dạ, chưa”.
Ba tôi dúi vào tay tôi ba mảnh giấy vo tṛn, nói rất
nhỏ: – Con đưa cho các em. Tôi chưa kịp “dạ”
th́ tên quảng giáo nhảy tới, hùng hổ như
con thú vồ được mồi: – Chuyển tài “niệu” ǵ
đấy? Đưa xem. Tôi xám mặt. Tôi không
hiểu tôi sợ cho tôi hay là tôi sợ cho Ba tôi; nhưng
tôi run quá! Ba tôi rất điềm tĩnh: – Tŕnh cho anh quảng giáo xem
đi, con. Tôi mở bàn tay. Ba cuộn
giấy nhỏ xíu lăn trên bàn, tên quảng giáo
chụp lấy. Trong khi tên quảng giáo vuốt cho
thẳng để đọc, tôi liết nhanh vào
mảnh giấy và thấy: “Con! Ba tủi hổ và
hối hận về cái bác ‘Ca…ca…’ đó
lắm!” ĐIỆP-MỸ-LINH |