MỘT ĐỜI LƯU VONG Trường Phúc |
HoangsaParacel: Một câu chuyện rất cảm động,đầy
t́nh người và t́nh quê hương của một sĩ
quan Hải Quân đi du học Mỹ đă bị
sống lưu vong sau ngày 30/4/1975. Anh đă nói lên tâm
trạng tiêu biểu cho một lớp quân nhân QLVNCH không
bao giờ khuất phục bạo quyền cộng
sản.
Đời
người ai cũng có một thời gian mà chúng ta
nhớ măi. Có người sẽ không quên được
một quá khứ nếu quá khứ ấy có quá
nhiều đau khổ và mất mát. Có người
sẽ nhớ măi về những ngày tháng cũ hoặc
một thành phố đă mang lại nhiều kỷ
niệm vui hoặc buồn. Có người nhớ măi
mật ngọt của mối t́nh đầu mà cho dù
bao năm qua vẫn không quên. Nhà văn Mai Thảo có
một truyện ngắn với nhan đề Mười
Đêm Ngà Ngọc để kể về một
t́nh yêu của hai người đă có gia đ́nh. Chàng,
với vợ con. Nàng, với người chồng hay
vắng nhà - thương, mà không yêu, sống với
nhau v́ nghĩa hơn là v́ t́nh.. . Họ gặp nhau t́nh
cờ, vài lần. . Sau đó, chàng dẫn con lên Đà
Lạt nghỉ mát. . Nàng cũng lên đó thăm
chồng bị tai nạn. . Định mệnh
đưa họ đến gần nhau. . Và đến t́nh
yêu. . Một t́nh yêu mà luân lư và đạo đức
thông thường của xă hội không chấp
nhận. Nhưng cả hai đều chợt nhận ra
họ đă t́m hơn nửa đời bây giờ
mới gặp t́nh yêu đích thực và hiễu
thế nào là yêu thực sự. Họ ngă vào ṿng tay
nhau để yêu như chưa bao giờ yêu, bỏ
mặc những ràng buộc về bổn phận và trách
nhiệm. Thời gian thật ngắn ngủi. Chỉ mười
đêm nhưng đó là t́nh yêu của cả một
đời người. Và đấy là Mười
Đêm Ngà Ngọc. Cả hai người đă t́m
được The Other Half. Nếu Mai
Thảo có Mười Đêm Ngà Ngọc th́ tôi có
Năm Năm Trân Quư. Đối với tôi th́ năm
năm trời sống trong quân ngũ phục vụ
Hải Quân Việt Nam là những ngày tháng đẹp
nhất mà tôi sẽ trân quư thời gian này suốt
đời. Gia nhập quân đội để phục
vụ tổ quốc làm nhiệm vụ của trai
thời loạn. Vào Hải Quân để thực
hiện mộng hải hồ phiêu du đây đó cho
phỉ chí tang bồng. Tôi đă gặp những người
bạn cùng chí hướng cùng nhau nhập học khóa
23 SQHQ Nha Trang và đă có biết bao nhiêu là kỷ
niệm từ ngày đầu tiên vào trại Bach Đằng
II, học căn bản quân sự ở Quang Trung.
Kế đến là ngững ngày thực tập trên
HQ500 trưóc khi ra Nha Trang. Lên tàu được sĩ
quan đàn anh khóa 20 dạy dỗ thật chu đáo
biết thế nào là chạy rùa, gơ sét, sơn nhôm và
những h́nh phạt giáo đầu của quân trường
Nha Trang như chông Koon, móc gị, thăng thổ. Sau khi
tốt nghiệp được gởi đi thực
tập trên US 7th Fleet cùng Trịnh Ḥe với
những bến cảng xa lạ của Đông Nam Á và
gặp gỡ những người con gái đẹp như
tiên xinh như ngọc. Rồi những ngày đi
biển trên HQ612 đă cho tôi thấy nhiều nét đẹp
của quê hương trong những chuyến công tác
tuần dương trên khắp miền duyên hải.
Tiếp nối là thời gian học Anh Ngữ ở trường
Sinh Ngữ Quân Đội với ca sĩ mignon Thanh Mai
qua nhanh đến ngày đi tu nghiệp ở Hoa Kỳ
vào tháng 2-1975. Sau vài tháng tu nghiệp đến ngày
đinh mệnh 30-4 đứt gánh nửa đường.
Khoảng thời gian ngắn ngủi chỉ có 5 năm
nhưng đó là thời gian đẹp nhất đời
mà tôi sẽ không bao giờ quên. Đó là Năm Năm
Trân Quư. Những h́nh ảnh cũ đă làm tôi
nhớ về một khoảng thời gian tuyệt đẹp
xảy ra gần nửa thế kỷ. Một thời
gian thật dài. Năm mươi năm. Đời ta có
được mấy lần năm mươi năm?
Chỉ một lần. Bời vậy tôi muốn
viết lại những gịng hồi kư của thời
gian này khi c̣n nhớ được thứ tự trước
sau. Để năm mười năm sau khi trí đă ṃn,
tim đă mỏi th́ tôi vẫn có thể mở ra để
đọc lại, nhớ về một thời đă
qua mà chúng ta đă một lần có với nhau một
thời gian thật đẹp và hào hùng. Phần
đầu của thiên hồi kư sẽ kể về hai
năm đầu ở trên đất Mỹ. Sau khi
miền Nam rơi vào tay Cộng Sản, tôi và những
quân nhân tu nghiệp ở Hoa Kỳ như một con
thuyền đang trôi giữa gịng nước bỗng
bị mất tay lái, dập d́u trên sóng không định
hướng bơ vơ trên đất khách quê người.
Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng cố phấn đấu
để vượt qua những trở ngại và
sống c̣n v́ Chỉ Có Tinh Thần Là Quan Trọng. CHƯƠNG 2: TÁM TUẦN
LỄ - HAI KHÓA HỌC Đă bao
năm qua nhưng tôi vẫn nhớ về một mùa xuân
năm 1975, mùa xuân đầu tiên trên đất
Mỹ. Với tôi th́ hai năm đầu tiên 1975 và
1976 mang nhiều nét đậm trong tiềm thức mà măi
bây giờ tôi vẫn c̣n nhớ được
nhiều chi tiết. Sau khi
đi thực tập Đệ Thất Hạm Đội
về, tôi được lệnh tŕnh diện HQ612,
Tuần Duyên Hạm Thái B́nh. Sau hơn hai năm hải
hành từ Vùng 1 đến vùng 4 Duyên Hải dạn dày
trong sóng gió đại dương, tôi về Sàig̣n
để học Anh Ngữ bổ túc ở Trường
Sinh Ngữ Quân Đội trong lúc chờ đi tu
nghiệp ở Hoa Kỳ. Khi đến tŕnh diện Pḥng
Quân Huấn ở BTL/HQ, tôi gặp thêm 3 sĩ quan 23
nữa là Nguyễn Văn Kỳ, Lê Đinh Đức và
Lư Văn Năm. Thế là bốn Đệ Nhị
Bảo B́nh, 2 Cơ Khí, 2 Chỉ Huy hop khóa hàng ngày vui
như tết. Chúng tôi
mỗi ngày hai buỏi cắp sách đi học, sáng nghe
lecture, chiều nghe tape. Trong lớp có các quân nhân
của các quân binh chủng, và đặc biệt là có
vài sĩ quan của các binh chủng thiện chiến như
Nhảy Dù, TQLC, BDQ và các vị SQ này có dip là kể
chuyện tác chiến nổ như bắp rang. Lúc
rảnh rang Lư văn Năm biểu diễn nhảy
đầm "phăng" và dạy lại cho cả
lớp. Phải công nhận là Lư Văn Năm nhảy
những bước đào rất nhuyễn. Trưa
thứ bảy có văn nghệ sống do nhà trường
tổ chức với ca sĩ của cục Tâm Lư
chiến. Trong số này tôi c̣n nhớ sự góp mặt
của nữ ca sĩ mignon Thanh Mai. Nhắc đến
Thanh Mai, trong một lần đi Orange County, Kỳ và tôi
đă có dịp gặp lại người ca sĩ
khả ái này. Hiện Thanh Mai đang làm chủ một
nhà hàng kế Phước Lộc Thọ. Thanh Mai bây
giờ tuy đă lớn tuổi nhưng vẫn c̣n
giữ được dáng vẻ dễ thương như
thớ c̣n ở Việt Nam. Cách đối đăi
với khách rất lịch thiệp và ḥa nhă dịu dàng.
Thời gian học ở trường Sinh Ngữ Quân
Đội thật là thần tiên và đôi lúc tôi có
mặc cảm tội lỗi khi thấy ḿnh quá
được ưu đăi trong khi bạn bè đang
phấn đấu với sóng gió biển khơi
hoặc đối đầu với hiểm nguy trong các
Giang Đoàn ở miền Tây. Cuối năm 1974 tôi và Kỳ được
gọi tŕnh diện Pḥng Quân Huấn BTL Hải Quân
để làm thủ tục đi tu nghiệp ở San
Diego, Hoa Kỳ. Cùng đi có thêm 3 Trung Úy nữa là Linh
từ khóa 25 Vơ Bị Đà Lạt, Lập và Bé
từ OCS. Trước ngày khởi hành, chúng tôi
được lệnh vào tŕnh diện HQ Đại Tá
Bùi Hữu Thư, trưởng khối Quân Huấn HQ.
Đại tá Thư nhắn nhủ cố gắng
học hành để tốt nghiệp về phục
vụ cho Hải Quân và nhất là phải nhớ
mỗi quân nhân đi du học là đại diện cho
cả màu cờ sắc áo của Hải Quân nói riêng và
quốc gia Việt Nam nói chung. Có ngờ đâu rằng
chuyến đi này cũng là một chuyến đi
của vĩnh biệt quê hương thân yêu, của
ngh́n trùng xa cách.
Chúng tôi rời Sàig̣n vào
đúng ngày mồng 2 Tết Ất Măo tức ngày 13/2/1975.
Máy bay nghỉ ở Honolulu tiểu bang Hawá vài tiếng
đồng hồ rồi sau đó tiếp tục vượt
biển về phía California. Máy bay đáp xuống thành
phố San Francisco vào khoảng 6 giờ chiều cùng ngày
13/2/1975 v́ nước Mỹ đi chậm lại
một ngày so với Việt Nam. Đón chúng tôi ở
phi trường là một Đại úy HQ Hoa Kỳ. Chúng
tôi được đưa về tạm trú ở
Travis AFB (Travis Air Force Base) và tiếp tục hành tŕnh
đi San Diego vào hôm sau. C̣n nhớ khi bước chân ra
khỏi máy bay tôi đă được chào đón
bằng một cơn gió buốt lạnh thổi vào
mặt. Vốn là dân sống ở miền nhiệt
đới nên khi lần đâù tiên bị một cơn
gió mùa đông Bắc Mỹ đă để lại
trong tôi một cảm giác thật khó quên. Tôi thầm
nhủ " Th́ ra đây là mùa đông của đất
Mỹ. Sau này tôi mới biết San Diego của tiểu
bang California nằm ở phía Nam của Hoa Kỳ nên mùa
đông ở đây không bằng một phần
của những tiểu bang ở miền Bắc như
Minnesota, Wisconsin, New York. Sau này khi làm việc cho Curtiss
Wright trong những lần đi công tác tại Kanata,
một thành phố gần thủ đô Ottawa của
Canada th́ mới biết cái lạnh nơi đây
mới đáng được gọi là chúa lạnh v́
dầu đă đội mũ nỉ che tai nhưng tôi
vẫn có cảm tưởng hai vành tai ḿnh đă
bị rụng đâu mất. Tôi c̣n nhớ là hàn
thử biểu trong xe cho biết là ngoài trời đang
lạnh -5° C. Trời đang mưa và nưóc mưa rơi
xuống mặt đường bị đông thành
đá. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là
Freezing Rain.
Từ phi trường chúng tôi được vị sĩ quan liên lạc đưa về BOQ (Bachelor Officer Quarter) ở gần Point Loma. BOQ của US Navy San Diego là hai dăy nhà ba tầng lầu rất khang trang nằm sát bờ biển trong Naval Training Center. Năm người chúng tôi mỗi người một pḥng riêng có pḥng khách, pḥng ngủ riêng biệt đầy đủ tiện nghi với TV, tủ lạnh, máy điều ḥa không khí.
Trung uư Linh có
một người bạn là Bằng đang du học
ở San Diego State University và Linh đă liên lạc
được với Bằng ngay hôm sau tức mồng
ba Tết Nguyên Đán. Bằng cho biết có hội
Tết do các sinh viên Việt Nam tổ chức tại
khuôn viên trường đại học và rủ
cả bọn đi du xuân. Không bao lâu Bằng đến
đưa chúng tôi đi chợ Tết xem văn
nghệ. Thời gian ấy người Việt ở San
Diego gồm một số it sinh viên Việt Nam và các quân
nhân Hải Quân đang tu nghiệp. Ngoài ra c̣n có
một số phụ nữ Việt kết hôn với quân
nhân Mỹ theo chồng sang định cư tại
San Diego v́ thành phố này là một quân cảng lớn
nhất của Mỹ trên bờ Thái B́nh Dương. Tôi
phỏng đoán dân số người Việt lúc đó
không quá 300 người. Khi biết chúng tôi mới
từ Việt Nam đến, họ nói chuyện với
chúng tôi rất cởi mở thăm hỏi tíu tít. Tối hôm đó cả bọn về nhà
Bằng và ngủ đêm tại đây. Chúng tôi
nằm ngủ ngay dưới thảm. Sáng hôm sau tôi c̣n
đang mơ màng th́ bỗng nghe tiếng nhạc từ
pḥng khách vọng ra. Một người em của
Bằng đă có nhă ư cho khách thưởng thức
điểm tâm với âm thanh của quê hương. Cám
ơn thật nhiêù. Cho đến bây giờ tôi vẫn
chưa quên cảm giác lúc bấy giờ dù đă hơn
40 năm qua. Đó là bài Tà Áo Cưới của
nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Tôi không nhớ tên ca sĩ
nhưng có thể là Giao Linh. Vẫn nằm trong chăn,
tôi nghe hết bài nhạc mà ḷng nghe lâng lâng khó
tả. Thật là tuyệt vời. Tôi cũng không
hiểu tại sao ḿnh vẫn nhớ măi khoảng
thời gian chỉ có vài phút phù du mà mấy chục năm
sau vẫn chưa mờ phai trong kư ức. Chưa bao
giờ tôi thấy bài Tà Áo Cưới hay đến
thế mà những lần sau khi nghe lại bài này tôi không
c̣n được cái cảm giác năm xưa khi
nằm trong chăn ấm và âm thanh nghe thật ngọt
ngào làm sao. Tôi cảm thấy ḷng rung động
dạt dào nhớ quê hương, nhớ gia đ́nh
giờ đă ở bên kia bờ Thái B́nh Dương xa
thẳm mù khơi. Có thể v́ tôi là một người
dễ xúc cảm. Đọc một truyện buồn,
nghe một bài nhạc hay là đủ để tôi
thấy ḷng ḿnh xao động. Tà Áo Cưới - Giao Linh thâu thanh trước 1975 https://www.youtube.com/watch?v=SvE-lqrGxhA Cùng
học chung lớp với chúng tôi là các sĩ quan HQ
của các nước đồng minh của Hoa Kỳ
gồm hai trung uư HQ Thailand, hai trung uư HQ Indonesia, một
đại úy HQ Taiwan và một thiếu uư HQ Columbia. Chúng
tôi thân nhau rất nhanh, chuyện tṛ thoải mái có
lẽ cùng một màu áo trắng và cùng một sở
thích bềnh bồng sóng nước.
Chuyến
tu nghiệp được dự trù chỉ có 8
tuần lễ gồm có hai lớp huấn luyện. Lớp thứ nhất 4 tuần có tên là
Combat Information Center (CIC) Officer Watch được
giảng dạy tại Fleet Combat Training Center Pacific ở
Point Loma. Chúng tôi có dịp ôn lại những bài toán
Vận Chuyển Chiến Thuật đă học ở
Nha Trang do Trung Úy Ḥa đă dạy. Điểm khác
biệt là ở Nha Trang chỉ dạy về lư
thuyết nhưng không có thực hành. C̣n ở đây
chúng tôi có dịp thực hành trong một căn pḥng
lớn được đặt trên một hệ
thống hydraulic để rập theo chuyển động
của một chiến hạm đang hải hành trên
biển. Hệ thống CIC Simulator với đầy
đủ radar, echo thực sự và pḥng CIC Simulator này
cũng thực sự xoay chuyển theo hướng
hải hành của chiến hạm. V́ vậy nên chúng tôi
có cảm tưởng như đang ở trên một
con tàu đang di chuyển thật sự, cũng lắc
lư hoa sóng dâng đầy như trong bài Hoa
Biển của Anh Thy.
Chúng tôi
được học cách giải những bài toán
vận chuyển hóc búa khi các chiến hạm di
chuyển theo đội h́nh, căn cứ vào vận
tốc của tàu ḿnh và tàu bạn cùng với bù
trừ của hướng gió và nước để
giữ một khoảng cách an toàn tối thiểu. Khi
hạm đội ra lệnh đổi hải tŕnh
hoặc vận tốc hải hành th́ SQ đương
phiên CIC phải tính toán thật nhanh để
chuyển lên SQ trưởng phiên trên đài chỉ huy
những thay đổi mới. Điều quan trọng nhất
được các giảng viên nhấn mạnh là an toàn
của hạm đội nói chung và của chiến
hạm cơ hữu nói riêng. Ship Collision Shall Never
Happen. V́ thế trách nhiệm của Sĩ Quan CIC
thật nặng nề trong khi hải hành chiến
thuật. Do đó tôi rất ngạc nhiên khi thấy
gần đây có hai chiến hạm lớn của Hoa
Kỳ đụng với những tàu dân sự ở
biển Nhật Bản và Singapore. Tôi đă từng là
SQ phụ tá CIC trong thời gian thực tập HQ3 sau khi
ra trường Nha Trang trong thời gian chờ đi
Đệ Thất Hạm Đội nên đă có ít
nhiều kinh nghiệm nên biết rằng chuyện đụng
tàu rất khó xảy ra nếu không nói là Impossible v́
trong HQ ai cũng biết là mỗi phiên hải hành đều
có những nhân viên làm công việc quan sát (Look-out: A lookout or look-out is
a person on a ship in charge of the observation of the sea for hazards,
other ships, land, etc.).
Trang bị với một ống ḍm cực mạnh
của hải quân, mỗi người đứng
ở một vị trí đă định sẵn nh́n
chằm chằm trên mặt biển. Hễ thấy
chuyện lạ là các quan sát viên báo cáo vào đài
chỉ huy cho SQ Trưởng phiên. Trừ khi nào mấy
ông thần này ngủ gục hoặc say sóng th́ không
kể. Khóa 23 chúng ta không it người được
chỉ định giữ nhiệm vụ quan sát khi
đi phiên trước khi nhập học Nha Trang.
Rất đông người ôm sô cho chó ăn chè v́ chưa
quen độ lắc sóng của chiến hạm,
nhất là những chiếc Dương vận Hạm và
Hải vận Hạm. Sau 4 tuần lễ học hành chăm
chỉ chúng tôi được phát chứng chỉ
tốt nghiệp và một tấm plaque kỷ niệm. Khóa học thứ hai là Instructor Course được giảng dạy ở
San Diego Naval Training Center. Khóa học này có thêm nhiều
quân nhân Hoa Kỳ tham dự nên lớp bây giờ khá
đông. Chúng tôi được học cách soạn bài
học, cách giảng sao cho lôi cuốn để các
học viên không buồn ngủ và buồn chán. Một
trong những cách làm cho lớp học sống động
là đặt ra những câu hỏi và khi có ai trả
lời đúng th́ phải khen bằng những sáo
ngữ thật đẹp, thật kêu như "That's
wonderful" hay là "Excellent". Và phải
khen càng nhiều càng tốt v́ lời nói đâu
mất tiền mua như ông bà ta đă dạy. Thi tốt nghiệp cuối khóa là
mỗi người tự chọn một đề tài,
tự soạn thảo và chế tạo các học
cụ và thực tập trong pḥng học theo giờ
giấc của riêng ḿnh. Ngày thi
từng người lên tŕnh bày về đề tài ḿnh
cho cả lớp nghe trong khi sĩ quan huấn luyện và
ban giám khảo ngồi ở dăy bàn sau cùng quan sát và
chấm điểm. Nói th́ đơn giản nhưng
khi làm mới biết không dễ. Ngay cả với
những học viên người Mỹ mà vẫn
lắp bắp, toát mồ hôi ướt áo v́ không
phải ai cũng có tài thuyết giảng trước
đám đông khi hàng trăm cặp mắt đang chăm
chú nh́n ḿnh. Áp lực c̣n nặng hơn với các sĩ
quan ngoại quốc như chúng tôi v́ Anh ngữ không là
tiếng mẹ đẻ và dù có giỏi đến
đâu cũng có lúc vấp váp. Ngoài ra nếu bị
đánh rớt th́ sẽ bị mất mặt sĩ quan
HQVN nên ai cũng cố gắng hết ḿnh. Sau cùng
rồi chuyện ǵ cũng qua. Cả bọn năm người
đều bảng hổ đề danh. Mọi người
chúc mừng lẫn nhau rằng " HQVN chứ bộ
giỡn sao" rồi cười vui vẻ. Riêng tôi và
Kỳ nói với nhau câu thần chú của 23: Chỉ có tinh thần là
quan trọng. Chính phủ Mỹ rất chu đáo.
Trong thời gian học chúng tôi được HQ Hoa
Kỳ cho đi thăm Disneyland, San Diego Sea World.
Mỗi người
được giới thiệu một gia đ́nh tư
nhân Mỹ. Cuối tuần họ đón về nhà
ăn uống và chở đi xem các thắng cảnh
của San Diego.
Tôi
được một gia đ́nh Mỹ ông bà Wilson
đón về nhà chơi. Ông bà có dịp t́m hiểu thêm
về văn hóa Việt và ngược lại tôi cũng
có cơ hội học hỏi nếp sống của
một gia đ́nh Mỹ. Ông Wilson từng là cựu sĩ quan US
Navy nay đă về hưu. Ông chưa từng qua
Việt Nam nên ông rất thích nghe chuyện về HQVN.
Nhớ lời dặn ḍ của đại tá Thư trước
ngày lên đường là ḿnh đang đại
diện cho quốc gia Việt Nam, tôi không bỏ lỡ
cơ hội đánh bóng một dân tộc có nguồn
gốc Con Rồng Cháu Tiên ở xứ sở có bốn
ngàn năm văn hiến. Ông bà chở tôi đến
thăm Cabrillo National Monument.
Đây là một thắng cảnh của San Diego.
Tọa lạc trên một mỏm núi cao có tên là Point
Loma trông xuống vịnh Coronado, ta có thể thấy các
thuyền bè ra vào hải cảng tấp nập. Cũng
chính nơi đây, một nhà thám hiểm đại
diện cho vương quốc Tây Ban Nha tên Juan Rodríguez
Cabrillo là người đầu tiên đă đặt
chân lên bờ biển phía Tây của Bắc Mỹ vào
ngày 28 tháng 9 năm 1542. Đây là một mốc dấu
của lịch sử v́ là điểm phát xuất
của lănh thổ miền Tây của Hoa Kỳ trong
những năm về sau. Point
Loma là một đỉnh cao nhất của San Diego và
một ngọn hải đăng đă được
đặt tại đây để soi sáng cho thuyền
bè ra vào hải cảng San Diego vào năm 1855. Hải
đăng này đă thôi hoạt động vào năm
1891 và trở thành một địa điểm thu hút
khách du lịch từ khắp thế giới thăm
viếng và kư vào sổ nhật kư hải đăng. Tôi
cũng kư vào sổ nhật kư này với ḍng chữ
" Ensign Phúc Nguyễn of South VN Navy was here. March-5-1975".
Cũng
trong thời điểm này chúng tôi quen với một
cựu quân nhân Mỹ đă từng tham chiên ở
Việt Nam. Đă lâu nên tôi không nhớ được
tên anh chàng này nhưng hăy cứ tạm gọi anh chàng
này là Dan. Chúng tôi đặt cho Dan một nickname là Ông
Mỹ Mập v́ dáng dấp cao lớn mập mạp.
Dan rất có cảm t́nh với chúng tôi. Ngày cuối
tuần Ông Mỹ Mập đến BOQ chở cả
bọn đi chơi ṿng ṿng San Diego. Cả bọn 5 người
với Dan là sáu chen chúc trên chiếc xe Sport Jaguar 12
xi-lanh. Thời ấy chưa có luật seat belt nên không
có anh cảnh sát nào làm phiền. Chúng tôi ai cũng
mến Dan v́ hắn rất dễ thương.
Chúng tôi cũng quen vài phụ nữ Việt đang cư ngụ ở San Diego. Thỉnh thoảng họ mời về nhà đăi chúng tôi những món ăn Việt như phở, chả gị, canh chua cá lóc. Thật tuyệt vời khi được thưởng thức những món ăn đượm t́nh quê hương v́ chúng tôi ăn hàng ngày những món ăn Mỹ ở Officer's Mess Hall đă chán đến tận cổ. Với những phụ nữ này, chúng tôi là những h́nh ảnh của một quê hương yêu dấu mà họ đă đứt ruột xa rời khi theo chồng về xứ lạ.
Vào
khoảng giữa tháng 3/1975 chúng tôi bắt đầu
nhận được những tin không mấy tốt
từ Việt Nam. T́nh h́nh chiến sự sôi bỏng
ở cao nguyên rồi nối tiếp là cuôc di tản
chiến thuật vĩ đại từ miền Trung.
Mỗi tối chúng tôi theo dơi truyền h́nh rồi bàn
bạc đến nửa đêm. Đến đầu
tháng 4/75 th́ các tỉnh miền Trung bắt đầu
mất vào tay Cộng Sản. Đà Nẵng, Huế, Nha
Trang. Quân lực Viêt Nam Cộng Ḥa rút về cố
thủ ở Phan Rang. Rồi có tin pḥng tuyến này cũng
bị vỡ. Chúng tôi bàng hoàng sửng sốt. Sao
lại có thể như thế được.
Chuyện xảy ra như một cơn ác mộng và
đôi khi tôi không tin ở mắt và tai ḿnh và nghĩ
rằng truyền thông Mỹ bóp méo sự thật. Nhưng
sau đó có lệnh tập họp tất cả các quân
nhân Việt Nam đang tu nghiệp và chúng tôi bị
đặt trước một sự thật phũ phàng.
Chính phủ Hoa Kỳ cho chúng tôi hai chọn lựa.
Một là lên đường về nước và hai là
ở lại với tư cách tị nạn chính
trị. Và phải có quyết định trong 48
tiếng đồng hồ. Chúng tôi nh́n nhau sững
sờ không tin vào chính ḿnh. Vậy là hết. Việt
Nam quê hương ngạo nghễ bây giờ ra sao? Tôi c̣n
nhớ lúc đó là khoảng trung tuần tháng tư
1975. Chúng tôi
đang đứng ở giữa ngă ba đường.
Về nước hay ở lại Mỹ? Cả hai con đường
đều bấp bênh không định hướng, không
sáng sủa. Khi chính phủ Hoa Kỳ đưa ra
quyết định này có nghĩa là miền Nam sắp
rơi vào tay Cộng Sản, sắp bị nhuộm
đỏ. Sau này chúng
ta mới biết chiến thuật di tản chiến
thuật miền Trung là do tổng thống Thiệu
muốn làm áp lực với Hoa Kỳ để bắt
họ phải thi hành Hiệp Định Paris 1973. Theo Paris
Accord 1973 th́ Hoa Kỳ sẽ can thiệp bằng vơ
lực nếu Cộng sản miền Bắc vi phạm
những điều khoản trong hiệp định này
như xâm lăng miền Nam. Nhưng sự thật
đă chứng minh ngược lại. Nixon đă quay mặt làm ngơ. Ông Thiệu đă thua
một ván x́ phé mà ông đă tố xả láng bằng
cả số phận quân dân miên Nam. Chúng tôi
như những con kiến trên chảo nóng. Chạy loanh
quanh nhưng không biết phải làm sao cho đúng. Tôi
đánh điện tín về Sàig̣n hỏi ư kiến
gia đ́nh. Ba tôi trả lời vỏn vẹn 3 chữ:
CON Ở LẠI. Sau đó một tuần lễ tôi
nhận được một lá thư do ông viết
rằng tôi có trở về cũng không giúp ǵ cho gia
đ́nh có khi c̣n làm liên lụy cho gia đ́nh. Ba tôi
đă cho thiêu hủy tất cả những ǵ liên quan
đến tôi. Bằng cấp tốt nghiệp SQHQ, h́nh
ảnh, quân phục đều bị đốt
hết. Tôi đă biến mất trong chính gia đ́nh
đă sinh ra ḿnh v́ nghĩ rằng sẽ có một
cuộc lùng bắt trả thù những quân nhân c̣n
tại ngũ khi Cộng Sản chiếm được
Sàig̣n. Thư viết rằng trong khi ở Sàig̣n có
rất nhiều người đang t́m đủ cách
để rời Việt Nam v́ vậy tôi nên ở
lại và nếu có bề ǵ th́ gia đ́nh vẫn c̣n
một người sống sót. Trời ơi sự
thật có thể lại thê thảm và phũ phàng
đến thế sao? Tôi tin vào lời khuyên của ba tôi
v́ trước kia ông cũng đă từng là quân nhân
và đă tu nghiệp Hoa Kỳ năm 1958-1959. Ngoài ra ba tôi
cũng có kinh nghiệm với Cộng Sản trước
khi đem gia đ́nh di cư vào miền Nam năm 1954. Sau hai ngày
dài đằng đẵng nhóm chúng tôi 5 người
đă có quyết định. Hai trung úy OCS Lập và Bé
sẽ trở về v́ không nỡ bỏ lại vợ
con gia đ́nh bơ vơ. Cao quư thay t́nh vợ chồng
và trách nhiệm gia đ́nh. Tôi, Kỳ và Linh ở
lại v́ cả 3 c̣n độc thân. Ngày tiễn Bé và
Lập ra phi trường trở về Việt Nam
thật buồn thảm. Ai cũng thấy trời đang
nắng mà mắt ḿnh như có nước. Nh́n hai người
bạn bước lên máy bay trở về quê nhà mà ḷng
quặn đau v́ có thể sẽ không bao giờ
gặp lại. Họ sẽ sống trong lao tù hay bị
mất mạng trong cuộc tắm máu của Cộng
Sản. Có ai biết được chuyện ǵ sẽ
xảy ra? Họ là những Kinh Kha thời đại
đang đi vào lănh thổ của bạo chúa Tần
Thủy Hoàng nhưng vẫn kiêu hùng dấn bước.
Măi hơn 40 năm sau tôi và Kỳ mới có dịp
gặp lại Lập do một t́nh cờ Lập cũng
quen biết với Trịnh Ḥe. Sau đó chúng
tôi đă gặp nhau ở Santa Ana trong năm 2016.
Một cuộc hội ngộ thần kỳ. Lập cho
biết đang sống ở Canada. Sau ngày trở về
Việt Nam năm trong tháng tư 1975 Lập đă
mất liên lạc với Trung Úy Bé. Vài lời nhắn
Trung Úy OCS Vơ văn Bé từng đi tu nghiệp tại
Hoa Kỳ trước tháng tư 1975. Nếu anh đang
sống ở một vùng đất tự do th́ chúng tôi
xin chia vui với anh. Ngày anh và Lập rời Hoa Kỳ
trở về Việt Nam chúng tôi ba người ở
lại đă cầu nguyện thật nhiều cho hai người
v́ biết rằng cả hai đang đối đầu
với nhiều bất trắc hiểm nguy. Trở về từ phi trường tôi
thấy ḷng nặng trĩu sầu muộn. Tôi pha cho ḿnh
một ly cà phê đốt một điếu thuốc và
ngồi trấm tư suy nghĩ ḿnh phải làm ǵ trong
những ngày sắp tới. Chính phủ Hoa Kỳ
thộng báo cho những quân nhân quyết định
ở lại sẽ được hưởng quy
chế tị nạn chính trị nhưng chúng tôi không
có một khái niệm về quy chế này có nghĩa là
ǵ. Họ cũng cho biết chúng tôi sẽ được
ở lại trong BOQ thêm một tháng rố phải
dọn ra và tự lực cánh sinh. Your government exists no longer. Chính phủ
của các anh không c̣n nữa. Ôi cái hiện tại thật là phũ
phàng. Chúng tôi nh́n nhau nghẹn ngào mà ḷng tan nát.
Thế là hết. Có nghĩa là đường binh
nghiệp từ đây đứt gánh nửa chừng,
giă từ vũ khí trong khi c̣n quá trẻ và tràn đầy
sinh lực. Từ đây sẽ phải từ bỏ
những mong ước khi gia nhập Hải Quân: đến
những bến bờ xa lạ, hải đảo
thần thoại với những nàng mỹ nhân ngư và
ước mơ sau cùng vẫn là được đeo
bánh lái hạm trưởng trên ngực áo để
tự hănh diện là ḿnh đă thực hiện
được giấc mơ của đời trai
thời chinh chiến. Tất cả đă mất
hết. Tôi sẽ là người thủy thủ đă
mất tàu và mất cả đại dương.
Rồi đây đời ḿnh sẽ ra sao? Có bao giờ
được trở về quê nhà bước trên
đường xưa lối cũ, gặp lại cha
mẹ và các em thân yêu và bạn bè và người yêu
bé bỏng? Dù chỉ là những suy tưởng
viển vông xa vời không ai biết được
Cộng Sản sẽ làm ǵ khi chiếm được
miền Nam nhưng đó vẫn là một hy vọng.
Một hy vọng thật xa vời và không tưởng. Những người bạn đồng
minh học cùng lớp với chúng tôi cũng đang
sửa soạn về nước. Họ nh́n chúng tôi
với ánh mắt ái ngại nhưng tôi đă đọc
được sự cảm thông. Tuy mới gặp nhau
nhưng chúng tôi cũng từng chia sẻ với nhau
những chuyện vui, nụ cười cũng như
kinh nghiệm về hải nghiệp. Tối hôm đó ông đại úy HQ
Đài Loan gơ cửa vào pḥng tôi nói chuyện. Ông nói
rằng chúng tôi quyết định ở lại Hoa
Kỳ là đúng. Ông nói xứ sở ông cũng
phải lo chống lại CS Trung Quốc nên ông cũng
được học hỏi nhiều về lư
thuyết Cộng Sản. Ông nói ngày mai ông lên
đường về nước và chúc chúng tôi ở
lại được nhiều may mắn trên vùng đất
tự do. Tôi cũng chúc ông lên đường b́nh
an. Thấy người lại nghĩ đến ḿnh mà
buồn. Xứ sở của họ không có chiến
tranh trong khi quê hương Việt Nam chưa được
một ngày thanh b́nh kể từ sau 1960. CHƯƠNG 4: TA RA ĐI NAY MẤT LỐI QUAY VỀ Ngày 30-4-1975, theo dơi tin tức trên
truyền h́nh chúng tôi biết rằng dân chúng ở Sàig̣n
đang đứng ngồi không yên v́ mặt trận Xuân
Lộc đă vỡ v́ không chịu được
sức ép của Cộng quân. Phi trường Tân sơn
Nhất bị pháo kích khiến một số phi cơ
bị hư hại nặng. Tổng thống Trần văn
Hương bàn giao chính phủ lại cho Đại Tướng
Dương văn Minh v́ nghe nói phe CS chỉ muốn nói
chuyện với ông Minh. Khi nghe tin ông Minh ra lệnh cho
quân đội buông súng chúng tôi ba đứa nh́n nhau
không nói, sững sờ. Ông tổng thống một ngày
đă thực sự bóp chết Việt Nam Cộng Ḥa.
Có người cho rằng ông làm thế để
cứu Sàig̣n thoát khỏi một cuộc tắm máu. Người
th́ cho rằng ông Minh đă được dàn xếp
để Cộng Sản chiếm được
thủ đô mà không tốn một viên đạn. Tôi
không có tư cách để phê phán hành động
của ông Minh là đúng hay sai v́ đó là vai tṛ
của những người viết sử. Nhưng
chỉ biết rằng từ đây tôi đă mất
lối quay về. Khi lên đường đi du học
tôi không bao giờ nghĩ rằng đó là một
chuyến đi không trở lại. Những kỷ
niệm thời đi học, mới lớn, những
mối t́nh lớn và nhỏ đều phát xuất
từ bên kia Thái B́nh Dương và ở lại vùng
trời thương yêu đó và biết đến bao
giờ tôi mới t́m lại được nếu không
c̣n đường quay về đường xưa
lối cũ? Đời Sống Mới Trước khi rời Việt Nam chúng tôi
được phép mang theo một số Mỹ Kim đổi
theo hối xuất chính thức. Khi đến Hoa
Kỳ, chúng tôi được phát lương hàng tháng
mỗi ngày $8.00. Chúng tôi đă xài khá nhiều tiền
trong viêc mua quà cho gia đ́nh và dĩ nhiên là có
phần của người yêu. Khi nh́n những gói quà ḷng tôi quặn
thắt xót xa v́ không biết đến bao giờ tôi
mới được gặp lại những người
thân thương. Vào khoảng tháng 5/1975 chúng tôi
được tin có một số lớn dân tị
nạn Việt Nam được chính phủ Hoa Kỳ
cho tạm trú ở Camp Pendleton của Thủy Quân
Lục Chiến Mỹ cách thành phố San Diego 60 miles
về phía Bắc. Tin này làm xôn xao cộng đồng
dân Việt Nam lưu vong ở đây. Chúng tôi ḍ
hỏi đường đi nước bước, xem
bản đồ (lúc bấy giờ chưa có GPS hay
Smart phone nhé các bạn) và ba đứa tôi đi chung
với một số bạn bè đến trại
tị nạn. Phải nói là nh́n đâu cũng thấy
những lều trại dựng kế nhau san sát. Tôi
đoán chừng phải đến mấy ngàn người
tị nạn Viêt Nam sống ở đây, Tent City. Tôi
rảo bước vào từng lều hy vọng t́m
được gia đ́nh có thể thoát đi vào phút
chót nhưng đi mỏi chân mà vẫn không gặp ai
quen chứ đừng nói là thân nhân hay bạn bè. Thật là
“triệu người quen có mấy người
thân" V́ chưa có xe nên chúng tôi phải đi
chung xe với bạn bè. Đến lúc về th́ cả
ba đứa đều bị kẹt lại v́ xe này tưởng
xe kia chở chúng tôi. Thế là cả 3 người chúng
tôi trở nên lạc lơng trong trại tị nạn hàng
ngàn người. Trên người chúng tôi chỉ có căn
cước quân nhân mang từ Việt Nam và căn cước
quân sự của Hoa Kỳ cấp khi đi du học. Chúng
tôi t́m gặp những giới chức có thẩm
quyền và được giới thiệu một nhân
viên của Sở Di Trú Hoa Kỳ. Sau khi nghe tŕnh bày
tự sự và kiểm soát giấy tờ chứng minh,
ông này liền đề nghị chúng tôi ở lại
trại để làm Thông Dịch viên với tư cách
t́nh nguyện. Chúng tôi đồng ư ngay v́ có cơ
hội giúp người đồng hương và
biết đâu gặp được thân nhân gia đ́nh
th́ thật là nhất cử lưỡng tiện.
Mỗi người được cấp một ID badge
và được ưu tiên ra vào các văn pḥng
dịch vụ Di Trú Hoa Kỳ.
Sau vài
tuần chúng tôi không ai gặp được người
thân và cũng đă đến lúc sắp phải
trả pḥng lại trong BOQ cho chính phủ Mỹ nên
cả 3 đành từ giă các nhân viên US Immigration.
Họ cấp cho chúng tôi giấy chứng nhận đă
từng làm Thông Dịch cho Sở Di Trú để lưu
vào hồ sơ tị nạn cá nhân. Tôi nghĩ tấm giấy này có thể đă có ảnh hưởng 5 năm sau khi tôi thi vào quốc tịch Hoa Kỳ. Sau khi đọc hồ sơ của tôi, nhân viên di trú chỉ hỏi tôi 2 câu như sau: ·
Nếu anh
được phép gia nhập US Navy và phục hồi
chức vụ th́ anh nghĩ sao? Sau vài giây
suy nghĩ tôi trả lời không đắn đo: ·
Thưa ông tôi
sẽ từ chối gia nhập quân đội Hoa
Kỳ. ·
Tại sao? Có
thể cho biết lư do? ·
Thưa ông, tôi
gia nhập Hải Quân Việt Nam là để bảo
vệ tự do cho dân tộc và nền độc
lập của miền Nam. Chúng tôi bị đặt vào
một t́nh thế bắt buộc phải tự vệ
trước cuộc xâm lăng của Cộng Sản
miền Bắc với sự hổ trợ đắc
lực của Cộng sản quốc tế là Sô
Viết và Trung Cộng. Tôi sẵn sàng đổ máu
hoặc hy sinh mạng sống cho một đất nước
duy nhất đó là Việt Nam Cộng Ḥa mà thôi. ·
·
Nếu ông
được gia nhập công dân Mỹ và nếu có
chiến tranh ǵữa Hoa Kỳ và Việt Nam th́ ông
chiến đấu bên nào? ·
·
Thưa ông c̣n
tùy. Nếu Việt Nam vẫn c̣n là một quốc gia
Cộng Sản th́ tôi sẽ chiến đấu dưới
lá cờ của Hoa Kỳ. Cũng v́ những con ngưới
Cộng sản đó mà tôi trở thành một tị
nạn chính trị không c̣n quê hương, mất
đi tất cả những ǵ tôi đă gầy
dựng bao nhiêu năm qua. Rất nhiều đồng
bào tôi đă ra đi trong tháng 4-1975 khi Sằig̣n
thất thủ chỉ v́ không chấp nhận sống
chung với Cộng Sản. Tôi sẽ không bao giờ
chấp nhận sống chung với họ hay thở
chung một bầu không khí với họ th́ nói chi
đến việc chiến đấu cùng họ. C̣n
nếu Việt Nam là một sứ sở tự do không
Cộng Sản th́ tôi sẽ trở về Việt Nam
để chiến đấu cho quê hương tôi. ·
Nay chỉ c̣n ở free trong BOQ 30 ngày nên
3 người không ai bảo ai tự động lo
tiết kiệm cho những ngày bất định
sắp đến. Chúng tôi dẹp mục đi ăn
ở Câu lạc bộ SQ và thay vào đó là cuốc
bộ đến chợ VONS cách BOQ khoảng 1 mile mua cánh
gà, ḿ gói và một cái bếp điện và từ
đó ḿ gói làm chuẩn. Thuở đó chưa quen
lắm với những tiệm Fast Fod của dân Mỹ
như Mac Donald. Những ngày đầu tiên ở Mỹ
khi xe chở đi học tôi ngắm đường
phố và rất làm lạ khi thấy một tiệm
ăn mang bảng hiệu Jack In The Box với
một chú hề tḥ đầu ra từ một cái
hộp v́ không hiểu ở đó bán món ăn ǵ.
Thắc mắc mà không dám hỏi ai v́ sợ bị chê
là cù lần. Sau này mới biết tiệm này bán
Hamburger và khoai chiên. Nói về Hambuger th́ tôi chạy món
này v́ người Mỹ họ bỏ đủ thứ
hầm bà lằng: rau xà lách, cà chua, một lát cheese
chung với một miếng thịt nghiền. Nhưng tôi
lại chịu món khoai chiên. Thơm và lạ miệng nên
vào tiệm tôi chỉ ăn khoai chiên. Sau này khám phá
tiệm Kentucky Fried Chicken chuyên bán gà chiên và ngay lập
tức tôi trở thành khách hàng thường xuyên
của ông già tóc bạc. C̣n về thức uống th́
chúng tôi không lạ ǵ với các loại soda như
Cocacola, Pepsi nhưng khi uống cà phê Mỹ lần đầu
tiên thật là muốn nhổ ra ngay lập tức. Cà
phê ǵ mà chua thế tôi tự hỏi. Chúng tôi bảo nhau phải lo an cư trước
khi thời hạn 30 ngày hết hạn. Ba chúng tôi lo
đi t́m Appartment để mướn. Vấn đề
là t́m ở đâu để tiền mướn
rẻ. Cuối cùng chúng tôi chọn vùng Imperial Beach tuy hơi
xa trung tâm thành phố khoảng 20 miles về phía Nam nhưng
được cái gần biển nên khí hậu dễ
chịu. Tôi tự an ủi ta đă mất tàu nhưng
vẫn c̣n biển làm bạn nên không hoàn toàn mất
hết. Imperial Beach (IB)là một thành phố nhỏ
ở về phía cực Nam của San Diego gần biên
giới Mễ nên giá cả mướn ở đây khá
rẻ nếu so sánh với những khu khác như Ocean
Beach (OB), Pacific Beach (PB), University City. Chúng tôi ở cái
appartment trên đuờng Calla Avenue một thời gian
khoảng hơn một năm.
The First
Job Ông Mỹ Mập đến thăm và
chỉ chúng tôi cách đi t́m việc làm trong mục
Help Wanted trên báo địa phương. Sau cùng cũng
chính hắn giới thiệu cho chúng tôi t́m được
việc làm đầu tiên trên đất Mỹ. Đó
là làm Housekeeper ở một khách sạn tên là Posada
Inn ở Shelter Island với tiền lương là
$2.10 một giờ. Thời đó giá sinh hoạt c̣n khá
rẻ và để các bạn so sánh một dozen
trứng giá $0.35. Xăng th́ $0.30 một gallon. V́ vậy
lương $2.10 một giờ cũng c̣ thể xoay
sở để sống được v́ chúng tôi chia
nhau tiền nhà căn appartment 2 pḥng với gia thuê là
$600 một tháng. Lúc này Linh đă có bạn gái nên hai
người họ chiếm pḥng master. Kỳ và tôi
ở chung căn pḥng nhỏ hơn nhưng tiền nhà
chia đều làm 4 nên cũng không đến nỗi nào
chật vật. Chúng tôi chia đều tiền chợ và
v́ có người đàn bà trong nhà nên nhà cửa
gọn ghẽ và được ăn cơm nóng canh
ngọt đều đều. Hotel này cách chỗ chúng tôi cư
ngụ khoảng gần 20 miles. Ngày đầu tiên đi
làm chúng tôi ăn mặc chỉnh tề, đầu tóc
gọn ghẽ. First Impression is very important. Ông Mỹ
Mập dặn ḍ chúng tôi như vậy. Chúng tôi
được giới thiệu với người
Supervisor là một bà Mỹ cũng mập không kém ǵ ông
bạn Mỹ Mập tôi thầm nghĩ. Chúng tôi được chỉ dẫn cách
làm giường, chùi cầu tiêu, lau pḥng tắm, hút
buị, lau bàn ghế. Ba đứa chúng tôi nh́n nhau.
Đang là những SQHQ oai phong lẫm liệt mà một
sớm một chiều phải đi làm bồi pḥng.
Thật là một sự đổi đời. Tôi
nhớ những ngày thực tập trên Đệ
Thất Hạm Đội ở chung pḥng với một
thiếu uư HQ Mỹ, hàng ngày có lính làm giường và
quét dọn pḥng ngủ. Bữa ăn chúng tôi được
phục vụ chu đáo đến tận răng. Truyền thống HQ là các sĩ quan phải vào pḥng
ăn trước hạm trưởng 5 phút trừ
những ai đang đi phiên. Khi hạm trưởng vào mọi người
đứng dậy đợi ông ngồi xuống
rồi tất cả cùng ngồi. Sau đó
hai người lính tiếp vụ mới bắt đầu
serve mọi người dĩ nhiên bắt đầu
từ hạm trưởng. Rất nhà nghề một
tay họ ôm khay thức ăn, tay kia gắp đồ
ăn như steak, chicken vào đĩa từng người
một rất nhẹ nhàng mặc dầu tàu đang
hải hành trên biển. Khi serve nước uống thí
dụ như cà phê, một tay cầm b́nh cà phê, tay kia
để sau lưng, hơi cúi ḿnh và rót vào tách cà phê
đang để trên bàn. Sau đó hai anh lính này đứng
ở hai đầu bàn nếu có ai cần ǵ th́ sẽ
phục dịch. Nghe những tiếng Sir và Aye Aye Sir
nhàm cả tai. Vậy mà bây giờ th́ sao? Thi phải
vậy chứ sao. Thôi ta đành mượn một câu
nói của Ngô Thời Nhậm đời Tây Sơn: Gặp
thời thế, thế thời phải thế.
Một thời huy hoàng nay c̣n đâu. Posada Inn là một khách sạn thuộc
hạng khá sang trọng. Vùng Shelter Island là một
bến cảng với những du thuyền đủ
kiểu và là một nơi mà du khách thích đến
để ngắm cảnh dạo phố và mua sắm.
Thành phố San Diego là một trong những thành phố
hấp dăn khách du lịch từ khắp nuớc Mỹ
do khí hậu hiền ḥa nhờ ở sát bờ
biển. Thành phố này c̣n được khách du
lịch tặng cho một danh hiệu thật đẹp
là American Finest City. Và cũng chính v́ thế mà
những khách sạn ở đây rất đắt khách
vào mùa hè nên họ cần tuyển dụng thêm người
dọn pḥng. Đó cũng là lư do chúng tôi được
nhận vào làm việc vào mùa hè năm 1975.
Một toán hai người chịu trách
nhiệm một tầng lầu có khoảng 30 pḥng
ngủ. Chúng tôi đẩy một cái xe trên đó có
đủ đồ nghề clean up và máy hút buị
loại heavy duty. Ngoài ra c̣n có đủ các loại
supply như khăn tắm, xà bông, toilet paper etc. Trước
khi vào pḥng, chúng tôi gơ cửa rố lên tiếng: House
Keeping. Nếu không có ai lên tiếng có nghĩa là khách
đă đi khỏi. Dùng master key chúng tôi mở cửa
và bắt đâù dọn dẹp. Ba người chúng tôi bị tách ra và
mỗi người được làm chung với
một người khác để được
"dạy dỗ" thêm. Làm xong pḥng nào th́ bà
Supervisor đi kiểm soát. Thấy có ǵ sơ sót là bà
quát tháo ầm ĩ. Chúng tôi cắn răng chịu
đựng. Tôi và Kỳ bảo nhau trong giờ nghỉ
ăn trưa câu thần chú của khóa 23: Chỉ có tinh thần là quan trọng. Riêng Linh th́ xuống tinh thần
thấy rơ. Bề ǵ th́ chàng cũng xuất thân từ
Vơ Bị Đà Lạt, một quân trường nổi
tiếng bậc nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ
với niềm kiêu hănh vô biên. Những mong đường
binh nghiệp được rực rỡ thăng
tiến vậy mà một sớm một chiều đă
mất hết. Tôi thấy đôi mắt Linh long lanh
ngấn lệ. Đến bây giờ tôi mới thấy
thấm thía về sự mất mát to lớn của ḿnh
khi nh́n thấy Linh và tôi cũng thấy h́nh ảnh
của chính tôi. Ngày đầu tiên về đến nhà
chúng tôi mệt muốn đứt hơi. Ăn uống
qua loa, tắm rửa vội vàng là lăn quay ra ngủ.
Sáng hôm sau ông Mỹ Mập đón đi làm lúc 7:30 và
cứ tiếp tục như vậy khoảng một
tuần lễ. Trong tuần lễ này chúng tôi t́m
hiểu cách đi xe bus, nghiên cứu thời biểu
từng chuyến xe để đi cách nào th́ đến
được nơi làm việc. Chúng tôi cám ơn ḷng
nhiệt thành giúp đỡ của Mỹ Mập và nói
rằng không muốn làm phiền hắn thêm nữa v́
dầu sao chúng tôi cũng phải tự lập cánh
sinh. Chuyện đầu tiên chúng tôi khám phá
là v́ thuê nhà rẻ nên nơi ở khá xa trung tâm thành
phố. Chúng tôi phải đi 3 chuyến xe bus và
phải dậy từ 5:30 sáng đi xe bus xuống down
town San Diego. Từ đây phải chạy bộ
khoảng 1/2 mile đến một trạm bus khác để
kịp lên xe bus đi Shelter Island và vào làm việc trước
8:30 am. Nếu trễ chuyến xe này th́ phải chờ
nửa tiếng đồng hồ mới có chuyến
sau và sẽ phải nghe những lời cằn nhằn
của bà Mỹ Supervisor khó chịu mà chúng tôi đặt
tên là Bà Già Giết Giặc. Lúc về th́ đi ngược
lại và về đến nhà đă hơn 8 giờ
tối. Ăn uống tắm rửa xong là 10 giờ
đêm. Một ngày đă hết. Một ngày mới
sẽ lại bắt đầu vào ngày hôm sau. Sang đến tuần thứ hai th́ tôi
và Kỳ đă quen và đă có thể một ḿnh
một dăy lầu. Nhưng Linh đă quyết định
xin nghỉ v́ đă t́m được một việc làm
khác ở một warehouse. Cũng là công việc khuân vác
nặng nhọc nhưng ít ra không phải chùi pḥng
tắm và cẩu tiêu và phải thấy bản mặt
khó thương của Bà Già Giết Giặc, Linh nói
thế. Tôi và Kỳ tiếp tục làm ở khách
sạn này khá lâu cho đến mùa đông 1975 th́
bị cho nghỉ v́ mùa đông ít khách du lịch. Cũng
cần nói thêm là công việc ở đây có nhiều
làm nhiều, có ít làm ít nhưng trung b́nh th́ 6 tiếng
đồng hồ một ngày. Hôm nào may mắn dọn
pḥng th́ được khách bỏ lại tiền tip trên
dresser. Lúc th́ 25 cents, lúc th́ 50 cents. Ít nhiều ǵ chúng
tôi cũng hốt bỏ túi và hát bài Có C̣n Hơn Không.
Có những ngày làm hết sớm th́ chúng tôi đi quét
parking lot. Công việc này đơn giản nhưng
nhiều khi vừa quét xong th́ chỉ cần một cơn
gió là lá mùa thu lại rụng xuống và phải
chạy theo nhặt lên. Tôi chợt nhớ đă đọc
ở đâu đó một bài thơ có hai câu: Đố ai quét sạch lá rừng, Để ta khuyên gió gió đừng rung cây Tôi chỉ
mong ông thần gió đừng chơi tôi nữa để
lá mùa thu thôi rụng xuống cái parking lot tôi vừa quét
sạch. Những ngày ít việc chúng tôi bị
cho nghỉ sớm và thế là tiền lănh ra tháng
ấy giảm sút. Đôi khi chúng tôi trốn trong thang máy,
nhấn nút đi lên đi xuống cho đủ 15 phút
v́ đồng hồ bấm thẻ tính theo mỗi ¼
giờ. Nếu đi ra lúc 1:10' PM th́ đồng hồ
chỉ tính đến 1:00 PM thay v́ 1:15 PM. Vậy th́ hai
đứa chui vào thang máy tiêu khiển cho đúng 1:15 PM
rồi ra bấm thẻ giờ. V́ 15 phút cũng là 52
cents chứ đâu ít ỏi ǵ. Khi ḿnh nghèo th́ một
đồng 5 cent cũng không dám phí huồng chi là 52
cents. Thời 1975 c̣n có các trạm điện thoại
của Pacific Bell dựng ở các nơi công cộng như
chợ, bưu điện và giá một cú điện
thoại local là 5 cent. Đôi khi chúng tôi làm sang bỏ
25 cent vào bàn bida trong Hotel lounge để chơi đỡ
buồn và vài lần tổ đăi khi bỏ tiền vào
mà máy từ chối không nhận th́ chơi free mà cũng
v́ thế chúng tôi khám phá cả đống bạc
cắc trong máy. Hai thằng tôi cứ lẳng lặng
hốt hết chia nhau rồi cười hoài v́
được bổng lộc bất ngờ. Những hôm
được lộc trời như vậy th́ mỗi
thằng cũng được vài dollars. The First Car Tôi và Kỳ bàn nhau ḿnh phải mua xe
để đi lại dễ dàng hơn và cũng có
thể t́m việc khác tốt hơn. Việc đầu
tiên là phải học lái xe, lấy bằng lái. Nhờ
những người bạn Việt Nam chỉ dạy
tận t́nh, tôi và Kỳ thi đậu và có bằng lái
dễ dàng. T́m đọc mua xe cũ trên báo tương
đối dễ mà khó. Xe th́ nhiều nhưng chúng tôi
đâu có kinh nghiệm về xe cộ th́ biết mua xe
nào cho đúng và quan trọng nhất là phải vừa
túi tiền. Hai chúng tôi chỉ có khoảng $1,000 nên
sự lưạ chọn thật là giới hạn.
Cuối cùng chúng tôi cũng mua được một
chiếc xe cũ hiệu đời 1972 Chevy Vega với
giá $900 và do tôi đứng tên và Kỳ cho mượn
$450. Thời đó xe số tay rất thịnh hành và
rẻ hơn xe tự động. Cũng phải
vất vả một thời gian tôi mới quen sang
số và xe không bị chết máy khi sang lộn từ
số 1 sang số 3 ở đèn đỏ. Nhưng
khổ nhất là khi xe dậu vào parking lot của
appartment v́ parking ở trên mặt phẳng khá dốc.
Vừa ngó hai bên để không đụng vào xe đang
đậu bên cạnh vừa phải giữ chân
thắng để xe không bị tuột dốc lúc sang
số 1 rồi đạp gas cho xe leo vào chỗ đậu
là cả một vấn đề. Những ngày đầu
xe cứ bị chết máy v́ lộn số 3 thay v́
số 1. Những rồi tôi cũng quen và xe đă
hết chết máy. Nhờ chiếc xe này mà tôi và
Kỳ có dịp đi chơi nhiều thắng cảnh
San Diego.
Nhưng
chỉ được vài tháng đầu ngoan ngoăn sau
đó chiếc Vega bắt đầu giở chứng
nằm vạ dài dài. Tôi bắt đầu làm quen
với máy móc xe cộ từ đó và biết rằng
Vega là một model dở nhất của Chevrolet v́ thường
bị hư hệ thống điện. Cũng v́
vậy tôi rủ Kỳ đi học một khóa Mechanic
vào ban đêm do chính phủ Mỹ đài thọ theo chương
tŕnh CETA. Thế là ban ngày đi làm Housekeepers, ban đêm
chúng tôi đi học nghề thợ máy. Chúng tôi
học cách ră một bộ máy của một chiêc xe
con cóc Volkswagen sau đó ráp trở lại và cũng
nhờ vậy mà biết những bộ phận nào tên
ǵ và chúng hoạt động ra sao. Nhưng sau khi
học xong cả hai thấy ḿnh không có năng
khiếu về máy móc nên không theo đuổi tiếp
nếu không đă là bạn đồng nghiệp
của Phạm Hữu B́nh trên Orange County vào những năm
sau này. Trong nhóm học viên có một người
Việt tên là Thức. Anh ta cùng lứa tuổi với
chúng tôi mang vợ con thoát khỏi Việt Nam vào
giờ thứ 25 và định cư ở San Diego. Anh
Thức tiếp tục theo nghề thợ máy và sau này
làm chủ một cây xăng ở Imperal Beach. Khoảng
cuối năm th́ Kỳ mua xe riêng và chúng tôi cũng
rời bỏ Posada Inn để kiếm công việc
tốt hơn. Tôi được nhận vào làm
Mechanical Assembler cho một hăng sản xuất máy bơm
kỹ nghệ ở Brown Field, một vùng đất khô
cằn sỏi đá nằm kế Imperal Beach. Kỳ vào
làm cho một cây xăng ở gần phi trường. Tôi
phải khuân vác những bộ phận máy móc thật
nặng khoảng 75-100 lbs mà đối với người
Mỹ th́ chẳng thấm vào đâu nhưng với
một người ốm yếu nặng có 120 lbs như
tôi th́ thật vất vả. Lại gặp đám công
nhân Mễ phe đảng ăn hiếp ma mới nên chúng
tha hồ quay anh thợ Việt như dế. Ngày nào
về nhà tôi cũng đau nhức khắp người,
xức Bengay mệt nghỉ. Kỳ bèn xin cho tôi vào làm
chung cây xăng và từ đó đời cũng đơ
khổ hơn. Ông chủ cây xăng là một người
rất tốt và v́ có cảm t́nh với dân tị
nạn Việt Nam nên giúp đỡ thật tận t́nh.
Cây xăng của ông tọa lac gần phi trường
San Diego International Airport nên rất đắt khách. Cây xăng
có Car Wash. Chúng tôi bán xăng và kiêm luôn việc lái xe
của khách vào giàn máy rửa xe. Thời bấy
giờ chưa có Self Service như bây giờ. Tất
cả đều là Full Service. Khách chỉ việc đậu
xe kế bơm xăng. Chúng tôi là Gas Attendant có phận
sự chào hỏi thật lễ độ, đổ xăng
cho khách trong khi họ vẫn ngồi trong xe. Nếu
họ muốn rửa xe th́ ḿnh lái xe họ vào
đường rail của Car Wash rồi nhấn nút cho
xe chạy vào máy. Phía bên kia có sẵn một đội
ngũ lau xe chờ sẵn để lau khô xe. Những
người này mới đáng thương hơn v́
họ phải làm việc giữa trời nắng,
mồ hôi nhễ nhại. Hôm nào trời mưa th́ Car
Wash đóng cửa và dĩ nhiên họ cũng phải
nghỉ ở nhà và không được trả lương.
Sau khi xe được lau khô chúng tôi giao xe cho khách
với câu chào từ giă Thank You.
Please Come again Sir. Nghĩ lại cũng buồn chỉ mấy tháng trước
đây ḿnh cũng là Sir nhưng bây giờ th́ đă
xuống thằng. Đời thật lắm khi bất
ngờ. Khi lên voi. Lúc xuống chó. C'est La Vie. Vào
cuối năm 1975 có hai kỷ niệm mà tôi nhớ măi.
Tháng 10 ngày 31 là ngày sinh nhật của tôi nhưng cũng
là ngày dân chúng Mỹ mừng ngày Halloween. Hôm ấy tôi
đi làm về đang ở trong nhà chuản bị
ăn tối th́ có tiếng đập cửa. Nhà có ḿnh
tôi v́ ba người kia đi chưa về. Khi ra mở
cửa th́ thấy một đám trẻ con ăn
mặc rất kỳ lạ sau này tôi mới biết chúng
mặc costume. Mỗi đứa mang một cái bao đựng
ǵ tôi không rơ. Đứa nào đứa nấy đồng
thanh la: Trick or Treat và mở bịch ra. Tôi không
hiểu nó muốn ǵ khi nói Trick or Treat nhưng khi
nh́n vào trong th́ thấy những viên kẹo đủ màu
đủ loại. Cứ tưởng chúng mang kẹo
đến mừng sinh nhật của ḿnh nên rất vui
vẻ nên tḥ tay vào lấy ra một nắm kẹo
miệng nói Thank You. Thằng bé khoảng 4 tuổi
trố mắt nh́n tôi rổi mếu máo khóc ̣a.
Những đứa khác th́ ù té chạy hết. Sau
đó tôi mới biết đó là tập tục
truyền thống của dân Mỹ. Họ tin rằng
trong đêm Halloween có rất nhiều oan hồn vất
vưởng lang thang ngoài đường phố và
để những oan hồn này đừng phá phách th́
mọi nhà đều có sẵn những thức ăn
để thết đăi. Về sau để giản
tiện thay v́ để thức ăn được
thay thế bằng bánh kẹo cho vệ sinh hơn.
Những đưá trẻ ăn mặc giả làm
những cô hồn được cha mẹ anh em hộ
tống đi khắp khu xóm để xin kẹo và
tục lệ này đă có từ rất lâu đời.
Và dĩ nhiên là dân tị nạn Việt Nam mới
đến Mỹ th́ đâu biết tập tục này.
Tội nghiệp mấy đứa trẻ tưởng tôi
là ông Kẹ muốn lấy kẹo của chúng nên
chạy hết. Tối hôm ấy chúng tôi đóng
cửa tắt đèn đi ngủ sớm v́ đâu có
kẹo mà cho con nít. Kỷ niệm thứ hai cũng xảy
ra trong tháng 10. Trong tháng này hầu hết nước
Mỹ trừ 2 tiểu bang Hawá và Arizona đổi
giờ từ Daily Saving Time qua Standard Time. Ngày đổi
giờ trong tháng 10 là trừ đi một giờ và
trở lại Daily Saving Time bằng cách tăng thêm
một giờ vào tháng ba mỗi năm. Tập tục này
có từ sau Thế Chiến I v́ chính phủ Hoa Kỳ
muốn tiết kiệm năng lượng. Nhưng ư
kiến này có từ năm 1874 do ông Benjamin Franklin nguyên
là một trong những khoa học gia vĩ đại
nhất của lịch sử Hoa Kỳ đề
nghị. Ông nói cộng thêm một giờ th́ dân chúng
và hăng xưởng khắp nước Mỹ sẽ
tiết kiệm một số lớn dầu thắp
đèn mỗi đêm và cũng v́ vậy được
gọi là Daily Saving Time. Vào một buổi tối thứ sáu trước
khi ra về, một người bạn cùng sở nói
rằng ngày thứ hai mày sẽ được ngủ
nướng thêm một giờ và phải nhớ
vặn đồng hồ lùi lại một tiếng.
Hắn không giải thích tại sao mà cười cười
rồi đi mất. Tôi cứ nghĩ hắn chỉ
đùa cho vui nên ngày thứ hai tôi vẫn đến
đúng giờ cũ và kết quả tôi phải đứng
ngoài cửa co lại v́ lạnh mùa đông đúng
một tiếng đồng hồ. Dĩ nhiên là
tôi vẫn làm tỉnh không nói ǵ với thằng
bạn v́ sợ nó chê ḿnh là cả đẩn.Đúng
là : Tôi c̣n khờ khạo ngu ngơ lắm Chỉ biết ăn thôi chẳng biết ǵ. Sinh Hoạt Văn Nghệ Mùa đông 1975 sắp hết. Một mùa
xuân sẽ đến. Tết Bính Th́n 1976 chỉ c̣n vài
tháng nữa. Người Việt đang chuẩn bị
đón Tết lần đầu tiên trên đất
tạm dung. Mới đây mà đă gần một năm
và chúng tôi sắp qua một Tết Nguyên Đán
lần thứ hai. Sau khi quyết định ở
lại làm dân tị nạn, chúng tôi đă có dịp
gặp gỡ nhiều người Việt từ Camp
Pendleton ra định cư tại San Diego. Tôi gia
nhập Hội Bảo Vệ Văn Hóa Việt Nam
do một nhóm Sinh Viên Việt Nam du học ở lại
San Diego tổ chức với mục đích duy tŕ và ǵn
giữ những di sản về văn chương, thi
ca, âm nhạc của miền Nam để truyền
lại cho thế hệ trẻ. Việc đầu tiên
là thành lập một ban nhạc. Không biết ai đă
nói ǵ mà tôi được bị giao trách nhiệm
tổ chức ban nhạc. Nói là ban nhạc cho oai
chứ thực ra chỉ có ba người. Một tay
lead guitar, một tay bass và một tay trống. Nơi
tập họp là nhà của Bằng bạn Linh. Bây
giờ Bằng đă dọn ra một căn nhà 4 pḥng
ngủ v́ đă đoàn tụ với gia đ́nh. Ở
đây tôi đă có dịp gặp gỡ nhiều trai tài
gái sắc muốn đem giọng ca lời hát để
cống hiến cho thế nhân, điểm tô cuộc
đời đẹp hơn. Trong số này có người
trở thành một ca sĩ nổi tiếng ở
hải ngoại. Đó là Vũ Khanh. Anh thành công ở
San Diego nhờ bài Cô Hàng Nước của nhạc sĩ
Vũ Minh. Với giọng ca ấm áp thiên phú, lối
tŕnh bày duyên dáng, Vũ Khanh đă chiếm được
cảm t́nh của cộng đồng người
Việt ở San Diego dễ dàng. Sau đó anh dời lên
Orange County và sự nghiệp ca hát thăng hoa từ
đó. Nhắc đến Vũ Khanh làm tôi nhớ măi lần anh hát bài “1954
Cha Bỏ Quê, 1975 Con Bỏ Nước" trong
một chương tŕnh văn nghệ kỷ niệm ngày
30/4 do cộng đồng Người Việt San Diego
tổ chức vào năm 1977. Lần đó Vũ Khanh
đă làm nhiều khán giả rơi lệ sụt sùi
một phần v́ bài hát mới được nhạc
sĩ Phạm Duy sáng tác và nhiều người mới
được nghe lần đầu. Những lời
của bản nhạc đă đánh trúng tâm lư của
mọi người v́ mới rời khỏi quê hương
có hai năm. Những đau khổ v́ chia ĺa, mất mát
làm mọi người như sống lại thời
điểm hai năm trước khi phải bỏ
tất cả để ra đi về một phương
trời vô định mà bất trắc đang chờ
sẵn. Nếu ai ở trong hoàn cảnh của những
người thuộc các gia đ́nh từ miền
Bắc di cư vào miền Nam năm 1954 rồi di cư
lần thứ hai năm 1975 th́ mới thấy thấm
thía khi nghe bài nhạc này. Hai thế hệ phải
bỏ lại tất cả để ra đi để
tị nạn Cộng Sản. Tôi cũng không dằn
được sự xúc động phải rơi nước
mắt. Khi Vũ Khanh ngừng hát và cúi đầu chào
khán giả không có một tiếng vỗ tay v́ mọi
người c̣n bàng hoàng cảm động. Nhiều người
lấy khăn tay ra lau nước mắt. Bản
nhạc đă được tŕnh bày đúng chỗ và
đúng lúc. At the right place and at the right time. 1954
Cha Bỏ Quê 1975 Con Bỏ Nước - sáng tác Phạm
Duy Một ngày kia tôi đưọc giới thiệu với một cựu quân nhân Không Quân, Đại úy Nguyễn Xuân Đường thuộc Hội Cựu Quân Nhân Việt Nam ở San Diego. Anh Đường ngỏ ư muốn mời tôi hợp tác để tổ chức một nhạc hội cho mùa Xuân Bính Dần. Anh Đường cho mượn nhà để tập dượt, mướn nhạc cụ, giới thiệu những ca sĩ cây nhà lá vườn, mượn hội trường,lo in quảng cáo, phát Fly tại các chợ Việt Nam, nhà thờ.. có nghĩa là anh bao dàn hết và tôi chỉ chịu trách nhiệm về ban nhạc và tập dợt cho anh chị em ca sĩ.. Căn bản nhạc lư tôi chỉ đầy tấm lá mít nhưng v́ trong vương quốc mù th́ kẻ chột là vua nên tự bảo sẽ cố gắng hết ḿnh rồi đem câu thần chú trường Nha Trang ra tự hù bản thân: Chỉ Có Tinh Thân là Quan Trọng. Để có tiền trang trải cho Nhạc Hội Xuân năm ấy v́ vào cửa tự do, anh Đường bàn với tôi tổ chức Dạ Vũ Đêm Noel bán vé gây qũy. Tôi c̣n nhớ vé bàn với giá $2.00 một người. Bao dàn cho một dạ vũ ba tiếng đồng hồ đ̣i hỏi phải ḥa tấu rất nhiều bài nhạc Việt cũng như ngoại quốc và tập dượt kỹ với ca sĩ (toàn là là cây nhà lá vườn) để không bị trật nhịp khiêu vũ. Tôi suy nghĩ rồi nhắm mắt đồng ư v́ không c̣n cách nào khác. Tôi lo soạn một list gồm 100 bài nhạc tours với những điệu khiêu vũ truyền thống và bắt đầu tập dợt hai ngày cuối tuần với ban nhạc và ca sĩ. Cuối cùng th́ dạ vũ đă thành công trong việc gây qũy và Hội Xuân Bính Th́n được tổ chức tốt đẹp với những vỗ tay hoan hô của đồng bào. Tôi nghiệm ra một điều là ca sĩ ca càng hay th́ ban nhạc chơi càng hứng thú. Đó cũng là một phần thưởng tâm lư với những người chơi nhạc.
V́ hoạt động trong cộng đồng
nên tôi sau này quen nhiều ngườ́ trong giới văn
nghệ cư ngụ ở San Diego. Trong đó có
những thành viên của ban nhạc trẻ Crazy Dogs
với Nghĩa chơi Lead Guitar, Thanh chơi bass và Năng
chơi trống và ca sĩ của ban nhạc là Ngọc
Qúy con gái của nữ nghệ sĩ Ngọc Nuôi và
nghệ sĩ cải lương Việt Hùng. Nghĩa chơi
guitar rất nhuyễn và đă dạy tôi nhiều ngón
đàn tuyệt diệu khi hai người trở thành
bạn thân những năm sau đó. Tôi và Nghĩa có
nhiều kỷ niệm v́ t́nh bạn đă trải
một thời gian dài mấy chục năm. Trong
những năm đầu mới quen, có lần hai
thằng lục túi trên túi dưới và vẫn không
đủ $10.00 để mua một chai champagne và
một bao thuốc trong đêm New Year's Eve 1977. Sau này khi
hoàn cảnh khá hơn, hai thằng nhớ lại
thuở hàn vi mà thấy thương những ngày vui
đă qua. Về sau nhập bọn là ca
sĩ Mai Lệ Huyền và chồng là anh Đoàn Châu Bào
tức con trai của nam tài tử gạo cội của
Điện Ảnh Viêt Nam trước 1975 Đoàn Châu
Mậu. Để
kỷ niệm ngày 30-4-1977, một nhân vật khá
nổi tiếng trong cộng đồng là Mục Sư
Mai Biên mời tôi hợp tác với ông để
tổ chức một Đêm Không Ngủ tại trụ
sở của ông. Mục đích của Đêm Không
Ngủ là hát những bài nhạc quê hương để
hun nóng tinh thần quốc gia của giới trẻ,
dạy cho họ biết những cái hay và nét đẹp
với tính cách nhân bản của nền âm nhạc dưới
thời Việt Nam Cộng Ḥa. Cộng Đoàn Công Giáo
San Diego cũng mời tôi gia nhập ban nhạc của
họ. Sau đó là đến lượt sinh viên trường
UCSD muốn tổ chức một đêm Nhạc Thính Pḥng
và nhờ tôi đến đệm nhạc cho ca sĩ.
Những lần cộng đồng Người Việt
tổ chức những nhạc hội ở hội trường
Horace Mann đều có sự góp mặt của tôi trong
những năm 1975, 1976. Tôi đă có dịp gặp
nhiều ca sĩ nổi tiếng như Hương Lan,
Thanh Tuyền, Thanh Thúy, Như Mai. Những nghệ sĩ
tài danh này rất ḥa nhă và dễ mến. Có lần chính
Hoàng văn Thành vào hậu trường t́m tôi chào
hỏi khi thấy tôi xuất hiện cùng ban nhạc trên
sân khấu. Lần đó khiến tôi thật bất
ngờ v́ gặp gỡ một người bạn đồng
khóa 23. Hoàng văn Thành chắc là phải nhớ là chúng
ta cùng nhập ngũ cùng một ngày tại trại
Bạch Đằng II năm 1970.Tuy trở thành một
người bận rộn và mệt mỏi nhưng tôi
cũng rất vui v́ biết rằng sự đóng góp
của ḿnh cho đồng hương không hoàn toàn vô
nghĩa.
Những năm
kế tiếp tôi đă giảm dần những
hoạt động âm nhạc để giao trách
nhiệm cho những người trẻ hơn, nhiều
tài năng hơn. Lúc này tôi đă ghi danh đi học
lại nên cũng không c̣n rảnh rỗi như xưa.
Sau đó chuyện gia đ́nh, con cái, công việc đă
khiến tôi bận tối tăm mặt mũi. Một
đôi lúc gặp lại bạn bè cũ trong ban
nhạc khi xưa vẫn tay bắt mặt mừng cùng
nhau uống một tách cà phê, nhắc những kỷ
niệm xưa mà cười vui thoải mái. Một vài
người trong nhóm Bảo Vệ Văn Hóa đă
trở thành những người bạn tri kỷ
của tôi. Thỉnh thoẳng chúng tôi hẹn nhau
gặp gỡ, uống với nhau một chai bia, chơi
một vài cơ bida và chia sẻ những câu chuyện
thời sự là cũng đủ hài ḷng trong những
năm hoàng hôn của đời ḿnh. Để kết
thúc thiên hồi kư này tôi xin cám ơn các bạn đă
bỏ th́ giờ đọc những chia sẻ của
chúng tôi về những năm đầu tiên sống
ở Hoa Kỳ với những khó khăn trở
ngại thuở ban đầu mà tôi đă trải qua.
Vui có, buồn có nhưng cuối cùng th́ tôi xin mượn
một lời nhạc của Trinh Công Sơn: Lâu
rồi đời ḿnh cũng qua. Tôi cũng
cám ơn nhân dân Hoa Kỳ đă cho tôi một cuôc
sống mới trong tự do và quyền làm người.
Quốc gia này đă cho tôi một cơ hội để
làm lại cuộc đời. Tôi đă may mắn hơn
rất nhiều đồng bào tôi giờ này c̣n đang
bị chế độ Cộng sản phi nhân thống
trị. và ở đó hoàn toàn không có TỰ DO.
Một người nào đó đă nói: Nếu có
Tự Do th́ Cộng Sản sẽ bị tiêu diệt và
ngược lại dưới chế độ
Cộng Sản th́ sẽ không có Tự Do. Điều
này thật đúng qua những sụp đổ của
Cộng sản trong thập niên 90 ở Đông Âu và Liên
Bang Sô Viết. Khi bức tường Bá Linh bị phá
vỡ, cố nghệ sĩ Hùng Cường đă
rất phấn khởi và hăng hái tung ra nhiều bài
nhạc chống Cộng trong cuốn băng Bức Tường
Đă Ngă. Cũng v́ thèm tự do mà cố nhạc sĩ
Lê Hựu Hà khi có dịp qua Đông Âu đă lần ṃ
t́m mua cho bằng được một miếng
gạch từ bức tường Bá Linh để làm
kỷ niệm. Ông khoe với bạn bè viên gạch
vỡ này là biểu tượng của hai chữ
Tự Do. Tôi rất kính trọng những người
nghệ sĩ có tư cách và lập trường
vững chắc không bị lung lạc v́ tiền
bạc và danh vọng. Không như một nữ ca sĩ
trước 1975 được mệnh danh là Nữ Hoàng
Chân Đất nổi tiếng nhờ những bài
nhạc phản chiến. Chạy nạn CS 1975 và sau bao
nhiêu năm sống bằng sự ủng hộ của
người Việt hải ngoại nhưng cũng v́
tiền mà người ca sĩ này đă về Việt
Nam tŕnh diễn cho những cán bộ Cộng Sản
để rồi chế độ này rêu rao là đă
thành công trong việc ḥa hợp ḥa giải với người
Việt hải ngoại. Từ đó mỗi lần người
ca sĩ này xuát hiện trên màn ảnh TV là tôi bypass
để không bị bực ḿnh một cách vô ích. Hơn 40 năm
qua miền Nam thân yêu của tôi đă trở thành
một nơi nghèo khổ hơn nhiều nước láng
giềng gấp mười lần. Chế độ
ấy đă làm đạo đức con người
suy đồi, tạo ra những thế hệ vô
cảm, phi nhân bản, chỉ biết có tiền là
chuyện ǵ cũng có thể làm bất kể luân lư mà
tổ tiên đă để lại sau 4000 năm. Vậy
mà lúc nào giới lănh đạo cũng hô hào là hăy ḥa
hợp ḥa giải, nào là đă hết chiến tranh 42
năm mà sao người Việt hải ngoại văn chưa
nguôi hận thù. Tôi có đôi lời nhắn với
những người CS này là: Hăy xin lỗi những
gia đ́nh có thân nhân bị chúng giết hại trong 20
năm chiến tranh mà điển h́nh là cuôc tàn sát
những người dân vô tội trong Tết Mậu Thân
1968 ở Huế và xin những gia đ́nh này một
lời tha thứ. Riêng đối
với cá nhân tôi th́ sẽ không bao giờ có chuyện
ḥa hợp ḥa giải với Cộng Sản. Tôi xin mượn
lời của nhà văn Phan Nhật Nam để nói là
các ông hăy ḥa hợp và ḥa giải với người
dân trong nước trước đi rồi mới nói
chuyện đó với chúng tôi ở hải ngoại.
Chính v́ những người Cộng Sản này mà tôi
đă mất tất cả trong ngày định mệnh
30-4-1975. Hơn 100 ngàn người bỏ nước ra
đi và sau đó gần một triệu người
liều mạng vượt biển trên những con
thuyền mong manh và theo giới truyền thông th́ có
gần 400 ngàn người bỏ xác trên đại dương
và c̣n bao nhiêu phụ nữ bị hải tặc làm
nhục sau đó bán cho các ổ điếm ở Thái
Lan. Đó là những sự thật TRUE FACTS được
thế giới tự do công nhận. Tội ác của
Cộng Sản c̣n nhiều hơn nữa nhưng chúng
chưa bao giờ nhận là ḿnh đă lầm. Đó cũng
là lư do tôi chưa từng bưóc chân trở về
Việt Nam v́ nghĩ rằng tôi sẽ phản bội
lại chính bản thân tôi khi phải nh́n lại
những khuôn mặt bán nưóc hại dân mà vẫn dương
dương tự đắc v́ cho rằng họ là Người
Thắng Cuộc. Ước
vọng cuối đời là được thấy
Việt Nam có một thể chế Tự Do, Dân Chủ
và Đảng Cộng Sản bị giải thể
để tôi có thể trở về miền quê hương
mà tôi đă được sinh ra và trưởng thành
trong khói lửa. Cũng ở đây tôi đă
được dạy dỗ để trở thành
một người Việt quốc gia yêu nước.
Ước vọng này có lẽ sẽ không thực
hiện được vi ḿnh mỗi ngày một già thêm,
đời ḿnh mỗi ngày một thu ngắn đi và có
thể tôi sẽ phải làm một kẻ lưu
lạc biệt xứ, vùi nắm xương tàn trên quê
hương thứ hai và chỉ có thể mơ về Sàig̣n
thân thương qua bài Tôi Muốn Mời Em Về
của cố nhạc sĩ Việt Dzũng trong
những lúc nhớ về cảnh cũ quê xưa th́ cũng
đủ thỏa măn cho MỘT ĐỜI LƯU
VONG trên đất khách. Tôi
Muốn Mời Em Về - Nhạc và lời Việt Dzũng San Diego, ngày 10/28/2017 |