Một Giao Thừa trong đời Vương Mộng Long |
Từ
cuối năm 1975, hàng ngàn tù nhân Sĩ quan cấp tá
của Quân Lực Việt Nam Cộng Ḥa từ
nhiều trại tập trung quanh Sài G̣n đă bị
chuyển về nhốt tại trại tù Suối Máu,
Tam Hiệp, Biên Ḥa. Tôi
ở lán 24 thuộc K3 (Lán là nhà, K là Khối, danh
từ VC). Mỗi lán chứa khoảng hơn 40 tù nhân,
trong lán 24 đó có vài cựu Sĩ quan Đà Lạt
gồm anh Trần Ngọc Dương (K10), Nguyễn Lành
(K16), Hoàng Thế B́nh (K18), Tạ Mạnh Huy (K19), khóa 20
có Ngô Văn Niếu và tôi (Vương Mộng Long). Lán
tôi cách lán 17 vài thước. Lán 17 có ba anh Biệt Động
Quân K20 Vơ Bị là Nguyễn Cảnh Nguyên, Trịnh Trân,
và Quách Thưởng. Trong cảnh thiếu đói thường
xuyên, chúng tôi phải chia nhau từng mớ rau rền,
tán đường thẻ, miếng cơm cháy. Lán
24 lúc nào cũng hôi thối đầy ruồi
nhặng, v́ nó nằm trên đường đi ra
cầu tiêu, mà bệnh kiết lỵ của tù ở
đây hầu như bất trị. Anh trưởng lán
24 tên Trần Thành Trai nguyên là Y sĩ Thiếu tá làm
việc tại Quân y viện Duy Tân, Đà Nẵng. Bác Sĩ
Trai luôn luôn xác định lập trường của
anh là quyết tâm “Học tập tốt” để
được tha về với vợ con, v́ vậy
mỗi lệnh của ban chỉ huy trại đưa
xuống, anh luôn luôn t́m cách thi hành đúng đắn. Thằng
Niếu, bạn tôi, được một chân làm
bếp, nó ăn uống dưới bếp, nên phần
cơm của nó dư, được mang về
tiếp tế cho tôi và anh Nguyễn Phong Cảnh (K10/TĐ)
người nằm cạnh tôi. Vào
những ngày cuối năm Ất Mẹo, không khí
ở đây trở nên rộn rịp vô cùng. Những
người liên lạc được với gia đ́nh
th́ có những gói quà nhỏ gởi vào cho ăn
Tết, những kẻ ít may mắn hơn th́ đành
trông chờ vào những ǵ ban chỉ huy trại ban cho.
Thời gian này, các lán gấp rút tập văn nghệ
để tŕnh diễn đêm giao thừa. Để
khỏi tập ca hát nhảy múa, tôi t́nh nguyện làm công
tác tạp dịch, quét tước. Trong khi mọi người
ca múa, xả rác, tôi đi lượm rác và xách nước
về cho bạn cùng lán rửa mặt rửa tay. Hai
ngày trước Tết, lán tôi phải tập họp
đi làm cỏ ngoài rào K3. Trại
Suối Máu vốn dĩ là trại tù Phiến Cộng
Tam Hiệp của Quân Đoàn 3. Trại có hai khu, hai
hệ thống hàng rào. Lớp rào trong nhốt tù,
rồi tới khu canh tù, ngoài cùng là rào ḿn pḥng
thủ. Trại tù Phiến Cộng này có sáu khối.
Mỗi khối cách biệt nhau bởi một khoảng
đất trống, có rào ḿn. Từ khối này
muốn liên lạc với khối kia chúng tôi phải hét
lên mới nghe tiếng nhau. Ra khỏi hàng rào thứ
nhất, tôi chứng kiến vài sự đổi đời.
Cái
miếu thờ Thổ Địa trở thành cái chuồng
nuôi heo. Nhà Thờ và Niệm Phật Đường
của trại tù binh đă thành chuồng gà sản
xuất. Sư và Cha, Tuyên úy của trại này,
chắc cũng đi tù đâu đây không xa! Ngoài xa, bên
kia hàng rào ḿn là băi cỏ trống rồi tới
đường Quốc lộ 1. Trên
Quốc lộ, xe Lam chạy xuôi ngược; người
người vội vàng buổi chợ cuối năm. Có
vài bàn tay giơ lên ngoắc ngoắc về hướng
trại tù, đôi người dân có liên hệ,
hoặc ai đó c̣n nhớ tới chúng tôi, những Sĩ
quan cấp tá của QLVNCH, những người bảo
vệ chế độ đến giờ cuối cùng,
và những người chậm chân, chạy không
kịp, đang bị nhốt ở đây, trong khu nhà tù
do chính tay Công Binh Việt Nam Cộng Ḥa xây dựng lên
trước đó nhiều năm. Sáng
nay bầu trời mầu xanh, không một gợn mây.
Từ hướng phi trường Biên Ḥa, bên kia cánh
đồng trồng khoai ḿ, những chiếc F5 thực
tập lên, xuống, lượn ṿng. Đưa
tay chỉ những cánh chim sắt đang bay trên
trời cao, anh bạn Thiếu Tá Không Quân, Trần Chiêu
Quân nói với tôi rằng, sau 30 tháng 4, có một
số phi công của Việt Nam Cộng Ḥa bị trưng
dụng để huấn luyện cho phi công Bắc
Việt lái những máy bay chúng ta c̣n để lại.
Những chiếc F5 sáng như bạc đảo lộn
trong không gian. Tiếng rít của phi cơ làm cho tâm
hồn người cựu chiến binh nao nao. Làm
sao quên được? Lần đầu ra trận (Tháng
2, 1966). Hôm đó, cũng vào một sáng đầu Xuân,
đơn vị tôi án binh dưới chân núi Trà
Kiệu (Quảng Nam) chờ lệnh xuất phát. Tôi
ngồi bên bờ Nam sông Thu Bồn, say sưa nh́n
những cánh F-4C, F-5A Hoa Kỳ đan nhau trên vùng
trời Bắc. Bên kia sông, vùng trách nhiệm của
Trung Đoàn 51 Biệt Lập, khói đạn bom cuồn
cuộn… Rồi
tới trận Mậu Thân (1968) với những
chiếc AD 6 Skyrader dềnh dàng, chậm răi phóng
từng trái Napalm dài như chiếc xuồng màu
trắng, lướt trên đỉnh 1632 cuối phi
đạo Cam Ly, Đà Lạt. Khi bom chạm mục tiêu,
từ đó, những sợi lửa lân tinh trắng
xanh, trông giống như những cái ṿi bạch
tuộc, vươn cao… C̣n
nữa… Nhớ
thời chống giữ Pleime, ngày ngày, tôi nghe quen
tiếng L19 lè xè của Vơ Ư (K17). Chiếc L19 như cánh
diều mảnh khảnh, lững lờ quanh đỉnh
Chư Gô, hay trên Ya Drang, thung lũng Tử Thần. Chúng
tôi trông chờ đôi lúc trời trong, những phi
tuần A-37 theo nhau tuôn bom… chờ những chiếc
trực thăng rà sát đọt cây, lướt trên
ngọn cột cờ căn cứ. Xạ thủ trên tàu
chỉ kịp đạp vội xuống sân trại vài
thùng pin, đạn, gạo sấy, con tàu đă lật
bụng đảo một ṿng, thoát chạy về Đông.
Pḥng không như lưới, thảy xuống cho nhau
được thùng nào, hay thùng nấy! Thảy đồ
xong là chạy. Đồ tiếp tế, có thùng c̣n nguyên
dạng, có thùng vỡ tan, có thùng bay vào băi ḿn. Như
thế cũng quư hóa lắm rồi! Cám ơn người
anh em Nguyễn Công Cẩn (K21) và phi đoàn 229 Lạc
Long. Rồi
đêm xuống, cứ như “Đúng hẹn lại lên,” “Thái
Sơn đây Hỏa Long gọi!” Chiếc
AC-47 của anh Trần Bạch Thanh (K16) đă có mặt
trên vùng. Những đóm hỏa châu lập ḷe, vừa
trải rộng tầm quan sát cho người trấn
giữ tiền đồn, vừa làm cho họ cảm
thấy ấm ḷng. Đă
mất rồi, ngày xưa ấy! Giờ
này tôi đang đứng nh́n những cánh chim sắt
chao lượn trên đầu, người lái không
phải là quân bạn. Tiếng
động cơ F5 nghe sao quá xót xa! *
* * Tôi
đang nhổ cỏ th́ thấy một đoàn người
từ hướng ban Chỉ huy trại ḥ nhau khiêng
một cái cổng gỗ rất to vừa đóng xong. Tấm
bảng nền đỏ chữ vàng “Không Có Ǵ Quí Hơn
Độc Lập Tự Do” được nâng niu như
trứng trên vai những người tù nhễ nhại
mồ hôi. Những người tù đang bị sức
nặng của cái cổng đè trĩu trên vai. Họ
phải lên gân chân mỗi lúc bước tới trước. Mới
vài tháng trước đây họ c̣n là những
vị Chỉ huy oai phong lẫm liệt. Giờ đây
đành cam thân sống cảnh đọa đày, đóng
vai những anh thợ mộc bất đắc dĩ không
công. Ngày nào họ cũng ra đi rất sớm,
chiều tối mới trở về trại. Họ
dựng những cái cổng chào. Họ tu sửa, sơn
phết những khẩu hiệu trên tường.
Họ trồng lại hàng rào trại. Mọi
việc làm này là để chào đón ngày Quốc
Hội Việt Nam Thống Nhất ra đời.
Những vị Sĩ quan cao cấp này đă khởi
đầu nghề thợ mộc của họ bằng
những cái bảng “Không Có Ǵ Quí” ở trại tù
Tam-Hiệp. Tôi
có quen vài người trong số những người
hằng ngày xuất trại làm mộc, như cựu
CHT/BĐQ/ QLVNCH là Đại Tá Trần Công Liễu (K8 VB) và
cựu Tiểu Đoàn Phó Nhảy Dù là Thiếu Tá Trương
Văn Vân (K20 VB). Cả hai vị đó, sau này nơi
đất Bắc, đă thành hai ông đội trưởng
nổi tiếng. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh! Chín
tháng sau ngày chế độ Cộng Ḥa sụp đổ,
tôi đang chứng kiến một hoạt cảnh
chẳng bao giờ ngờ: Trên
trời, phi công Việt Cộng đang lái F5, trước
cổng trại tù, Sĩ quan cấp tá VNCH đang
dựng cổng chào, quanh rào trại tù, Sĩ quan
cấp tá VNCH đang làm cỏ. Nơi nơi, người
người, chuẩn bị đón Xuân. Mỗi người
mang một tâm sự riêng… Tới
trưa, khi nghe tiếng kẻng phát cơm của nhà
bếp, chúng tôi được dẫn trở lại
trong ṿng rào trại K3. Khi đi ngang qua sân bóng
chuyền, tôi thấy người ta đang cá độ
nhau trận đấu tay đôi đang diễn, một
bên là Thiếu Tá Trần Đạo Hàm, Thủ khoa K17/VB,
bên kia là một tay Thiếu Tá Không Quân. Anh Lê Hữu
Khái (K15) và thằng bạn tôi, thằng Nguyễn Bích
(K20) đang nhảy tưng tưng cổ vũ cho anh Hàm.
Cái miệng thằng Bích lớn lắm, nó la hét vỗ
tay, b́nh luận ào ào. Anh Hàm thật là may mắn, có cái
loa phóng thanh cỡ bự Nguyễn Bích cổ vũ nên
anh có vẻ như đang dẫn điểm. Tôi
thấy nhiều người đă để ghế
“xí” chỗ tốt cho buổi TV văn nghệ
tối; ngày nào cũng thế, cứ đến trưa
là bà con đem ghế ra đặt sẵn trên sân bóng
để “xí” chỗ xem phim TV của đài Sài G̣n
Giải Phóng. Ai chậm chân th́ không c̣n chỗ tốt.
Thời gian này TV Sài G̣n Giải Phóng liên tiếp
chiếu bộ phim nhiều tập “Trên Từng Cây
Số” và “Đại úy Đen” của Ba Lan. Trong
các lán, có nhiều bạn tụ tập bóc lột nhau
bằng những con bài. X́ phé, sập xám và mạt chược
là những môn chơi phổ thông khắp nơi trong
trại. Tôi đă chứng kiến nhiều anh thua
bạc phải bán cả những quà cáp từ gia đ́nh
gởi vào, như kem đánh răng, thuốc lào,
thuốc tây để trừ nợ. Sau
Tết ít lâu, tôi nghe một câu chuyện đau ḷng
ở K3 năm ấy: có một vị Thiếu tá
Quận trưởng khi cắt bánh thuốc lào làm
đôi để chi cho chủ nợ một nửa, th́
phát hiện ra một bức thư “chui” của người
nhà giấu trong ruột bánh thuốc lào. Bức thư
vắn tắt đôi lời làm đau ḷng người
đọc, “Chị
ấy đă gởi hai đứa con của anh cho bà
nội của chúng nuôi. Chị đă đi lấy
chồng rồi! Anh đừng buồn, ráng học
tập lao động cho tiến bộ để
sớm được thả về mà nuôi dạy con
anh.” Cái
tin bất ngờ sét đánh ấy đă làm cho ông
Quận sững sờ, buông rơi những con bài cơ,
rô, chuồn, bích. Từ đấy, tôi thấy ông
suốt ngày thẫn thờ bên rào, nh́n về phía xa xôi.
Đôi lúc tỉnh táo, ông ôm cây đàn Guitar Solo những
bài nhạc xưa, buồn đứt ruột. Tôi
bồi hồi nhớ lại lời tổng thống nói
ngày nào: -
“Đất nước c̣n, c̣n tất cả. Đất nước
mất, mất tất cả!” Ôi!
Lời Tổng thống nói thật là hữu lư! Tổng
thống ơi! Chúng tôi đă cố gắng hết
sức ḿnh để giữ nước, nhưng chúng tôi
đă không thể giữ nổi. Chúng
tôi lấy làm xấu hổ vô cùng. Sao
Tổng thống không ở lại giữ nước
với chúng tôi? Lúc
này chúng tôi đă mất tất cả rồi Tổng
thống ơi! Về
tới lán tôi nhận được một vỉ
thuốc ho, một nắm xôi đậu xanh, và mười
cục đường tán do anh bạn BĐQ Bắc
Hải (Phan Văn Hải) ở lán 22 gởi cho. Tôi,
Phan Văn Hải, cùng Phan Độ (K20), Huỳnh Bá An
(K20), Trần Hữu Bảo (K20), xuất thân từ trường
Nam Tiểu Học Đà Nẵng. Chúng tôi là học tṛ
của cô giáo Phạm Thị Tịnh Hoài, lớp
Nhất C. Hải
là Sĩ quan khóa Đặc biệt Thủ Đức, anh
về phục vụ cùng đơn vị BĐQ của tôi
ở Pleiku. Những ngày cuối của cuộc
chiến, Thiếu Tá Phan Văn Hải giữ chức
vụ Tiểu đoàn trưởng TĐ89/BĐQ. Khi đi tù,
bạn tôi không có ai thư từ, tiếp tế, nhưng
hắn bài bạc rất giỏi, nên lúc nào cũng sung
túc. Chiều
hôm đó, anh lán phó hậu cần, Hải Quân
Thiếu Tá Bùi Tiết Quư thâu tiền của trại
viên trong lán, gởi cán bộ trại mua giùm ḿ gói, tương,
chao, x́ dầu và đường tán để ăn
bồi bổ thêm trong ba ngày Tết. Tối đến,
sau khi đă chia hết phần đường cho người
mua, anh Quư cạo được một chén đường
chảy dính trong thùng giấy và bao giấy gói
đường. Anh ung dung ngồi thưởng thức
nồi chè đặc biệt, nấu bằng đường
mót được với hột su su và mấy hạt
bắp non anh trồng được bên rào. Làm đội
phó hậu cần cũng có chút bổng lộc! Sáng
ba mươi Tết, lại gặp ngày tổ tôi
trực lán, tôi và một số bạn bị chỉ
định xuống làm việc tăng cường cho lán
9 nhà bếp. Tôi phụ việc vo gạo cho thằng
Niếu và anh Cung. Những tạ gạo đựng
trong bao viền chỉ xanh rất cũ được
chuyển về từ bưng biền. Gạo th́
mốc vàng, mốc xanh. Những tổ sâu gạo to như
nắm tay. “Nếu
vứt sâu đi th́ c̣n cái ǵ mà ăn? Cứ nấu tưới
đi! Sâu cũng bổ béo, cũng nhiều ‘Prồ-tê-in’,
sâu gạo chứ có phải là ḍi ở ngoài chuồng
xí đâu mà ngán!” Khi
chảo cơm bắt đầu sôi th́ nhiều khách
khất thực nước cơm đă cầm ca đứng
đợi. Anh Cung cho vài người, mà cũng từ
chối đôi người. Người có phần, th́
riu ríu cám ơn, người không có phần tiu
nghỉu ra về, miệng lầm bầm, “đ.m,
đ.m…” Những
trại viên nhà bếp gọi đám người
chờ xin nước cơm là “Đội quân cầm
ca.” Chữ “cầm ca” ở đây không có nghĩa
là ca sĩ, ca hát, hay ca kỹ mà có nghĩa đen
chỉ sự cầm cái ca U.S dùng để đựng
nước uống, cái ca nằm dưới cái bi-đông
bộ binh ấy mà! Dân cầm ca phải đứng
xếp hàng cả giờ đồng hồ trước
cửa ḷ cơm để chờ xin một ly nước
cơm. Chuyện xếp hàng trước, xếp hàng
sau, đôi lúc cũng gây ra ẩu đả. Nước
cơm có Vitamin B1 chữa được bệnh phù thũng
(?). Sau
này, khi ở trại tù Phú Sơn 4, Thái Nguyên, tôi có
đọc một tài liệu nói về cái chất
độc của nấm cúc vàng từ gạo mục,
gạo mốc. Nấm cúc vàng có chứa một
loại chất độc nguyên nhân gây ung thư gan. Nước
cơm lại là phần đậm đặc nhất
của chất độc nấm cúc vàng từ gạo
mốc. Không biết có bao nhiêu nạn nhân của
bệnh xơ gan sau này có mặt trong đội quân
“cầm ca” ngày ấy? Chiều
ba mươi Tết, bữa ăn có thịt heo kho.
Thằng Niếu đem thêm về cả phần ḷng heo
bồi dưỡng nhà bếp của nó. Thời
buổi khó khăn, thuốc lá bắt đầu khan,
những tay nghiền miền Nam bắt đầu nói
chuyện thuốc lào. Những
danh từ “điếu cày,” “điếu bát,” “Cái
Sắn,” “Hố Nai,” “Vĩnh Phúc,” “Tiên Lăng”
nghe măi cũng quen tai. Anh
Hoàng kim Thanh, Liên Đoàn Trưởng LĐ24/ BĐQ của tôi,
từ bên K4 nhờ ai đó chuyển cho tôi được
một bao 555 và một lạng cà phê. Trong
khi thằng Niếu và anh Cảnh lo bếp núc cúng
Tất Niên th́ tôi đi ṿng ṿng tán dóc với Lưu Văn
Ngọc (K20), cựu Sĩ quan Quân Pháp Quân Đoàn 2. *
* * Tối
ba mươi Tết ở K3 Suối Máu không khí
thật là rộn ră tưng bừng. Mọi lán đều
đă chuẩn bị sẵn sàng chương tŕnh văn
nghệ chào đón Chúa Xuân. Sân khấu văn nghệ
được thiết lập giữa sân tập
họp. Đèn điện sáng choang. Cờ Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam che kín cả sân khấu. Trước
giờ văn nghệ, loa phóng thanh truyền đi
những bản nhạc từ đài Sài G̣n Giải Phóng
mà Tô lan Phương là giọng ca chính. Những
nghệ sĩ tù cũng ăn mặc tươm tất
để sẵn sàng tŕnh diễn giúp vui. Đàn ghi ta,
trống, sáo đều làm bằng vật liệu
lấy từ kho của nhà bếp như tôle, củi, ván
gỗ…các nghệ nhân tự đẽo gọt,
cắt xén, dán, ghép thành các nhạc cụ. Tám
giờ tối, buổi “Liên hoan Văn nghệ”
đêm ba mươi Tết bắt đầu. Mở
màn chương tŕnh là bài đồng ca “Như Có Bác”
tôi không nhớ do lán nào tŕnh diễn. Kế
tiếp, người Thiếu Tá Không Quân Hoàng Đ́nh
Ngoạn (K17 VB) lên đài trong tiếng hoan hô vỗ tay
của “đồng bọn” tù Vơ Bị. Anh vừa hát
được nửa bài t́nh ca, nhạc vàng “Mùa Xuân
Trên Đỉnh B́nh Yên” th́ bị “Cán bộ” chặn
lại, đuổi xuống đài. Lư do, “Nhạc
Ngụy ủy mị!” Sau đó, chỉ những bài hát
“giải phóng” được phép tŕnh diễn. Tiếng
sáo trúc Tô Kiều Ngân lâm ly bài “Mùa Xuân Trên Thành
Phố HCM” ḥa ca cùng tiếng sáo miệng của
Nguyễn Tuyên Thùy. Tôi nghe vọng lại từ các khu
khác, đại để, bạn tù cũng chỉ hát
những bài ca eo éo, nghe rợn tóc gáy, như “Cô Gái Vót
Chông,” “Tiếng Đàn Ta Lư,” “Năm Anh Em Trên
Chiếc Xe Tăng” vân vân… Khắp sáu K sáng rực
ánh đèn, vang rền tiếng nhạc… Năm
mới đang từ từ tiến về… Đến
khi màn tŕnh diễn của lán 24 vừa được
giới thiệu, th́ tôi bỏ chạy về lán. Tôi
ngồi một ḿnh trong cái nhà tôle vắng tanh. Nỗi
đau đớn nhói tim tôi! Ngoài
kia, bạn cùng lán của tôi, không tự nguyện,
đang phải đóng vai “dân quân chống Tầu,
chống Tây, chống Mỹ, chống Ngụy” trong
một vở trường kịch. Khi họ tập bài
bản trong lán, tôi biết họ cũng đau ḷng
lắm. Bạn
Vơ Bị của tôi, Tạ Mạnh Huy v́ là Tây lai
phải đóng giả làm Tây cho người ta trói.
Thằng Niếu phải đóng vai BĐQ “Ngụy” giơ
tay đầu hàng để anh Dương Bắc
Kỳ đóng vai ông bô lăo nông dân Việt Nam “đả
đảo”. Mỗi lần tập xong, các bạn tôi
đều buồn, họ đề nghị anh lán trưởng
Trần Thành Trai cho tập một kịch bản
lịch sử “Vua Quang Trung diệt quân Thanh” nhưng
anh lán trưởng không đồng ư. Anh
Trai nói, “ban chỉ huy trại đă ra lệnh” cho anh
phải thực hiện cho được trường
kịch này để mừng Giao Thừa, v́ nó có tính
cách “Lô gích lịch sử”(?). Và đêm ấy, anh
Đội trưởng Trần thành Trai đă thực
hiện thành công xuất sắc vở trường
kịch “Việt Nam 4000 năm anh hùng.” Ngay
sau khi bế mạc buổi văn nghệ mừng xuân Bính
Th́n, mùa xuân đầu tiên của nước
“Việt Nam Thống Nhất” (Mùa xuân đầu tiên
quân và dân Miền Nam mất nước) anh đội
trưởng Trần Thành Trai đă được
“ban Chỉ huy trại tuyên dương công lao” trước
trại. Khi
trên sân khấu người diễn kịch bắt
đầu hát bài “Tiến Quân Ca” th́ tôi bật khóc.
Một ḿnh, ngồi trong đêm tối, tôi nức
nở khóc vùi. Tôi chưa bao giờ thấy cái khóc
lại có hiệu lực chữa đau đớn
hiệu nghiệm như đêm ấy! Chợt tôi nghe
tiếng chân ai ngoài cửa lán. Rối tiếng lên
đạn súng AK… Th́nh
ĺnh, tia đèn pin chiếu ngay mặt tôi, làm mắt tôi
chói lóa. -
“Anh kia! làm ǵ ngồi khóc đấy? Sao không đi
“rự nễ” mừng Xuân?” Tên
bộ đội đi tuần tra lớn tiếng
hỏi. Tôi
lấy tay che mắt, nhưng không nh́n thấy ǵ. Tôi
lặng thinh. Tiếng quát lại tiếp: -
“Anh có mồm không th́ bảo? Câm à? Sao không giả
nhời tôi?” Tôi
vẫn ngồi im. Ánh đèn đảo một ṿng quanh
vách lán rồi tắt. Căn pḥng tối om. Tôi nghe
tiếng chửi: “Địt
mẹ thằng câm! Mới xa nhà có mấy tháng mà đă
nhớ nhà phải khóc. Ông đây xa nhà hai ‘lăm’
rồi mà ông có khóc đâu! Đồ không biết
xấu hổ!” Tôi
vẫn lặng thinh. “Rầm!” “Chảng!” Tên
bộ đội giận dữ, đóng sập cửa
lán. Nó c̣n bồi thêm một cái đá cật lực vào
vách tôle. Vài giây sau, tôi nghe tiếng dép râu bước
đi xa dần về hướng sân. Tôi nh́n đồng
hồ tay (Khi đó chưa có lệnh thu giữ tư
trang của tù) lúc ấy hai cái kim lân tinh chập nhau trên
số 12: Giao Thừa! Ngoài
sân tiếng ca hát c̣n đang tiếp tục. Tôi mồi
một điếu thuốc 555. Trong trí óc tôi, h́nh
ảnh những Giao Thừa đă qua trong đời
hiện về, mờ nhạt như từ thế
giới nào rất xa… Ngày
xưa, mỗi độ Giao Thừa, cho dù lúc đó tôi
đang đi hành quân với một toán Biên Vụ
(Viễn Thám) quân số chỉ có năm người,
lần ṃ trên những nhánh của hệ thống “đường
ṃn Hồ chí Minh” trên đất Lào, hoặc len
lỏi trong rừng tre gai Plei-Trap Valley, hay lúc tôi đang
chỉ huy cả năm, sáu trăm quân trấn giữ
Pleime, hoặc ải địa đầu Bu-Prang
miền biên giới Việt Miên, tôi không lần nào quên
nghe chương tŕnh Giao Thừa của Đài Phát Thanh Quân
Đội. Giao
Thừa Xuân Bính Th́n là Giao Thừa đầu tiên trong
đời, tôi không t́m thấy lá cờ nước tôi,
không nghe được câu hát: “Này công dân ơi! Đứng
lên đáp lời sông núi…” Bài
quốc ca này đă đi vào lịch sử. Một
thế hệ đă hát nó với cả bầu máu nóng
trong tim. Bao nhiêu người thân của tôi, bao nhiêu
bạn bè của tôi đă cống hiến tuổi
trẻ và cả thân xác ḿnh cho bài ca đó. Một
thế hệ đă lớn lên thành người với
bài ca đó. Một
thế hệ sẽ mang theo nó xuống tuyền đài… Chợt
tiếng anh lán trưởng Trần Thành Trai vọng
lại trên loa phóng thanh, “Đổi
đời đă tới! Cách mạng đă thành công!” Tiếng
hô lặp lại hai chữ “Thành công!” của
trại viên vang dội đêm Trừ Tịch. Tôi
cảm thấy tiếng hoan hô đă làm rung những
tấm tôle trên mái. Trời
đêm Trừ Tịch tối đen. Tôi
không biết những vạt đen ẩn hiện sau hè,
là bóng những bụi rau rền, giàn mùng tơi hay
những hồn ma đói cuối năm chập
chờn. Ngoài
xa vẳng lại, từ bên K4, ai đó bắt đầu
hát bài “Lá Đỏ”... *
* * Vài năm sau, tôi nghe tin, cựu Y sĩ Thiếu
tá quân y viện Duy Tân, Đà Nẵng, Trần Thành Trai
đă được tha khỏi trại cải tạo.
Bác Sĩ Trai đă cùng Bác Sĩ Trần đông A,
cựu Y sĩ Thiếu tá Nhảy Dù, nổi tiếng
sau những ca mổ tách rời trẻ song sinh ở Sài
G̣n. Tôi cũng đă nghe tin, giờ này, Bác Sĩ Trai
đang là một “Dân biểu” của “Quốc
Hội nước CHXHCNVN”. Nhân ngày đầu Xuân Ất Dậu (2005), tôi nhớ lại chuyện xưa, ba mươi năm trước. Nhớ những bạn Vơ Bị, cựu tù lán 24 K3 Tam Hiệp. Trong số những người bạn đó, th́ hai người đă qua đời, là Hoàng Thế B́nh và Ngô Văn Niếu. C̣n những bạn khác như Dương, Lành, và Huy th́ đang ở Mỹ, không rơ họ có c̣n nhớ chuyện ngày xưa hay không? Riêng tôi, cái đêm Giao Thừa ba mươi năm trước ấy đă trở thành không thể nào quên, v́ đó là lần đầu trong đời, tôi đón năm mới với thân phận một người tù mất nước…!!! (Seattle,
Lập Xuân) Vương
Mộng Long (K20)
|