Hồ
Biểu Chánh: Nhà Văn Tiêu Biểu Miền Nam
Tiền Bán Thế Kỷ XX Vương Trùng Dương |
Nhà
văn Hồ Biểu Chánh (1884–1958) là một trong
những nhà văn tiên phong của ḍng văn học
Việt Nam nói chung, và miền Nam Việt Nam ở đầu
thế kỷ 20. Với khuôn mặt nhà văn lăo thành
đă đóng góp cho nền văn học nước nhà
trong một thế kỷ qua, dĩ nhiên có nhiều bài
viết của các nhà phê b́nh văn học, văn nhân…
đề cập đến tác giả và tác phẩm. Có
thể nói, hoàn cảnh xă hội và thân phận người
dân quê với nhân t́nh thế thái trong tác phẩm
Hồ Biểu Chánh gần một thế kỷ qua
vẫn c̣n thấp thoáng cho đến nay. Theo
GS Phạm Thế Ngũ trong quyển Việt NamVăn
Học Sử Giản Ước Tân Biên: “Đọc
Hồ Biểu Chánh ngày nay chúng ta thấy một cái thú
khác, cái thú được sống lại một
thời tuy cách đây không xa mà có vẻ xưa
lắm. Trong các tác phẩm trên và trong vô số tác
phẩm về sau nữa, ông đă có công đem
cặp mắt lịch lăm, cây viết chu trí, mà ghi
lại bức tranh của cả một xă hội
đương thời, cái xă hội miền Nam thành h́nh
sau ngày Tây sang giữ măi nền nếp cho đến
những ngày tiền chiến. Trước hết làm phông
cho cái xă hội ấy là đất nước
miền Nam, quang cảnh từ tỉnh thành về
ruộng rẫy. Trong các tiểu thuyết của ông,
những việc ông thuật kể diễn ra rải rác
từ núi Bà Đen đến đảo Kim Qui, từ
những giồng trảng miền Đông xuống đến
những kinh rạch miền Tây, song ông thường
ưa hơn khu vực ở giữa, các tỉnh G̣ Công,
Vĩnh Long, Cần Thơ, các quận Càn Long, Ô Môn, Vũng
Liêm, nơi ông từng làm việc quan lâu năm và
biết rơ đồng đất, người ngợm.
Nhất là châu thành Sài G̣n - Chợ Lớn hiến cho
ông lắm tấn tuồng vân cẩu ly kỳ. Trong
những khung cảnh bác tạp ấy, ông đưa ra
đủ loại nhân vật, khoác cho một dung
mạo, một tính t́nh, những thói quen và phong
tục, thường đều là đánh dấu
một thời đại cả”.
Trong
lănh vực văn học, Hồ Biểu Chánh sáng tác
nhiều thể loại từ văn xuôi, văn
vần, nghiên cứu, phê b́nh văn học, kịch,
tuồng hát và dịch thuật… hơn một trăm
tác phẩm. Tiêu biểu như: 64 tiểu thuyết, 12
tập truyện ngắn và truyện kể, 5 tập thơ
và truyện thơ, 12 vở hài kịch và ca kịch, 8
tập kư, 28 quyển khảo cứu phê b́nh. Tác
phẩm của Hồ Biểu Chánh đă ấn hành theo
thứ tự thời gian trong nửa thế kỷ: 1910:
U T́nh Lục (truyện thơ) - Tu Soạn Cổ Tích
(dịch thuật) 1912:
Ai Làm Được 1913:
Vậy Mới Phải (truyện thơ, Le Cid của P.
Corneille) - Chúa Tàu Kim Qui (Le comte de Monte Cristo của
Alexandre Dumas cha) 1913-1922:
V́ Nghĩa Quên Nhà (kịch) - Lửa Ngúng Th́nh Ĺnh
(dịch kịch Pháp) - T́nh Anh Em (hài kịch) - Toại
Chí B́nh Sanh (hài kịch) - Nhuận Bút Ai Làm Được
và Chúa Tàu Kim Qui 1923:
Cay Đắng Mùi Đời (Sans Famille của Hector
Malot) - Tỉnh Mộng - Một Chữ T́nh 1924:
Nam cực tinh huy 1926:
Nhân T́nh ấm Lạnh - Tiền Bạc, Bạc Tiền
- Thầy Thông Ngôn (Les Amours D´Estève của André Theuriet)
- Ngọn Cỏ Gió Đùa (Les Misérables của Victor Hugo)
- Thanh Lệ Kỳ Duyên (hát bội) 1927:
Thi Tri Phủ 1928:
Chút Phận Linh Đinh (En Famille của Hector Malot) -
Kẻ Làm Người Chịu (Les Deux Gosses của Pierre
Decourcelle) 1929:
V́ Nghĩa V́ T́nh (Fanfan Et Claudinet của Pierre Decourcelle)
- Cha Con Nghĩa Nặng (Le Calvaire của Pierre Decourcelle) -
Khóc Thầm 1930:
Nặng Gánh Cang Thường - Con Nhà Nghèo 1931:
Con Nhà Giàu 1932:
Chủ Quận Ô Môn, Cần Thơ 1934:
Chủ Quận Phụng Hiệp, Cần Thơ. 1935:
Chuyện Trào Phúng, Tập I, II - Ở Theo Thời
(kịch Topaze của Marcel Pagnol) - Ông Cử (L´Artiste, ông
không ghi tác giả bản gốc) - Một Đời Tài
Sắc - Cười Gượng - Dây Oan - Thiệt
Giả, Giả Thiệt 1936:
Nợ đời
Đóa
Hoa Tàn (Le Rosaire, không ghi tác giả bản gốc) 1937:
Lạc Đường - Từ Hôn Tân
Phong Nữ Sĩ - Nghĩa Vợ Chồng (hài kịch) 1938:
Lời Thề Trước Miễu - Tại Tôi - Bỏ
Chồng - Ư Và T́nh - Bỏ Vợ - Người Thất
Chí (Crimes et Châtiment của Fédor Mikhaïlovitch Dostoievski) 1939:
T́m Đường - Hai Khối T́nh - Đoạn T́nh 1941:
Ái T́nh Miếu - Cư Kỉnh - Kư Ức Cuộc Đi
Bắc Kỳ 1942:
Pétain Cách Ngôn Á Đông Triết Lư Hiệp Giải
(khảo cứu) 1943:
Mẹ Ghẻ, Con Ghẻ - Hai Khối T́nh (cải lương)
- Nguyệt Nga Cống Hồ (cải lương) 1944:
Hoài Quốc Công Vơ Tánh (tùy bút – phê b́nh 1.3.44 ) Vườn
Xưa Ghé Mắt (tùy bút – phê b́nh) - Thầy Chung Trúng
Số (đoản thiên) Hai
Thà Cưới Vợ (đoản thiên) - Một Đóa
Hoa Rừng (đoản thiên) - Ngập Ngừng (đoản
thiên) - Chị Hai Tôi (đoản thiên) - Mấy Ngày
Ở Bến Súc (kư ức) - Chấn Hưng Văn
Học Việt Nam (khảo cứu) - Trung Hoa Tiểu
Thuyết Lược Khảo (khảo cứu) - Gia Long
Khai Quốc Vơ Tướng (khảo cứu) - Gia Long Khai
Quốc Văn Thần (khảo cứu) - Gia Định
Tổng Trấn (khảo cứu) - Cái Chết Của Người
Xưa (diễn văn) 1945:
Đại Nghĩa Diệt Thân (hài kịch) - Công Chúa Kén
Chồng (hát bội) - Xả Sanh Thủ Nghĩa (hát
bội) - Trương Công Định Qui Thần (hát
bội) - Chuyện Lạ Trên Rừng (truyện vắn)
- Đông Châu Liệt Quốc Chí B́nh Nghị (khảo
cứu) - Tu Dưỡng Chỉ Nam (khảo cứu) - Pháp
Quốc Tiểu Thuyết Lược Khảo (khảo
cứu) - Một Lằn Chánh Khí: Văn Thiên Tường
(khảo cứu) - Tiểu Sử Trương Công Định
(tùy bút – phê b́nh) - Mạnh Tử Với Chủ Nghĩa
Dân Chủ (diễn văn) - Ít Bài Chúc Tặng (diễn
văn) 1946:
Nhà Nho Với Chánh Trị (diễn văn) 1947:
V́ Nước V́ Dân (cải lương) - Nhơn
Quần Tấn Hóa Sử Lược (khảo cứu) 1948:
Truyền Kỳ Lục (truyện vắn) - Chánh Trị
Giáo Dục (tùy bút, phê b́nh) - Tùy Bút Thời Đàm (tùy
bút - phê b́nh) - Âu Mỹ Cách Mạng Sử (khảo
cứu) - Việt Ngữ Bổn Nguyên (khảo cứu) -
Thành Ngữ Tạp Lục (khảo cứu) - Phật
Tử Tu Tri (khảo cứu) - Nho Học Danh Thơ
(khảo cứu) - Một Thiên Kư ức: Nam Kỳ
Cộng Ḥa Tự Trị (kư ức) - Nho Giáo (diễn văn) Giáo
Lư Của Đạo Phật (diễn văn) - Độc
Lập Trong Liên Hiệp Pháp (diễn văn) - Địa
Vị Của Đàn Bà Việt Nam (diễn văn) 1949:
Thiền Môn Chư Phật (khảo cứu) - Địa
Dư Đại Cương (khảo cứu) - Hoàn
Cầu Thông Chí (khảo cứu) - Tâm Hồn Tôi (kư
ức) - Nhàn Trung Tạp Kỷ I, II, III (kư ức) 1950:
Phật Giáo Cảm Hóa Trung Hoa (khảo cứu) -
Phật Giáo Vào Việt Nam (khảo cứu) 1951:
Trung Hoa Cao Sĩ, ẩn Sĩ, Xứ Sĩ (khảo
cứu) - Nho Giáo Tinh Thần (khảo cứu) 1952:
Nho Giáo Tinh Thần (khảo cứu) 1953:
Bức Thơ Hối Hận - Trọn Nghĩa Vẹn T́nh 1954:
Nặng Bầu Ân Oán - Đỗ Nương Nương Báo
Oán - Lá Rụng Hoa Rơi 1955:
Tơ Hồng Vương Vấn - Hai Chồng - Hai
Vợ - Đại Nghĩa Diệt Thân - Trả Nợ Cho
Cha Những
Điều Nghe Thấy - Ông Cả B́nh Lạc 1956:
Một Duyên Hai Nợ - Trong Đám Cỏ Hoang - Vợ Già
Chồng Trẻ 1957:
Hạnh Phúc Lối Nào - Sống Thác Với T́nh -
Nợ T́nh (tiếp theo Từ Hôn) - Đón Gió Mát, Nhắc
Chuyện Xưa - Chị Đào, Chị Lư - Nợ Trái Oan
- Tắt Lửa Ḷng (giống tựa đề tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan) - Lẫy Lừng Hào Khí
1958:
Lần Qua Đời Mới - Hy Sinh… Ghi
chú: Những tựa đề không có
ngoặc đơn (…) là tiểu thuyết. *
Trong
4 quyển Nhà Văn Hiện Đại của Vũ
Ngọc Phan, họ Vũ đă dành 8 trang viết về
Hồ Biểu Chánh ở quyển I. Vũ Ngọc Phan
nhận định: “Về
đường lư tưởng, tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh cũng giống như
tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách, nghĩa là
cả hai nhà văn đều lấy luân lư làm
gốc, lấy cổ gia đ́nh làm khuôn mẫu,
lấy sự trung hậu làm điều cốt yếu
trong mọi việc ở đời. Nhưng tiểu
thuyết của họ Hồ lại khác tiểu
thuyết của họ Hoàng về mấy phương
diện. Tiểu thuyết họ Hoàng thiên về tả
t́nh và giọng văn nhiều chỗ ủy mị,
cầu kỳ, không tự nhiên; c̣n tiểu thuyết
của họ Hồ thiên về tả việc và
lời văn mạnh mẽ, giản dị, nhiều
chỗ như lời nói thường. Thật
thế, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là
tiểu thuyết đầy động tác, việc
nọ việc kia đầy dồn dập, gây cho người
đọc những cảm tưởng kỳ thú.
Nếu đọc tiểu thuyết của Hồ
Biểu Chánh mà lại chê là kém mặt tả t́nh, và
tưởng tượng không được dồi dào,
th́ thật không biết xét nhận… …
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh lại là
những tiểu thuyết có tính cách b́nh dân, b́nh dân
cả từ những nhân vật ông chọn đến
những lời văn ông viết nữa. Hạng người
ông tả là hạng tiểu công chức, tiểu phú hào
hay hạng thuyền thợ, hạng dân quê. Những
hạng người ấy không phải những
hạng người sống về tư tưởng,
mọi cách hành vi của họ không có ǵ là sâu
sắc, nên có người đă chê sự quan sát
của Hồ Biểu Chánh là cạn hẹp…” Và
họ Vũ kết luận: “Dù sao, nếu đă đọc
những tiểu thuyết của các nhà văn tiên
phong, từ Nguyễn Bá Học trở lại, ai cũng
phải nhận rắng từ Hoàng Ngọc Phách và
Hồ Biểu Chánh, tiểu thuyết nước ta
mới bắt đầu đến bước vụng
vàng, để dân dần đi tới ngày nay là lúc
đă có thể chỉa ra nhiều ngả, phân ra
nhiều loại” (Vũ
Ngọc Phan). Tác
phẩm tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh
đă cách nay đến 8, 9 thập niên nhưng
được sưu tầm để tái bản và
phổ biến trên internet. Qua nhận xét trên của Vũ
Ngọc Phan, đơn cử vài tác phẩm tiêu
biểu: *
Ngọn Cỏ Gió Đùa, tác phẩm nầy xuất
bản năm 1926, dày 572 trang, cách đây tṛn 90 năm.
Truyện có 21 chương, phổ biến trên internet
Imvn.com. Tác giả tuy dựa vào tác phẩm Les Misérables
của Victor Hugo nhưng nêu ra thực trạng xă
hội thời đó thật bi thảm, Lê Văn Đô
con nhà nghèo, ở đợ, làm mướn để
nuôi mẹ già và gia đ́nh. Trong lúc mất mùa, đói
kém, Đô ăn cắp nồi cháo heo của Bá Hộ
để nuôi mẹ và cháu mới sinh, bị bắt và
lưu đày 20 năm! Ra tù, Đô sống vất vưởng
bên lề xă hội… thời thế đưa đẫy,
Đô vào lính trong thời điểm Lê Văn Khôi
chống lại triều đ́nh nhà Nguyễn, bao oan
nghiệt ập đến con người có tấm ḷng
hân hậu và cuối cùng vĩnh biệt cuộc đời
như “ngọn cỏ gió đùa”. Theo
nhận xét của GS Nguyễn Văn Trung: “Victor Hugo
sắp xếp bố cục theo trật tự ưu tiên
cho những ǵ tác giả muốn nhấn mạnh.
Mở đầu câu chuyện, Hugo miêu tả cuộc
đời giám mục Myriel rồi mới nói tới J.
Valjean ngay từ lúc mới được thả,
được Myriel đón tiếp rồi sau đó tác
giả mới vượt ḍng thời gian kể lại
lai lịch gốc tích J. Valjean. Hồ Biểu Chánh th́
lại kể chuyện đời Lê Văn Đô
từ thuở bé, rồi mới bị tù, gặp Ḥa Thượng
nói về cuộc đời của Ḥa Thượng... Một
đặc điểm khác trong truyện Hồ Biểu
Chánh cho thấy ông tiếp thu kỹ thuật tiểu
thuyết phương Tây hiện đại là ông không
dựng nhân vật điển h́nh. Trong hầu hết
các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh chúng tôi không
thấy ông dựng một mẫu người cố
định nào. Ông hội đồng, ông đốc
phủ, ông điền chủ không nhất thiết là
người xấu, c̣n người nghèo không nhất
thiết là người tốt. Các nhân vật của
Hồ Biểu Chánh đều rất sống động
và hấp dẫn, tạo nhiều bất ngờ lư thú,
không như độc giả đă quen dự định
khi đọc các truyện cổ điển ảnh hưởng
Trung Hoa”. Sứ
mệnh nhà văn: *
Tiền Bạc Bạc Tiền, ngay cái tực đề
cũng cho thấy xă hội trong thời điểm mà “đồng
bạc đâm toạc tờ giấy” bởi tệ
nạn buôn quan bán chức từ chốn quan quyền
đến hôn nhân trong cuộc sống. Truyện có 8 chương,
phổ biến trên internet hobieuchanh.com.
Trong phần giới thiệu ghi: “Diễn tả sự
xung đột giữa cũ và mới, giữa nhân nghĩa
và tham lam của xă hội miền Nam vào thời kỳ
bắt đầu tiếp thu lối sống Tây phương.
Ông khơi dậy một mối t́nh thầm kín và t́nh
bạn hữu rất cảm động của ba nhân
vật trong hai gia đ́nh rất khác biệt. H́nh
ảnh kịch cợm, lố bịch của bà Phủ,
ông Hội Đồng… dựa vào thế lực và
tiền bạc để rồi thao túng, ép gả
những cuộc t́nh đầu ngang trái. *
Con Nhà Nghèo, xuất bản năm 1930, dày 226 trang
(truyện nầy có 17 chương, phổ biến trên
internet sachhayonline.com).
Tác giả nêu lên h́nh ảnh cao đẹp của thành
phần tá điến, tá thổ, sống có t́nh có nghĩa
với nhau, hy sinh cho con để nuôi dưỡng thành
người hữu dụng, hiếu thảo. *
Khóc Thầm, xuất bản năm 1935, dày 116 trang
(truyện nầy chỉ có 13 chương, phổ
biến trên internet isach.info).
Chuyện t́nh bi đát với con gái ông Hội Đồng
(nhân vật tử tế) khi gặp người
chồng du học từ Pháp về. Chàng trai có học
nhưng thủ đoạn và lọc lừa, t́m mọi
cách để chiếm đoạt tài sản. Với
bản chất lương thiện và không muốn
đem chuyện xấu xa tung ra ngoài nên người
vợ âm thầm chịu đựng. Chàng trai (Vĩnh
Thái) gieo ác nên gặp quả báo và nàng (Thu Hà)
quyết tâm xây dựng lại cuộc đời
mới sau tháng ngày cam chịu đau khổ. *
V́ Nghiă V́ T́nh, tác phẩm nầy xuất hiện trên
tờ Phụ Nữ Tân Văn năm 1929, xuất
bản năm 1938, sách dày 138 trang (truyện nầy có 19
chương, phổ biến trên internet hobieuchanh.com).
Nội dung tác phẩm ở phần kế tiếp theo
GS Thanh Lăng. GS
Thanh Lăng viết về Hồ Biểu Chánh đă nêu ra
các tác phẩm tiêu biểu: “1)
Ai Làm Được (1922): Chúng
tôi tiếc rằng trong tay không có bản in năm 1912
của cuốn Ai Làm Được mà chỉ có
bản đă nhuận sắc năm 1922 cho nên không phê
phán được sự khác biệt giữa hai
lần in cách nhau 10 năm (1912-1922). Ai
Làm Được là câu truyện của một cô gái
con một vị quan phủ, cô Bạch Tuyết nuôi
chỉ báo thù cho mẹ. Ông phủ có hai vợ: vợ
cả là mẹ Bạch Tuyết bị người
vợ lẽ âm mưu bỏ thuốc độc cho
chết. Nhờ một người lăo bộc thân tín,
Bạch Tuyết, tới 12 tuổi mới biết chính
người d́ ghẻ giết mẹ nàng. Từ đấy,
về phía nàng th́ âm thầm t́m mưu cơ để
trả thù cho mẹ, c̣n người d́ ghẻ lại
hết sức chiều chuộng Bạch Tuyết
cốt để đoạt cái gia tài kếch xù mà
Bạch Tuyết sẽ được thừa kế
của ông ngoại nàng. Nhờ vào mưu tính mà
nhất là nhờ vào ông ngoại và người
chồng cưới trái ư mẹ ghẻ, Bạch
Tuyết đă thoát chết và đem nội vụ ra làm
sáng để trả thù được cho mẹ; bà
phủ hai bị tù đày. Câu
truyện này có nhiều chỗ mô phỏng giống
cuốn Andrẻ Cornelis của P. Bourget. André Cornelis lên 9
tuổi th́ được biết cha ḿnh đă bị
ám sát mà thủ phạm lại chính là cha dượng.
Sau nhiều suy nghĩ và t́m ṭi André Cornelis đă đi
đến chỗ bắt cha dượng phải thú
nhận tội lỗi và đến tội một cách
xứng đáng. 2)
Chúa Tàu Kim Qui (1922) Thủ
Nghĩa là vai chính của truyện này. V́ bảo
vệ danh tiết cho em gái, Thủ Nghĩa đả thương
một tay cường hào. Tên này đút tiền cho quan
trên vu cáo Thủ Nghĩa theo đạo Gia Tô, cho nên chàng
bị án chung thân. Trong lúc giam ở trong ngục,
Thủ Nghĩa gặp một chú khách. Hai bên trở nên
thân thiết và trước khi chết, chú khách có
chỉ cho Thủ Nghĩa t́m ra đảo Kim Qui. Sau này
thoát đựơc ngục, Thủ Nghĩa biết kho
vàng bạc châu báu dấu ở đảo Kim Quy, làm
chủ cái kho vàng to tát kia. Chàng cải trang làm khách trú
đóng tàu đi buôn bán qua các cửa biển từ Thái
Lan qua Hương cảng và Trung Hoa. Từ đó chàng
lấy tên là Chúa Tàu Kim Qui kết cục chàng đă tiêu
được án cũ, báo oán cho những tên bất
nhân và trả ơn cho những người đă làm
ơn cho chàng. Truyện
này phỏng theo truyện Monte Crislo của Alexandre Dumas.
Đại úy Dantes, là vai chánh của truyện Monte
Cristo. Bị t́nh nghi là có liên lạc với địch,
chàng cũng bị bắt và tống ngục. Chàng
bị giam 15 năm. Chàng bị giam cùng với một
Linh Mục Kỳ Dị. Vị linh mục này, trước
khi chết, tỏ cho Dantes biết cái kho báu dấu
ở núi Monte Cristo. Lập mưu tự tráo trở
với xác chết của vị linh mục, chàng thoát
được ngục, t́m đến đảo Monte
Cristo làm chủ cả kho vàng vĩ đại. Từ
đó chàng trở nên triệu phú và tự nhận tên
là Monte Cristo. Nhờ thế chàng báo oán được
tất cả các thù địch cũ và gia ân cho các
bạn bè. 3)
V́ Nghĩa V́ T́nh (1929): Lư
Chánh Tâm và Thái Cẩm Vân lấy nhau sinh được
một đứa con trai đặt tên là Lư Chánh
Hội. Thằng Hội sinh được mấy tháng
th́ Lư Chánh Tâm đi du học Pháp. Để vợ con
ở nhà với bà nội. Chánh Tâm có người em gái
lấy phải người chồng không ra làm sao cho nên
sau này đâm ra ngoại t́nh với người bạn
trai của Thái Cẩm Vân. Hai bên hay thư từ cho
nhau. Nhưng các thư từ của t́nh nhân gửi
đến th́ nàng lại xin đề Thái Cẩm Vân
để Thái Cẩm Vân trao cho nàng. Sống ám muội
như vậy trong bốn năm và sinh được
một đứa con với người t́nh. Lư Tố
Ngu, tên người đàn bà tội lỗi kia đâm
ra hối hận tự tử chết. Giữa lúc đó
th́ Lư Chánh Tâm ở bên Pháp về, chàng bắt gặp
cái thư đề tên Thái Cẩm vân mà trong thư sau
t́nh nhân lại nói đứa con ngoại t́nh của
nhau, v́ sự hiểu lầm đó Lư Chánh Tâm tưởng
thằng con lên bốn tuổi của chàng là con
ngoại t́nh nên chàng đánh vợ gần chết
rồi đưa con cho một đứa kẻ trộm
vào nhà ban đêm. Thế là từ đấy đứa
con bị ngờ oan của chàng sống một cuộc
đời phiêu lưu trôi dạt, khổ sở, vợ
chàng đâm ra điên dại, c̣n chàng th́ bơ vơ
mất hồn. Nhờ có bạn giác ngộ cho hai
vợ chồng dần dần làm lành và đi t́m
được con về. 4)
Cha Con Nghĩa Nặng (1929). Trần
Văn Sửu là một nông dân đơn sơ chất
phác lấy thị Lựu làm vợ sinh được
thằng Tư và con Quyên. Nhưng Trần Văn Sửu
thật thà bao nhiêu thị Lựu giam dâm bấy nhiêu.
Được người ta bảo đích xác là
vợ thông gian, Trần Văn Sửu gây gổ với
vợ và vô ư xô vợ ngă chết. Sợ bị truy
tố, Trần Văn Sửu trốn mất và ai cũng
tưởng chàng đă chết trôi sông. Trong suốt mười
mấy năm trời thằng Tư và con Quyên được
nhà giàu nuôi làm con nuôi và đang sắp gầy dựng
gả bán cho chúng vào nơi quyền qúi giàu sang.
Giữa lúc ấy th́ Trần Văn Sửu v́ nhớ
con quá phải lần về thăm con. Hai đứa con
gặp được cha sung sướng, không những
không sợ liên lụy mà c̣n cứu cha khỏi án cũ
để cha con đoàn tụ vui vẻ, 5)
Chút Phận Linh Đinh (1931): Lê
Hiển Vinh và Đoàn Thu Vân đi du học xa nhà, nhân
quen biết nhau rồi yêu nhau kết quả là Thu Vân
thất thân với Hiển Vinh. Để cứu văn
danh dự, Hiển Vinh cưới Thu Vân làm vợ, trái
ư cha v́ thế chàng bị cha từ. Để chuộc
tội với cha, hai vợ chồng bàn tính với nhau
và Thu Vân để cho chồng đi du học Pháp để
lập sự nghiệp. Tàu chở Hiển Vinh qua Pháp
bị tàu Đức đánh đắm và báo đưa
tin tất cả hành khách bị tử nạn hết.
Thu Vân buồn phiền, bỏ Hà Nội vào Nam định
đem trả cháu cho ông nội chúng rồi tự
tử chết theo chồng. Nhưng trên con đường
Hà Nội vào Nam mấy mẹ con nàng trôi dạt gian nan
không sao tả hết. Nhưng nhờ sự kiên
nhẫn, hai mẹ con nàng gặp được ông
nội và được ông nội tha thứ quên
lỗi xưa, đồng thời lại gặp cả
đứa con lưu lạc muời mấy năm trường.
Đang lúc mẹ con, ông cháu vui mừng th́ Hiển Vinh
mà mọi người tin đă chết đắm tàu xưa
đột ngột trở về trong cùng một lúc.
Thế là cảnh nhà sum họp vui vẻ. Phê
b́nh về Hồ Biểu Chánh, trước tiên ta
cần ngay có hai nhận định sau đây: cùng
với phần đông nghệ sĩ của thế
hệ, ông đă đem nhiều cái mới cho thế
hệ để làm cho nó có bộ mặt riêng biệt
khác những thế hệ khác, nhưng những cái
mới ấy là những đặc tính chung cho hầu
hết mọi văn nghệ sĩ thuộc thế
hệ này; ngoài ra, cùng với một vài mầm non,
Hồ Biểu Chánh đă có nhiều khác biệt
với thế hệ đương thời và báo
trước sự chớm nở trong bóng tối
một thế hệ mới”. (GS
Thanh Lăng) Bài
viết của Thụy Khuê: “Hồ Biểu Chánh
(1885-1958), nhà văn tiên phong xây dựng nền tiểu
thuyết hiện đại Việt Nam” với
phần kết: “Hồ
Biểu Chánh là người đầu tiên đă xây
dựng nên toàn bộ hệ thống tiểu thuyết
hư cấu, hiện thực trong tiếng Việt. Ông
đă tạo ra một thế giới nhân vật tưởng
tượng y như thật, trong đời sống,
khiến Hồ Hữu Tường, thủa trẻ, khi
đọc truyện của Hồ Biểu Chánh, đă
nhập vào thế giới hư cấu ấy, mà ông
gọi là “nhập mộng” và khi đọc xong, ông
“tỉnh mộng”, bởi v́ ông ra khỏi thế
giới hư cấu của tiểu thuyết. Và ông
viết về cuốn Tỉnh Mộng của Hồ
Biểu Chánh như sau: “...
Như vậy th́ không thể nào ở trong cảnh
thực mà có, chỉ ở trong mộng mà thôi. Nhưng
tác giả viết rất tự nhiên, nên đọc
tiểu thuyết, tôi sống măi ở trong một
cảnh mộng. Đến chừng xem đầu đề
tiểu thuyết, tôi thấy đầu đề đó
là Tỉnh Mộng. Tới chừng đó tôi hay
rằng câu chuyện mà Hồ Biểu Chánh đă
thuật lại, đă tạo cho tôi một cảnh
mộng. Tôi ở trong cảnh mộng. Rồi bây
giờ tôi thấy nó là tiểu thuyết. Đây tôi
mới là người tỉnh mộng. Chớ tôi không
hiểu những nhân vật tỉnh mộng đó là ai
nữa. Từ
ấy, tôi mới có một quan niệm rơ rệt
về tiểu thuyết. Té ra một tiểu thuyết
hay là một tiểu thuyết tạo cho độc
giả một cảnh mộng mà độc giả say mê
đi vào cảnh mộng ấy, như vào cảnh
thật vậy. Đến chừng đọc xong
rồi, th́ xếp sách nh́n lại nhan đề,
mới hay là ḿnh đă mộng. Như vậy, tôi có
thể nói rằng vị giáo sư đầu tiên
dạy cho tôi văn chương, dạy bản sắc
của văn chương, dạy lư thuyết về văn
chương, ấy là Hồ Biểu Chánh. Một
tiểu thuyết, với nhan đề của nó, làm
cho tôi hiểu rơ định nghiă của tiểu
thuyết là ǵ? Những tiếng của Pháp như là
Roman, của Anh là Novel, Tàu là Tiểu Thuyết, đều
không làm sao giúp tôi hiểu định nghĩa rơ
rệt của loại mà trong văn chương gọi
là tiểu thuyết cả” ((trích bài Nhập Mộng
và Tỉnh Mộng của Hồ Hữu Tường, Văn
số 80, tưởng niệm Hồ Biểu Chánh, ra ngày
15/4/1967, trang 34). Không
chỉ có Hồ Hữu Tường mà Dương
Nghiễm Mậu, cũng đă nh́n thấy ở Hồ
Biểu Chánh một bậc thày khai phá, mở cửa
cho ông vào thế giới tiểu thuyết, vào miền
Nam, quê hương thứ hai của ông, Dương
Nghiễm Mậu viết: “Tôi
đă đọc tiểu thuyết của ông cách đây
mười mấy năm trời, khi c̣n theo học
những lớp đầu tiên bậc trung học ở
Hà Nội (...) Rồi trong nhiều hoàn cảnh khác, tôi
lần lượt đọc những tiểu thuyết
của ông. Sau này, có một thời gian tôi đă dành
th́ giờ để đọc lại những ǵ đă
đọc, đọc những ǵ chưa đọc
với mục đích t́m hiểu, những khởi
đầu của nền văn học ta, t́m hiểu
những đặc tính miền Nam, quê hương
thứ hai tôi yêu dấu. Quê hương miền Nam, con
người, văn chương mở ra cho tôi những
bàng hoàng không ít. Cuộc sống nơi những vùng śnh
lầy hoang vu, trong kinh rạch quyến rũ tôi, tôi không
bỏ một cơ hội nào để tới
những nơi đó. (...) Cũng
v́ thế bài viết (này) như một nhớ
ơn, nhớ ơn những người đă để
lại cho chúng ta những di sản lớn...” (trích bài
Từ đó đến nay của Dương Nghiễm
Mậu, Văn số 80, trang 57). Những
lời trên đây của hai nhà văn Hồ Hữu Tường
và Dương Nghiễm Mậu đă xoá được
gần một thế kỷ thành kiến và đánh giá
sai lầm về Hồ Biểu Chánh, nhà văn tiên phong
đă đưa văn học Việt Nam vào thế
giới hư cấu của tiểu thuyết hiện
đại”. (Thụy
Khuê) * Trước
thế kỷ XX, các tác phẩm viết bằng văn
vần chữ Nôm như Hoa Tiên, Truyện Kiều,
Lục Văn Tiên… Trong thời kỳ đầu
của Văn Học Chữ Quốc Ngữ qua các tác
phẩm dịch thuật như Thủy Hử, Tây Du,
Phong Thần, Tam Quốc Chí, Thuyết Đường
Diễn Nghĩa… rồi sau đó với Tây Sương
Kư, Song Phụng Kỳ Duyên, Tái Sanh Duyên, Đông Châu
Liệt Quốc… Năm
1913 tờ Đông Dương tạp chí ra đời,
Nguyễn Văn Vĩnh làm chủ bút. Theo GS Thanh Lăng:
“Có nghĩa là Đông Dương tạp chí đă làm
xoay chiều văn học, đă đưa cái mới vào
văn học, làm cho hai thế hệ trước và sau
khác hẳn nhau…”. Đông Dương tạp chí quy
tụ nhiều cây bút, nhân sĩ giữa Nho học và Tây
học nhằm truyền bá phong trào viết văn
với chữ Quốc Ngữ. Nguyễn Văn Vĩnh
đă dịch tác tác phẩm trong văn học Pháp ra
chữ Quốc Ngữ như: Manon Lescaut của Abbé Prévost
thành Mai Nương Lệ Cốt, Les Trois Mouquetaires
của Alexandre Dumas thành Ba Người Ngự Lâm Pháo
Thủ, Les Misérables của Victor Hugo thành Những Người
Khốn Khổ, La Peau de Chagrin của Honoré de Balzac thành
Miếng Da Lừa… Hồ
Biểu Chánh không dịch từ các tác phẩm
ngoại quốc và cũng không phóng tác mà dựa vào
tinh thần nội dung để sáng tác trong bối
cảnh xă hội đương thời: Ai Làm
Được (André Cornréolis của Paul Bourget), Chúa Tàu
Kim Quy (Le Conte de Monte Cristo0 của A. Dumas), Cay Đắng
Mùi Đời (Sans Famille của Hector Malot), Chút Phận
Linh Đinh (En Famille của Hector Malot), Ngọn Cỏ Gió
Đùa (Les Misérables của Victor Hugo), V́ Nghĩa V́ T́nh
(Fanfan et Claudinet của P. Decourcell), Người Thất
Chí (Crimes et Châtiment của Fédor Mikhaïlovitch Dostoievski)…
Năm
1925, tác phẩm Quả Dưa Đỏ của Vũ
Trọng Phụng (dựa vào truyện cổ tích trong Lĩnh
Nam Trích Quái) được giải thương văn
chương của Hội Khai Trí Tiến Đức…
đánh dấu giai đoạn trưởng thành của
“tiểu thuyết hiện đại”. Trong
tác phẩm Hồ Biểu Chánh, ngoài cách hành văn
đơn thuần, giản dị như lời tṛ
chuyện, xử dụng ngôn ngữ đặc thù
miền Nam để phổ biến cả nước.
Các nhà văn miền Nam sau nầy như Mộng Huê
Lầu (Lê Hoằng Mưu), Phú Đức (Nguyễn
Đức Nhuận), Phi Vân (Lâm Thế Nhơn), Hồ
Hữu Tường, B́nh Nguyên Lộc, Sơn Nam, Lê Xuyên,
Bà Tùng Long… cho đến những thập niên qua
ở hải ngoại như Hồ Trường An,
Nguyễn Đức Lập… khi đọc cảm
nhận được văn phong và ngôn ngữ
miền Nam. Nhà
văn tiền bối Hồ Biểu Chánh đă có công
đóng góp trên văn đàn Việt Nam qua nhiều tác
phẩm với nhiều thể loại, được
coi là “ngọn đuốc soi đường”
cho thế hệ kế tiếp ở miền Nam VN. Vương
Trùng Dương |